Lãnh Diện La Sát Biện Vô Song vùng vẫy ngồi ngay lại, nghiêm mặt nói:
– Tướng công, đừng đánh trống lảng nữa, hãy nói chuyện nghiêm túc…
Quỷ Phủ Thần Công Bách Lý Phong thoáng ngớ người:
– Chuyện nghiêm túc ư?
– Không sai! Chính là chuyện mà thiếp đã đề cập lúc chiều tối hôm nay!
– Lúc chiều tối nàng đã đề cập đến chuyện gì? Hãy nhắc lại xem nào!
– Chiều tối thiếp nói là tướng công đã có cuộc hẹn trung thu tháng tám
với lão tặc Lâm Bách Xuyên, nay bọn lão già chết tiệt của đối phương đã
lần lượt chui ra, cân nhắc thực lực đôi bên…
Quỷ Phủ Thần Công Bách Lý Phong mỉm cười ngắt lời:
– Mỵ nương, nàng nghĩ là bọn lão già chết tiệt ấy võ công cao hơn ta hay sao?
– Đó là sự thật không thể phủ nhận được!
– Nàng nghĩ là Bách Lý Phong này còn là Bách Lý Phong trong quá khứ hay sao?
– Không sai! Trong bao năm qua võ công của tướng công đã tinh tiến rất
nhiều, nhưng chả lẽ kẻ khác không tinh tiến hay sao? Bách Lý Phong cười
bí ẩn, bỗng lái sang chuyện khác nói:
– Mỵ Nương, nàng có biết nguyên nhân gì đã khiến lão thất phu Từ Nguyên đột nhiên quy ẩn không? Biện Vô Song cười khảy:
– Ai mà không biết nguyên nhân quy ẩn của lão tặc ấy là vì Trầm Tố Quyên thay lòng đổi dạ yêu người khác! Bách Lý Phong cười:
– Sai rồi! Mỵ Nương, những sự việc trên đời mà mọi người cho rằng đúng, chưa chắc là đúng hoàn toàn…
Biện Vô Song lạnh lùng ngắt lời:
– Hãy nói ra sự thật đi!
– Nàng cho là luận về võ công cá nhân, trong võ lâm đương kim, Từ Nguyên
đáng kể được là vô địch thiên hạ ư? Biện Vô Song thẳng thắn:
– Ít ra cũng hơn tướng công! Bách Lý Phong cười hăng hắc:
– Sự thật hoàn toàn trái ngược…
Biện Vô Song tức giận:
– Khi xưa lúc Từ Nguyên càn quét Thất Tinh Giáo, người đã thoát chết là ai? Bách Lý Phong mỉm cười:
– Dĩ nhiên là Bách Lý Phong rồi!
– Vậy mà tướng công lại còn nói khoác, không thấy xấu hổ sao?
– Vậy theo nàng thì sao?
– Người ta nói chuyện nghiêm túc, tướng công lại cứ nói chuyện vớ vẩn đâu đâu, thật ra là ý gì chứ? Bách Lý Phong cười:
– Chuyện trước mắt không còn gì nghiêm túc hơn nữa… Mỵ Nương, ta hỏi
nàng, theo nàng thì một người đã chết, còn có thể sống lại hay không?
– Theo tướng công thì một người có thể chết bao nhiêu lần?
– Nàng biết ta là ai không? Biện Vô Song toàn thân rúng động:
– Tướng công… không phải là Quỷ Phủ Thần Công Bách Lý Phong ư?
– Mỵ Nương, nàng vừa mới nói là con người chỉ có thể chết một lần, Quỷ
Phủ Thần Công Bách Lý Phong đã chết dưới Tử Anh Kiếm của Từ Nguyên rồi,
làm sao có thể có Bách Lý Phong thứ hai chứ? Biện Vô Song sửng sốt:
– Vậy thật ra tướng công là ai?
– Ta là ai, lát nữa nàng sẽ biết! Bây giờ ta hỏi nàng, đây có kể được là
một việc quan trọng ngoài sức tưởng tượng của nàng hay không?
– Ườm…
– Mỵ Nương, nàng có biết trong Dân Sơn có một Huyễn Ba Trì hay không?
– Có nghe nói!
– Chủ nhân Huyễn Ba Trì là Vân La Tiên Tử Liễu Song Thành, không ai biết
chính xác tuổi tác bao nhiêu, võ công chẳng những siêu phàm nhập thánh,
mà còn đến cảnh giới nửa tiên nửa phàm…
Biện Vô Song hiển nhiên lòng hết sức bất mãn bởi hai người quen biết đã lâu mà đối phương lại
giấu giếm thân phận từ đó đến nay, nên không chờ đối phương nói hết đã
lạnh lùng ngắt lời:
– Vân La Tiên Tử Liễu Song Thành đã không
màng đến chuyện giang hồ từ lâu, lúc này tại đây, đề cập đến chuyện vớ
vẩn đó làm gì kia chứ? Bách Lý Phong dĩ nhiên hiểu rõ hàm ý trong lời
nói của đối phương, nghe vậy cười nhạt nói:
– Mỵ Nương, hãy lượng thứ cho ta, sự thật trên cõi đời không thể bảo mật hơn hết là miệng đàn bà, cho nên…
– Giờ thì không cần phải bảo mật nữa chứ gì?
– Không sai! Bây giờ không cần bảo mật nữa, vừa rồi nàng nói rất đúng,
phái Huyễn Ba Trì chuyên học về đạo thần tiên, không tiện để cho ân oán
của trần thế quấy nhiễu, nên môn hạ tuyệt đối không được can thiệp vào
chuyện giang hồ, nên đệ tử được thu nhận cũng khác với người võ lâm
thông thường, trước hết là phải thân thế trong sạch, không vướng mắc đến ân oán, thứ đến mới là tư chất bỉnh phú…
Biện Vô Song bực mình ngắt lời:
– Quá là lạc đề rồi!
– Giờ nói đến chính đề đây… Do đó, Vân La Tiên Tử Liễu Song Thành cả
thảy chỉ có ba đồ đệ, hai nam một nữ, thủ đồ Thượng Quan Ngọc, thứ đồ
Bách Lý Vân, tam đồ Tống Thái Vân. Thượng Quan Ngọc chính là người đã
cưỡi hạc mang Bạch Mẫn đi. Tống Thái Vân đã trở thành phu nhân của Thiên Huyễn Thư Sinh Công Dã Du. Người đàn bà ấy cá tính đặc dị, có tên là
“Yêu Nữ”, trong ba vị đồ đệ của Huyễn Ba Trì, tuy võ công của y thị kém
nhất, nhưng sở học lại uyên bác hơn hết, rất tinh tường về chiêm tinh,
xem tướng, bói toán và y học…
Biện Vô Song xen lời:
– Huyễn Ba Trì đã có môn quy không được can thiệp chuyện trong giang hồ, vậy Tống Thái Vân sao lại…
Bách Lý Phong cười:
– Nàng hỏi rất có lý, có điều là nguyên nhân lôi cuốn vào chốn giang hồ
của Tống Thái Vân không nằm trong câu chuyện lúc này. Hơn nữa, môn hạ
của Huyễn Ba Trì chỉ cần bước chân vào chốn giang hồ là đã thoát ly quan hệ với Huyễn Ba Trì, mà sự thật thì trong ba vị đồ đệ của Vân La Tiên
Tử Liễu Song Thành, đã có hai người bị lôi cuốn vào thị phi của giới
giang hồ rồi.
Biện Vô Song động tâm:
– Ý tướng công là còn có Thượng Quan Ngọc nữa ư? Bách Lý Phong cười bí ẩn:
– Không phải Thượng Quan Ngọc, mà là Bách Lý Vân và cũng chính là kẻ này đây!
– Thì ra tướng công là người xuất thân từ Huyễn Ba Trì, thảo nào cả Thiết Thủ Thư Sinh Từ Nguyên cũng chẳng xem ra gì! Bách Lý Vân cười đắc ý:
– Cũng chưa chắc là chẳng xem Từ Nguyên ra gì, nhưng giữa hai người có điều úy kỵ lẫn nhau, đó là sự thật!
– Theo như tướng công vừa nói, hiện tướng công cũng không còn là môn hạ của Huyễn Ba Trì nữa phải không?
– Đúng vậy!
– Vậy vì sao tướng công lại thoát ly Huyễn Ba Trì? Bách Lý Vân nghiến răng:
– Mỵ Nương, nàng có biết Bách Lý Phong là gì của ta không? Biện Vô Song vỡ lẽ:
– À! Thiếp hiểu rồi, hai người cùng họ Bách Lý, mặt cũng hao hao, vậy
tướng công hẳn là huynh đệ của Bách Lý Phong rồi! Bách Lý Vân gật đầu:
– Không sai, ta với Bách Lý Phong chẳng những là huynh đệ, mà còn là huynh đệ song sinh.
– Chính vì mối quan hệ như vậy nên tướng công mới bắt buộc phải thoát ly
Huyễn Ba Trì để tiện bề báo thù cho Bách Lý Phong phải không?
–
Phải! Chính vì nguyên nhân ấy nên lão tặc Từ Nguyên mới bắt buộc phải
viện lý do là vì phu thê tình cảm tan vỡ, ngán ngẩm trần thế mà tiềm ẩn
thâm sơn, nhưng sự thật thì lại là tu luyện thần công gì đó hầu ứng phó
với sự báo thù của ta.
Biện Vô Song khẽ thở dài:
– Đây quả là chuyện chưa từng nghe bao giờ, nhưng Bách Lý Phong là huynh trưởng của tướng công hay…
Không chờ đối phương hỏi hết câu, Bách Lý Vân đã tiếp lời:
– Bách Lý Phong ra đời trước ta nửa giờ, là huynh trưởng của ta!
– Trong giới võ lâm rất ít ai biết chuyện bí mật này phải không?
– Đúng vậy! Ngoại trừ Vân La Tiên Tử Liễu Song Thành với ba vị đồ đệ, chỉ còn một Từ Nguyên là biết nội tình mà thôi.
– Khi nãy tướng công nói là định đưa thiếp đến một nơi bí mật, đó thật ra là nơi nào vậy? Bách Lý Vân đưa mắt nhìn ra bầu trời ngoài cửa sổ, mỉm
cười nói:
– Mỵ Nương, chúng ta đi được rồi! Bây giờ ta có thể nói vắn tắt, nơi chúng ta sẽ đến là một sơn động kỳ lạ, Bạch Dương Chân
Nhân viễn tổ của Huyễn Ba Trì đã cất giấu ba món bảo vật võ lâm trong
sơn động ấy, người có được chẳng những có thể xưng bá võ lâm, mà còn có
thể trở thành thần tiên…
– Nói thì nghe hấp dẫn lắm, nhưng Bạch Dương Chân Nhân ấy e đã phi thăng cả ngàn năm rồi, cho dù tin ấy đáng
tin cậy đi nữa, ba món bảo vật ấy e đã bị kẻ khác lấy mất từ lâu rồi!
Bách Lý Vân cười:
– Mỵ Nương, về thời gian nàng đã nói đúng, ba
món bảo vật do Bạch Dương Chân Nhân cất giấu đến mồng năm tháng năm là
vừa tròn một ngàn năm, mà các cơ quan phong tỏa sơn động do Bạch Dương
Chân Nhân bố trí đến chính ngọ ngày ấy cũng tự động mất tác dụng, nhưng
về các mặt khác thì nàng đã nghĩ sai rồi…
Bách Lý Vân cố ý ngưng lời, cười bí ẩn không chịu nói tiếp.
Biện Vô Song giận dỗi nói:
– Thôi đừng úp mở nữa, nói mau đi! Bách Lý Vân mỉm cười:
– Ba món bảo vật cất giấu của Bạch Dương Chân Nhân, ngoại trừ môn hạ của
Huyễn Ba Trì, kẻ khác không hề biết, và sơn động cất giấu bảo vật bởi bị phong tỏa nên bề ngoài hệt như là vách núi, quanh năm mây mù bao phủ,
đừng nói người ngoài không sao biết được, mà dù biết thì cũng chỉ vô
vọng đứng nhìn, làm sao có người lấy đi trước kia chứ? Biện Vô Song
dường như vẫn chưa phục hỏi:
– Cứ cho là đúng như tướng công đã
nói đi, chả lẽ Vân La Tiên Tử Liễu Song Thành cũng ngồi nhìn bảo vật bổn môn lọt vào tay người ngoài hay sao? Bách Lý Vân cười:
– Nương
tử lại nói sai rồi, ba món bảo vật ấy có thể nói là chẳng có chút giá
trị gì đối với Huyễn Ba Trì, huống hồ Bạch Dương Chân Nhân đã có để lại
di chúc, ba món bảo vật ấy chỉ sau khi mãn hạn ngàn năm phong tỏa thì
người có duyên mới lấy đi được, nên lẽ dĩ nhiên Vân La Tiên Tử Liễu Song Thành chẳng tiện xen vào rồi!
– Vậy là ba món bảo vật ấy đã chắc chắn thuộc về tướng công rồi!
– Không sai, mặc dù hãy còn Từ Nguyên với Tống Thái Vân chắc chắn cũng
đến đó, nhưng ta đã có cách đối phó với họ, chẳng có gì đáng lo cả.
Biện Vô Song ngạc nhiên:
– Thiết Thủ Thư Sinh Từ Nguyên đâu phải là môn hạ Huyễn Ba Trì, sao lão
ta cũng biết điều bí mật ấy vậy? Bách Lý Vân khẽ thở dài:
–
Chuyện ấy kể ra là phải trách Thượng Quan Ngọc đã đa sự, khoảng trăm năm trước, ba sư huynh muội bọn ta dạo chơi Thiên Trì đã ngẫu nhiên gặp Từ
Nguyên, lúc bấy giờ mọi người đều còn trẻ tuổi, mến tài lẫn nhau, bèn
tán gẫu đủ chuyện thiên nam địa bắc, Thượng Quan Ngọc cũng thổ lộ luôn
cả điều bí mật ấy, nghĩ lại thật tức chết đi được! Biện Vô Song thoáng
trầm ngâm:
– Đã có kình địch như Từ Nguyên, vậy tướng công sao dám nói chuyến đi này chắc chắn…
Bách Lý Vân thoáng chau mày:
– Từ Nguyên tự mệnh là đại biểu của giới hiệp nghĩa, đối phó với y không
cần dùng võ lực, chỉ bằng vào ba tấc lưỡi là được rồi. Điều rắc rối hơn
chính là ả yêu phụ Tống Thái Vân, ta mong là y thị đã quên mất chuyện
ấy, không tham gia vào cuộc.
Đoạn thở ra một hơi dài, nói tiếp:
– Mỵ Nương, thời gian không còn sớm nữa, hiện cách tiết Đoan Ngọ tuy còn
đến những hai mươi ngày, nhưng đường xá xa xôi, chúng ta đi sớm thì hơn!
-oOo-
Ngọn cổ tùng cao ngút mây ở bên phải Thiên Tâm Cốc trên đỉnh núi vẫn sừng
sững đứng đó, nhưng Thiên Tâm Cốc đã người đi cốc trống.
Khi
Trình Lập Dân với tâm trạng phấn khởi và lại não nề cùng với Hồ Băng
Ngọc theo con đường bí mật trong ruột cổ tùng đi vào chỗ ẩn cư của Thiết Thủ Thư Sinh Từ Nguyên, vừa nhìn thấy cảnh tượng trong cư thất, hai
người bất giác đứng thừ ra tại chỗ.
Chỉ thấy trong cư thất tất cả đều như trước, nhưng chẳng còn bóng dáng của Thiết Thủ Thư Sinh nữa.
Trình Lập Dân lẩm bẩm:
– Lạ thật…
Hồ Băng Ngọc tiếp lời:
– Tịnh thất này không có chút bụi bặm và các loại thực phẩm trong nhà bếp cũng còn rất mới, hiển nhiên là sư công có việc ra ngoài, chắc chắn
chưa rời khỏi đây…
Trình Lập Dân mày kiếm chau chặt:
– Ngọc tỷ nói đành rằng không sai, nhưng đệ có linh cảm là ân sư phen này ra ngoài hẳn có chuyện gì đó…
Hồ Băng Ngọc ngắt lời:
– Khoan nghĩ vớ vẩn đã, chúng ta thử tìm xem lão nhân gia ấy có để lại huấn thị hay không? Trình Lập Dân cười áo não:
– Lão nhân gia ấy chưa chắc biết đệ có ngày trở về đây, làm sao mà để lại huấn thị kia chứ? Chàng tuy miệng phản bác ý kiến của Hồ Băng Ngọc,
song lại tìm kiếm hết sức kỹ lưỡng.
Nhưng bàn sách, đầu giường… mọi nơi có khả năng để lại huấn thị đều đã tìm kỹ, chẳng những không
thấy một mảnh giấy nào, mà ngay cả một số sách quan trọng cũng đã biến
mất.
Trình Lập Dân thở dài thậm thượt:
– Xem ra lão nhân
gia ấy không bao giờ trở về đây nữa rồi! Nhưng có điều về việc để lại
những thực phẩm này thì thật là khó hiểu…
– Lão nhân gia ấy còn có tịnh thất luyện công khác nữa không?
– Lão nhân gia ấy không có tịnh thất nào khác, chỉ có một gian luyện công thất, đệ cũng đã từng sử dụng.
– Đi, hãy đến luyện công thất xem thử! Trình Lập Dân gật đầu, xoay chốt
ngầm của luyện công thất, vách đá bên trái lập tức từ từ di chuyển, hiện ra một cửa ra vào.
Hai người cùng đi vào luyện công thất, bên
trong cũng trống huếch, Hồ Băng Ngọc vừa đi đến bên chiếc giường đá, vừa ngạc nhiên nói:
– Dân đệ, trong này nguyên là như vậy hay sao?
Lúc này, Trình Lập Dân lòng ngập đầy những hình ảnh trong dĩ vãng, đang
vô vàn cảm khái, nghe vậy chỉ khẽ “ườm” một tiếng.
Nhưng Hồ Băng Ngọc lại kêu lên một tiếng sửng sốt, bước nhanh đến gần bên giường, cầm một phong thư lên và nói:
– Dân đệ hãy xem…
Trình Lập Dân rúng động tâm thần, lập tức tung mình đến bên Hồ Băng Ngọc,
thấy trên phong bì chính là bút tích của ân sư và chính là để lại cho
chàng.
Chàng cẩn thận xé miệng phong bì, lấy thư ra, chỉ thấy như rồng bay phượng múa viết: “Dân nhi, sư phụ biết vài hôm nữa ngươi sẽ
trở về đây, nhưng sư phụ vì phải ra đi bởi sự triệu mời của Liễu Tiên Tử ở Huyễn Ba Trì, không thể chờ ngươi được.
Thời gian gần đây,
thành tựu của ngươi đã vượt qua dự liệu của sư phụ, sư phụ rất kiêu hãnh có được một đồ đệ như ngươi! Đồng thời, sư phụ cũng tin là ngươi chắc
chắn sẽ không tự mãn bởi lời khen của sư phụ, hoặc chểnh mảng lòng cầu
tiến…”.
Hồ Băng Ngọc nghiêng mặt nhoẽn cười nói:
– Không sai, sư công khen đệ rất là đúng! Trình Lập Dân đỏ mặt:
– Ngọc tỷ đừng cười đệ, hãy xem tiếp đi! “… Tuy nhiên, thành tựu về mặt tình trường của ngươi dừng như cũng vượt qua sư phụ khi xưa, mong ngươi hãy tự thận trọng và chúc những người hữu tình các ngươi thảy đều trở
thành thân thuộc.
Sư phụ tuy không còn màng đến chuyện trong giới giang hồ, nhưng về những động thái giang hồ, nhất là mọi sự về ngươi,
sư phụ đều biết rõ như lòng bàn tay, điều đáng ân hận là về chuyện của
sư mẫu ngươi, gần đây sư phụ mới hiểu rõ nội tình.
Mọi sự đã trở
thành quá khứ, không cần nhắc đến nữa! Di thư của sư mẫu ngươi, ngươi
hãy tạm cất giữ, mai kia gặp nhau ngươi hẵng đưa cho sư phụ.
Hãy
đối xử tử tế với Ngọc nhi, cũng như một vị sư tỷ do sư phụ đích thân đào tạo và giao cho ngươi trông nom, mọi ân oán đời trước đã kết thúc, đừng để cho sư mẫu ngươi không yên lòng nơi chín suối…”.
Hồ Băng
Ngọc, mắt rướm lệ, người thoáng run rẩy nép vào lòng Trình Lập Dân,
Trình Lập Dân cũng mắt ươn ướt vòng tay ngang lưng Hồ Băng Ngọc, ôm chặt lấy nàng, hai người đều im lặng…
Đó là sự giao lưu tình cảm, là tiếng nói của con tim…
Một hồi thật lâu, Hồ Băng Ngọc mới khẽ thở dài nói:
– Dân đệ, hãy xem tiếp đi! “… Giờ đây, có một nhiệm vụ rất quan trọng
giao cho ngươi, trong luyện công thất này có ba chiêu kiếm pháp tinh
nghiên của sư phụ, ngươi đã biết chỗ cất giấu rồi, ngươi với Ngọc nhi
trong vòng bảy ngày phải luyện ba chiêu kiếm pháp ấy đến mức đắc tâm ứng thủ, sau đó hãy đến địa điểm chỉ định ở cuối kiếm quyết trước mồng năm
tháng năm, khi đến nơi sẽ có người cho ngươi biết rõ lý do.
Thanh Minh Kiếm hiện đã ở trong tay Ngọc nhi, từ nay cứ giao cho Ngọc nhi bảo quản, hai bảo kiếm Tử Anh và Thanh Minh nay đã hợp bích, hiển nhiên đã
đến ngày càn quét yêu khí võ lâm! Hãy ghi nhớ, đừng phụ danh hiệu Thiết
Thủ Thư Sinh! Sư phụ, ngày x tháng x năm x”.
Ngày viết thư là hai hôm trước, Hồ Băng Ngọc khẽ thở dài nói:
– Dân đệ, phải chi chúng ta đến sớm hơn hai ngày thì tốt biết mấy! Trình Lập Dân mỉm cười:
– Ngọc tỷ muốn gặp lão nhân gia ấy phải không?
– Đương nhiên rồi!
– Ngày ấy hẳn không lâu lắm đâu! Trình Lập Dân dứt lời, đưa ta ấn vào
phía trong giường đá, chiếc giường liền từ từ chuyển dịch sang bên, mặt
đất hiện ra một hang động đường kính khoảng năm tắc.
Hồ Băng Ngọc mắt nhìn Trình Lập Dân từ trong hang động lấy ra một cuộn da dê, rồi
chuyển dịch giường đá trở về vị trí cũ xong, nàng mới hỏi:
– Đây
chính là kiếm quyết của sư công để lại phải không? Trình Lập Dân gật
đầu, mở cuộn da dê trong tay ra, chỉ thấy ngoài hình vẽ kiếm thức, yếu
quyết và một bức địa đồ sơ lược, còn có hai giòng chữ to: “Kiếm phát
Phong Lôi Tam Thức này một khi thi triển, trừ phi đối thủ công lực thâm
hậu hơn người sử dụng kiếm pháp này rất nhiều, chắc chắn khó thể thoát
chết, hãy hết sức thận trọng trong khi sử dụng, chớ vọng khai sát giới
mà trái với lẽ trời!”.
Hồ Băng Ngọc xem xong, quay sang Trình Lập Dân nghiêm mặt nói:
– Dân đệ, ba chiêu kiếm pháp này tinh diệu phi thường, chúng ta phải ngày đêm không nghỉ thì trong bảy ngày mới có thể luyện được đến mức đắc tâm ứng thủ, giờ tỷ phải đến nhà bếp làm chút thức ăn…
Trình Lập Dân ngắt lời:
– Không, chúng ta cùng đi! Hai người sóng vai cất bước, trên đường, Hồ Băng Ngọc nghiêng mặt nói:
– Dân đệ, địa đồ ở phần cuối kiếm phổ là nơi nào vậy?
– Thiên Đô Phong trong Hoàng Sơn!
-oOo-
Mười ngày sau, vào lúc hoàng hôn, tại Đại Đô Khẩu nằm trên bờ nam Trường
Giang đã xuất hiện một đôi thiếu niên nam nữ anh tuấn phi phàm, đó chính là Trình Lập Dân với Hồ Băng Ngọc từ Thiên Tâm Cốc Phục Ngưu Sơn đi đến Hoàng Sơn ở Hoàng Nam.
Đại Đô Khẩu tuy là cửa ngõ chính yếu dẫn
đến Trường Giang, những người trẻ đẹp như Trình Lập Dân với Hồ Băng Ngọc cũng rất hiếm thấy, nên khi hai người chậm bước đi trên phố, đã thu hút mọi ánh mắt của những người đi đường.
Nhưng tình cảnh ấy đã quá quen thuộc đối với Trình Lập Dân và Hồ Băng Ngọc, chẳng có gì là lạ.
Tuy nhiên, một nữ ni trung niên đi theo sau hai người và luôn giữ khoảng
cách cừng ba trượng thì như là cố ý bám theo họ, chẳng thể không khiến
hai người cảm thấy ngạc nhiên.
Nữ ni ấy mặc tang y màu đen, dáng
người trung bình, sắc mặt trắng bệch, trong ký ức của hai người dường
như chưa từng gặp bao giờ, nhưng dù vậy, hai người cũng chẳng thể không
ngầm đề cao cảnh giác.
Chuyến đi này của hai người là phụng mệnh
ân sư đến Hoàng Sơn, vì lúc này không còn cách Hoàng Sơn bao xa nữa,
thừa thời gian để đến Thiên Đô Phong vào ngày năm tháng năm, nên hôm nay hai người đã ăn uống sớm và tranh thủ thời gian thụ hưởng một buổi
hoàng hôn vui thú ở bên bờ sông.
Lúc này, mặc dù phát hiện có người theo dõi, nhưng hai người tự tin vào võ công hiện nay của mình, chẳng chút lo sợ.
Thế nên, hai người ngoại trừ một lần đưa mắt nhìn nhau hiểu ý, vẫn điềm nhiên chuyện trò với nhau, tiếp tục đi về phía bờ sông.
Trong khi ấy, ni cô áo đen vẫn theo sau hai người và giữ khoảng cách chừng ba trượng.
Khi hai người băng qua một bải phi lao, đã đến bờ sông, ni cô áo đen vẫn chẳng chút kiêng dè theo sau đến nơi.
Trình Lập Dân nháy mắt ra hiệu với Hồ Băng Ngọc, Hồ Băng Ngọc vụt quay người, mắt nhìn ni cô áo đen lạnh lùng nói:
– Sư thái theo sau bọn này, có điều gì chỉ giáo? Ni cô áo đen thản nhiên
đi đến trước mặt hai người, chắp tay thi lễ và niệm phật hiệu:
– A Di Đà Phật! Bần ni cố ý theo dõ là sự thật, nhưng bờ sông này cũng là
mục đích đến của bần ni, xin thí chủ chớ trách tội! Hồ Băng Ngọc cười
khảy:
– Sư thái là cao nhân phật môn, hẳn biết người trong phật
môn cấm không được nói dối, sư thái đã thừa nhận là cố ý theo dõi, hà
tất còn phải ngụy tạo một lý do không chút cao minh như vậy? Ni cô áo
đen thản nhiên cười:
– Thí chủ trách tuy có lý, nhưng lời nói của bần ni vừa rồi cũng hoàn toàn là sự thật! Trình Lập Dân mặc dù trong
lòng cảm thấy ni cô áo đen này hành tung khả nghi, nhưng trực giác thì
lại nhận thấy đối phương không có ác ý, sợ Hồ Băng Ngọc càng nói càng
căng thẳng, bèn lên tiếng hỏi:
– Tiểu sinh tin là sư thái nói
thật, kính xin sư thái thẳng thắn cho biết dụng ý! Ni cô áo đen ánh mắt
trong sáng nhìn Trình Lập Dân nói:
– Thí chủ có phải là Thiết Thủ Thư Sinh Trình Lập Dân thiếu hiệp danh chấn giang hồ không? Trình Lập Dân gật đầu:
– Không dám, tiểu sinh chính là Trình Lập Dân! Ni cô áo đen mắt thoáng qua vẻ kỳ lạ, quay sang Hồ Băng Ngọc hỏi:
– Còn vị nữ thí chủ này là ai?
– Là Hồ Băng Ngọc, sư tỷ của tiểu sinh!
– Vậy là hai vị không phải người ngoài, bần ni có thể bày tỏ nỗi niềm
rồi! Hồ Băng Ngọc nhướng mày, hé môi định nói, nhưng ni cô áo đen đã mỉm cười tranh trước nói:
– Những điều bần ni muốn nói không thể vắn tắt trong đôi ba câu, hai vị thí chủ hãy ngồi cạm xuống đây! Đoạn liền
tự ngồi xuống trên một hòn đá trước.
Hồ Băng Ngọc đang muốn tranh thủ thời gian cùng người yêu hưởng thụ một buổi hoàng hôn vui vẻ, chẳng ngờ lại bị ni cô áo đen này xen vào, vừa rồi định bắt bẻ đối phương mấy câu, lại bị đối phương nói cho đuối lý, tức càng thêm tức, lẽ ra theo
cá tính của nàng là phải phác tác ngay, nhưng đã bị Trình Lập Dân nháy
mắt ngăn cản, đành dẩu môi ngồi bệt xuống đất, nhưng cố ý ngoảnh mặt đi, nhìn ra ngoài sông nước, tỏ thái độ mặc nhiên chống đối.
Ni cô áo đen mắt nhìn Trình Lập Dân ngồi đối diện nói:
– Trình thí chủ có lẽ còn chưa rõ lắm về thân thế của mình phải không? Trình Lập Dân bất giác rúng động cõi lòng:
– Chả lẽ sư thái biết rõ thân thế của tiểu sinh ư? Ni cô áo đen gật đầu một cách khẳng định:
– Không sai! Trình Lập Dân thoáng chau mày:
– Nhưng theo như tiểu sinh biết, trên cõi đời này chỉ có ba người là biết rõ thân thế thật sự của tiểu sinh…
Ni cô áo đen tiếp lời:
– Trong ba người ấy, một là Cao Tố Tố, hộ pháp của Độn Thế Cung, một là
Thiết Tý Kim Long Trình Trấn Nam, còn một người là Phong Sát Thần có tên là Chí Hoằng, đúng không nào? Trình Lập Dân ngạc nhiên:
– Sư thái sao biết vậy? Ni cô áo đen mỉm cười:
– Chính Cao Tố Tố đã cho bần ni biết và cũng chính Cao thí chủ nhờ bần ni chuyển cáo nội tình với Trình thí chủ.
Hồ Băng Ngọc tuy tính bướng bỉnh, song cũng rất thẳng thắn, vừa nghe nói
ni cô áo đen này là được người nhờ đến đây nói rõ thân thế của người
yêu, ý nghĩ thù địch lập tức tiêu tan hết, quay người lại nói:
– Phải chi sư thái sớm nói ra dụng ý thì đâu… thì đâu…
Ni cô áo đen mỉm cười tiếp lời;
– Thì đâu xảy ra chuyện làm cho thí chủ tức giận chứ gì? Hồ Băng Ngọc bị
đối phương nói đúng nỗi lòng, bất giác ngượng ngùng, giả vờ giận dỗi lừ
mắt nói:
– Sư thái… ai… ai mà tức giận kia chứ? Ni cô áo đen cười nhạt:
– Không tức giận thì tốt, nhưng bần ni phen này tuy quấy rầy nhã hứng du
ngoạn của hai vị thí chủ, nhưng chuyến đi này cũng có được sự đền bù,
chẳng những khám phá ra thân thế của Trình thí chủ, mà lát nữa đây hãy
còn có tiết mục thú vị hơn nữa! Hồ Băng Ngọc nghe vậy, lòng hiếu kỳ bất
giác bừng dậy, xoe tròn mắt hỏi:
– Sư thái, còn có tiết mục thú vị gì vậy? Ni cô áo đen cười bí ẩn:
– Thiên cơ chưa tiện tiết lộ, xin hãy nghe bần ni thư thả nói đã! Trình Lập Dân xen lời hỏi:
– Sư thái có thể cho biết pháp hiệu chăng? Ni cô áo đen khẽ niệm phập hiệu:
– A Di Đà Phật! Bần ni pháp hiệu Bách Liễu, danh tuy là “Bách Liễu”,
nhưng trên thực tế thì những việc chưa kết liễu lại nhiều vô số kể.
Ngưng chốc lát, khẽ thở dài nói tiếp:
– Tuy nhiên, ngày trăm việc kết liễu thật sự… cũng không còn bao xa nữa…
Lúc này, ráng chiều phía trời tây đã phai nhạt, sương đêm đã dần phủ trùm
mặt đất, ni cô áo đen mắt nhìn ra giòng nước mông lung, tiếng nói như xa vời và u oán, như trả lời Trình Lập Dân, lại như vô vàn cảm khái nói
một mình.
Trình Lập Dân như là một câu nói lễ phép của mình đã
khơi dậy vết thương lòng của đối phương, lòng hết sức áy náy, cười
ngượng ngùng nói:
– Xin hỏi sư thái, sư thái đã gặp Cao tiền bối lúc nào vậy? Bách Liễu sư thái thoáng giật mình:
– Chưa bao lâu, chỉ ba ngày trước thôi!
– Vậy Cao tiền bối bây giờ ở đâu? Bách Liễu sư thái thở dài não nuột:
– Bần ni không biết!
– Lão nhân gia ấy không nói về hành tung của mình ư?
– Vâng!
– Lúc sư thái gặp lão nhân gia ấy, cũng có thấy vị Phong Sát Thần có tên là Chí Hoằng ư?
– Vâng! Phong Sát Thần đi cùng với Cao thí chủ!
– Bệnh trạng của Phong Sát Thần có thuyên giảm không?
– Trình thí chủ khoan hỏi đã, để bần ni nói rõ thân thế của thí chủ xong, mọi sự cũng sẽ rõ…
Bách Liễu sư thái ngẫm nghĩ một hồi mới nói tiếp:
– Nội tình sự việc này tuy phức tạp, nhưng tóm lại cũng rất đơn giản.
Bà từ từ thu hồi ánh mắt trên mặt sông, nhìn Trình Lập Dân nói tiếp:
– Để tiện bề tường thuật, về mặt xưng hô bần ni phải bỏ bớt sáo tục, xin thí chủ chớ trách tội.
Trình Lập Dân nghiêm mặt:
– Sư thái cứ tùng quyền, tiểu sinh không chấp nhất đâu! Thế là, Bách Liễu sư thái chậm rãi kể:
– Thiết Tý Kim Long Trình Trấn Nam với Cao Tố Tố với Phong Sát Thần Trình Chí Hoằng thì là một đôi tình nhân thanh mai trúc mã và Trình Chí Hoằng với Trình Trấn Nam lại là đường huynh đệ xa, kể ra thì mối quan hệ giữa ba người cũng khá sâu đậm.
Nhưng tạo hóa trớ trêu, đã diễn biến đến cục diện bẽ bàng về sau, cũng chỉ có thể quy cho ý trời mà thôi.
Trình Trấn Nam luôn kề cận với sư muội Cao Tố Tố xinh đẹp như hoa, năm dài
tháng rộng dĩ nhiên không khỏi thầm sinh lòng thương yêu.
Nhưng
Cao Tố Tố tình trót đã gửi trao người khác, tuy thương hại mối si tình
của sư huynh, nhưng không thể thay lòng đổi dạ, Trình Trấn Nam cũng chỉ
đành phải thầm yêu trộm nhớ mà thôi.
Chẳng may ngay khi ấy, phụ thân của Trình Chí Hoằng bị Hãng Nguyên Cát sát hại.
Hãng Nguyên Cát đó chính là Bát Chỉ Thần Đà trong Thái Cực Giáo ngày nay.
Trình Chí Hoằng nóng lòng báo phục phụ thù, nhưng nhận thấy võ công của mình
lúc bấy giờ chưa phải là đối thủ của Hãng Nguyên Cát, bèn một mình ra
tận hải ngoại tìm danh sư học võ, lúc sắp chia tay đã dặn dò Cao Tố Tố,
nếu sau năm năm mà ông ấy không trở về thì hãy kết duyên với sư huynh để khỏi lỡ mất tuổi xuân của Cao Tố Tố.
Nhưng năm năm sau, Trình Chí Hoằng chẳng những không trở về mà còn biệt vô âm tím.
Cao Tố Tố quá nóng lòng lo lắng, đã xin phép sư phụ đích thân bước chân vào chốn giang hồ tìm kiếm, tin tức thu lượm được là Trình Chí Hoằng đã
táng mạng dưới tay kẻ thù rồi.
Cao Tố Tố quá thương tâm tuyệt
vọng, dưới sự an ủi tận tình của Trình Trấn Nam và sự tác hợp của sư
phụ, nên ba năm sau khi hay tin Trình Chí Hoằng đã chết, Cao Tố Tố đã
thành hôn với Trình Trấn Nam.
Bách Liễu sư thái buông tiếng thở
dài rồi ngưng lời, ánh mắt mơ màng lần lượt quét nhìn lên mặt Trình Lập
Dân và Hồ Băng Ngọc, lại đưa mắt nhìn ra sông, giọng não nề hỏi:
– Hai vị thí chủ hãy với lập trường khách quan đơn thuần mà bình luận
xem, hành động ấy của Cao Tố Tố có kể được là phụ bạc Trình Chí Hoằng
hay không? Trình Lập Dân vớihbn cơ hồ đồng thanh đáp:
– Không, không kể được là phụ bạc!