Ôn Hương Diễm Ngọc

Chương 42: Mệnh hại người thân



*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Chương 42: Mệnh hại người thân

Edit: Tô

Beta: Yuyu

_______________

Chỉ trong một đêm mà tin tức Dục vương phi sắp lấy chồng bỗng dưng qua đời đã được lan truyền khắp thành. Nghe tin xong, ngoài việc thở dài cảm thán một câu tiếc thương, hầu hết mọi người đều bàn tán về tin đồn khắc vợ của Dục vương điện hạ.

Hai lần trước có thể nói chỉ là trùng hợp, nhưng sau khi chuyện tương tự xảy ra đến lần thứ ba thì bây giờ ai cũng tin Lăng Kỳ Yến mang mệnh khắc vợ bẩm sinh thật!

Y phái quản gia tới phủ Kính Quốc công chia buồn thay mình, ngay cả Thái hậu cũng sai đại thái giám cung Ninh Thọ qua đó một chuyến. Chắc Hoàng đế cảm thấy đúng là con trai mình khắc chết con gái người ta nên phá lệ truy tặng chức Quận chúa cho tiểu thư nhà họ Lâm rồi mới chôn cất, còn nâng chức cho cháu trai trưởng dòng chính bên ấy nhằm vỗ về dẹp yên oán hận muốn trút giận sang Hoàng thất của họ. Sau tết, lúc Quận chúa Tích Hoa lấy chồng đã không còn ai nhắc lại chuyện đó nữa.

Nhưng các phủ ở kinh thành đều sống trong nơm nớp lo lắng suốt khoảng thời gian này, nhà nào có con gái đến tuổi cập kê sẽ rốt rít đính hôn cho chúng ngay do sợ bị Thái hậu và Hoàng đế nhắm trúng rồi ép gả cho Dục vương. Dù sao không phải nhà ai cũng giống phủ Kính Quốc công, con gái qua đời còn được truy tặng tước vị, tiện thể giúp con trai nhận thêm ơn huệ, nếu là bọn họ thì chỉ chết vô ích thôi!

Vừa qua tết Thái hậu đã dẫn Lăng Kỳ Yến tới ngôi miếu của hoàng thất nằm ở ngoại ô kinh thành, suốt cả chặng đường bà luôn miệng dặn dò y phải thành kính trước mặt bồ tát, không được qua loa cho xong chuyện, khinh nhờn ngài ấy.

Lăng Kỳ Yến lơ đãng dạ vâng, y biết hiện giờ tổ mẫu cũng nghi y khắc vợ thật nên mới đưa y đến miếu để xem thử có thể giải hạn hay không. Vì vậy Lăng Kỳ Yến không nỡ từ chối bà.

… Thôi, coi như giúp tổ mẫu giải sầu đi.

Xe ngựa dừng trước cổng miếu, sư trụ trì ra ngoài tiếp đón, sau khi vái chào theo lễ đạo Phật với Thái hậu, ông ta lập tức dẫn bà và Lăng Kỳ Yến vào miếu.

Bọn họ bước dọc con đường uốn khúc rợp mát bóng cây giữa rừng để tới điện chính. Lăng Kỳ Yến thắp nhang, dập đầu bái lạy cùng Thái hậu theo quy củ xong thì lắng nghe sư trụ trì già tụng kinh.

Nhưng y chỉ nghe được một canh giờ là hết chịu nổi rồi, thế là nhân lúc Thái hậu không chú ý, bèn lẳng lặng đứng dậy rời khỏi điện.

Thời tiết hôm nay đẹp thật, những khóm hoa đón xuân nở rộ khắp sân, rải bụi phấn bay đầy trời.

Hiện giờ tâm trạng của Lăng Kỳ Yến rất tốt, y chầm chậm duỗi lưng ra. Giang Lâm bỗng sáp lại gần y nhỏ giọng bẩm báo: “Điện hạ, công tử Trương cũng tới miếu này, nghe bảo điện hạ ở đây nên muốn qua chào hỏi ngài.”

Lăng Kỳ Yến sai người dẫn hắn ta vào, dạo gần đây Trương Uyên sống nề nếp lắm, đã lâu rồi y chưa gặp đối phương.

Hôm nay Trương Uyên đến miếu là để đưa một ít đồ cho mẹ và em gái đang sống dài ngày trong miếu. Sau khi biết Lăng Kỳ Yến theo Thái Hậu tới đây cúng phật thì cố ý sang gặp y.

Hắn ta vừa mở miệng đã xin lỗi Lăng Kỳ Yến nhưng bị y ngắt lời: “Thôi, đừng xin lỗi bản vương, tiểu thư nhà họ Lâm chưa gả cho bản vương mà.”

Trên mặt Trương Uyên nhuốm đầy vẻ đau khổ, giữa hai hàng lông mày thấm đượm nét mệt mỏi, hắn ta vội vàng cảm ơn Lăng Kỳ Yến.

Y liếc nhìn Trương Uyên: “Người của phủ Kính quốc công kiếm chuyện với các ngươi à?”

“Không có, bời vì cha mẹ thần đã nhận lỗi đầy đủ nên phủ Kính Quốc công cũng ngại so đo chuyện này tiếp, nhưng chỉ sợ sau này rất khó để kết thân với bọn họ lần nữa.”

Phủ Hiển An hầu vẫn phải chịu chút trách nhiệm cho tai nạn kia, dù sao nó cũng xảy ra trong trang viên của bọn họ. Đúng là quá vô lý khi không một người hầu nào phát hiện sợi dây treo xích đu đã bị tuột từ trước. Tiểu thư phủ Kính Quốc công đang sống êm đẹp thì tự dưng chết, nghĩ thôi cũng biết chắc chắn đám người nhà đó sẽ trút giận sang bên Hiển An hầu.

Gốc rễ của phủ Hiển An hầu yếu kém hơn phủ Kính Quốc công hùng mạnh, và lại mấy năm qua nhà bọn họ cũng không sinh được lứa con cháu có triển vọng nào, cả phủ đang dần có dấu hiệu suy tàn, bây giờ cộng thêm việc lục đục với bên Kính Quốc công, chắc chắn sau này Hầu phủ sẽ khó chen chân vào hàng ngũ các nhà quan chức quyền quý trong kinh thành.

Lăng Kỳ Yến cũng chẳng giúp bọn họ chuyện này được, bởi vì chỉ sợ người nhà họ Lâm còn oán hận vị vương gia khắc vợ là y hơn cả phủ Hiển An hầu. Nhưng do phụ hoàng đã bồi thường đầy đủ nên tất nhiên nhà họ Lâm không dám ghi hận y nữa, thế là bọn họ đành trút hết bực dọc xuống người phủ Hiển An hầu.

Lăng Kỳ Yến nhíu mày ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi Trương Uyên: “Sao không ai phát hiện ra sợi dây treo xích đu nọ bị tuột vậy?”

“Nhờ phụ thân thần xét hỏi đám người hầu kia mới biết là do gã phụ trách công sự* trong trang viên đã giở trò để lười biếng, không chịu kiểm tra xích đu đúng hạn. Ngày ấy, lúc đến phiên tiểu thư nhà họ Lâm chơi, hai bà đầy tớ hầu hạ nhóm tiểu thư chơi xích đu đã sơ suất đẩy hơi mạnh, cuối cùng giật đứt luôn sợi dây thừng vốn lỏng lẻo từ trước, bởi vậy mới gây ra tai nạn.”

(*Công sự: là các công việc liên quan đến xây dựng nhằm bảo đảm an toàn cho người và phương tiện vật chất.)

Trương Uyên giải thích một cách gượng gạo: “Sau đó, phụ thân thần bèn áp giải nguyên đám đến phủ Kính Quốc công để mặc bọn họ xử lý. Nhưng bên ấy bảo bọn họ không có quyền trừng trị ai bởi đây không phải người hầu nhà họ, nên phụ thân thần đành phải tự ra tay, ông ấy sai người đánh đám kia trăm gậy rồi bán đi hết.”

Phủ Hiển An hầu biết rõ phủ Kính Quốc công tỏ thái độ như vậy là muốn gây khó xử cho mình, nhưng không dám hó hé gì.

Trương Uyên vừa nói vừa vuốt mặt, hắn ta hỏi Lăng Kỳ Yến: “Mẫu thân và muội muội thần nghe nói Thái hậu nương nương đã lên chùa nên muốn qua thỉnh an ngài ấy, chẳng biết được hay không?”

Lăng Kỳ Yến gật đầu nói: “Thái hậu còn ở trong đó lâu lắm nên hãy bảo các nàng tới vào buổi trưa. Bản vương sẽ đánh tiếng trước với Thái hậu.”

Trương Uyên luôn miệng nói cảm ơn, tất nhiên bọn họ sợ Thái hậu giận bọn họ vì hại chết cháu dâu của bà hơn lo chuyện nhà họ Lâm nhiều, nếu có dịp nhận lỗi ngay trước mặt Thái hậu thì tốt quá.

Sau khi Trương Uyên rời đi, Lăng Kỳ Yến đứng đợi một mình bên ngoài điện lớn thêm chốc lát, cuối cùng Thái hậu cũng bước ra trách mắng y: “Trước đó ta đã nói với con thế nào, phải thành kính… phải thành kính chứ, sao sư phụ mới tụng được nửa bài kinh phật con đã chạy mất dép rồi, đứa nhóc này thật là…”

Lăng Kỳ Yến dày mặt tỏ vẻ nũng nịu: “Mình tổ mẫu nghe cũng thế mà, bồ tát thấy tổ mẫu thương con như vậy, chắc chắn sẽ không nỡ bỏ mặc con đâu.”

Thái hậu lắc đầu một cách bất lực, bà bảo Lăng Kỳ Yến đi theo bà, bọn họ được tiểu sa di* phụ trách dẫn đường đưa ra sau viện.

(*Tiểu sa di: Hòa thượng mới xuất gia.)

Nơi này trông còn sạch sẽ và yên tĩnh hơn bên kia, yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy tiếng gió thổi xuyên qua sảnh ngoài, khiến Lăng Kỳ Yến vô thức bước rón rén.

Trong phòng chỉ có một lão hòa thượng không biết bao nhiêu tuổi đang nhắm mắt ngồi thiền.

Đến khi bọn họ ngồi xuống đệm cói, lão hòa thượng kia mới từ từ mở mắt ra. Thái hậu lập tức nhỏ giọng nói mấy câu nghe rất kính cẩn với ông ta. Lão hòa thượng quay qua nhìn Lăng Kỳ Yến một lát, rồi nhắm mắt lại, vừa xoay tràng hạt trên tay vừa mở miệng đọc rì rầm gì đó.

Khoảng một khắc sau, lúc Lăng Kỳ Yến đã đợi đến sốt ruột, cuối cùng lão hòa thượng cũng chịu mở mắt ra, ông ta bình tĩnh nói với Thái hậu: “Mệnh của tiểu điện hạ là mệnh hại người thân, thiếu duyên với cha mẹ và vợ con, không thể ép buộc số mệnh được, nhưng nếu thản nhiên đón nhận nó, có lẽ sẽ gặp được may mắn.”

Mặt mày Lăng Kỳ Yến lập tức trắng bệch, Thái hậu trợn mắt nhìn, bà cảm thấy chuyện này cực kỳ khó tin, cơ thể cứ lung lay như sắp đổ: “…Có khi nào là nhìn lầm không?”

Lão hòa thường chẳng nói gì cả.

Thái hậu thấy vậy thì bắt đầu rơm rớm nước mắt, bà xoay qua nhìn Lăng Kỳ Yến theo bản năng, y sầm mặt đứng lên rồi bước nhanh ra ngoài.

“Xin Thái hậu nương nương đừng đau buồn quá.” Lão hòa thượng nhỏ giọng nói: “Tiểu điện hạ là người có phúc nhờ tích công đức, cũng có mệnh sống lâu trăm tuổi. Tuy sau này còn gặp nhiều trắc trở nhưng sẽ suôn sẻ bình yên vượt qua hết.”

Thái hậu đã cảm thấy bình tĩnh hơn, bà vừa cầm khăn chấm lên khóe mắt vừa hỏi: “Còn gặp phải trắc trở gì nữa vậy?”

Lão hòa thượng lắc đầu.

Không thể nói.

Thái hậu ngầm hiểu mình chẳng thể biết được đáp án cho vấn đề này nên càng nơm nớp lo sợ hơn, bà không cam lòng hỏi: “Không thể cưới vợ sinh con thật sao? Có cách nào hóa giải không?”

Lão hòa thượng thở dài một tiếng: “Cứ chờ thêm ba năm nữa đi.”

Lúc Thái hậu bước ra cửa, Lăng Kỳ Yến đang ngồi thẫn thờ dưới bóng cây ngoài điện, y nhanh chóng đứng dậy đón bà, sau đó cúi đầu bực bội nói: “Tổ mẫu, chúng ta về cung thôi. Lão hòa thượng kia toàn nói xằng nói bậy, mấy lời ấy nghe nhảm nhí lắm, đừng nên xem là thật.”

Y không tin cái gọi là mệnh hại người thân kia, chẳng qua do dạo này tin đồn y khắc vợ được bàn tán rôm rả quá, mọi người đều từng nghe nhắc tới nó nên lão hòa thường mới dám bịa chuyện lừa gạt tổ mẫu.

Mặc dù Hoàng đế và Hoàng hậu ghét y, nhưng rõ ràng y vẫn bình an lớn lên bên cạnh họ, nói y có duyên mỏng với cha mẹ thì đúng, chứ sao lại thiếu duyên được?

Thái hậu nhắc nhở Lăng Kỳ Yến: “Đừng ăn nói linh tinh, lão sư phụ sắp 120 tuổi rồi, là cao tăng thật đấy. Trước giờ ông ta nhìn tướng mạo mỗi người chuẩn lắm, chắc chắn sẽ không nói bậy bạ đâu.”

Lăng Kỳ Yến nghe vậy thì càng mất hứng: “Vậy chẳng lẽ con có mệnh hại người thân thật à?”

Thái hậu nghẹn họng một hồi rồi mới giơ tay sờ mặt y, bà cảm thấy vô cùng tiếc thương cho cháu trai mình: “Không sao, con là con trai trưởng cao quý của Hoàng đế, khí thế từ dòng máu hoàng thất sẽ áp chế hết nên chẳng sao đâu.”

“… Chúng ta về thôi.”

Thái hậu không chịu: “Nghe lời tổ mẫu đi Yến nhi, chúng ta nán lại chùa vài ngày nhé, dù sao cũng phải mời người làm hai buổi cúng bái hành lễ để đổi vận cho con trước đã.”

Lăng Kỳ Yến bĩu môi … Thôi vậy.

Ở cửa khẩu Tùng lộc, bên bờ sông Tháp Na.

Ôn Doanh mặc quần áo mỏng dành cho binh lính thông thường, tay cầm một cây thương dài, hắn và mọi người đã xếp hàng đợi lệnh phát động tấn công của cấp trên lâu lắm rồi.

Vào tháng hai, thời tiết phía bắc vẫn còn rét buốt, cứ phà hơi là sẽ thấy khói trắng bay ra, Ôn Doanh bình tĩnh quan sát bờ sông bên kia, ngay lúc này cuối cùng trái tim vốn tĩnh lặng như mặt nước đọng của hắn cũng bắt đầu đập bình bịch.

Ôn Doanh gia nhập đội ngũ đóng quân ở cửa khẩu Tùng Lộc được hai tháng rồi, hằng ngày hắn đều chăm chỉ tập luyện, chưa từng lười biếng. Bá Tổng Trịnh rất tán thưởng Ôn Doanh nên mới để hắn làm Tiểu kỳ* chỉ huy một nhóm gồm mười người, đây là lần đầu cả bọn ra chiến trường thật.

(*Tiểu kỳ: Là người chỉ huy một đội quân gồm 10 đến 12 lính.)

Triều đình Đại Thành xuất quân vẫn không ngăn được sự hung hăng của người Ba Lâm Đốn và bộ lạc Thứ Liệt. Tháng trước bọn chúng đã cùng nhau cướp sạch hai bộ lạc nhỏ nằm ở phía đông bắc cửa khẩu Tùng Lộc. Sau khi bàn bạc với thuộc hạ, Tướng quân Lâm Túc quyết định không tiến đánh bừa bãi giống hồi mới đến đây vào năm ngoái nữa, thay vì đánh thẳng vô hang ổ của bộ lạc Thứ Liệt, bọn họ chọn giành lại các bộ lạc nhỏ ở xung quanh đã bị chiếm đóng trước.

Bộ lạc Tháp Lâm nằm cạnh bờ sông Tháp Na chính là mục tiêu đầu tiên, nhánh quân này của Bá Tổng Trịnh được phân vào đội tiên phong.

Hầu hết mọi người trong đội đều cảm thấy hốt hoảng lo sợ, ai cũng thầm than mình xui xẻo, vừa gia nhập đã phải ra chiến trường, còn bị bắt đánh mở đường, vận may tệ thật, chỉ mình Ôn Doanh vẫn luôn bình tĩnh như thường.

Đây là một cơ hội lớn với hắn.

Hắn muốn chức cao, hắn cần công trạng, hắn không sợ chết.

Vào giờ Mẹo bốn khắc, cuối cùng kèn phát lệnh tấn công cũng vang lên ngay khoảnh khắc ánh bình minh rọi sáng chân trời.

Ôn Doanh nắm chặt thương dài trong tay, hắn chẳng hề sợ hãi mà lội qua con sông sắp khô cạn mỗi khi xuân về rồi dũng cảm lao về phía trước. Ánh mặt trời cứ thế chiếu thẳng vào đôi mắt đen ngòm của hắn khiến chúng phát sáng rực rỡ.

Sau đó, hai đồng tử của Ôn Doanh dần nổi lên tơ máu, máu tươi nóng hổi tưới khắp mặt hắn, vô số cảnh tàn sát khốc liệt thay nhau lướt qua mắt, trong đầu hắn hiện giờ chỉ còn một suy nghĩ duy nhất: Giết! Giết! Giết!

Hắn phải giết nhiều người hơn thì mới đổi được công trạng lớn hơn!

Tiếng gió thảm thiết nghẹn ngào dễ dàng dung hợp với tiếng chém giết vang trời, máu tươi nhuộm đỏ nước sông và từng cọng cỏ dưới chân mỗi người.

Đến chạng vạng, binh mã triều đình giành thắng lợi bắt đầu thu dọn chiến trường.

Ôn Doanh bị thương nhẹ, trên bả vai hắn có một vết chém nên được đưa về doanh trại để bôi thuốc và băng bó.

Bốn trong số mười người thuộc đội của Ôn Doanh đã chết, nhưng hắn chém được chín cái đầu quân địch, còn gây thương thế nặng cho mười mấy tên khác. Chiến công của hắn bỏ xa đám lính mới, thậm chí hơn hẳn nhiều binh sĩ lão làng.

Bữa cơm của binh lính hôm đó có thêm món mặn, mỗi người đều được phát hai miếng thịt và nửa chén rượu, không khí vui vẻ lan khắp doanh trại.

Ôn Doanh lặng lẽ ngồi cạnh đống lửa, hắn há rộng miệng ngoạm sạch đồ ăn, rồi ngửa đầu nốc cạn bát rượu, sau đó mới giơ mu bàn tay lên lau mạnh vết rượu dính ngoài khóe môi.

Bá Tổng Trịnh bước ra từ trong lều trại, vừa thấy dáng vẻ này của Ôn Doanh đã tiến tới đưa một bình rượu và nửa chén thịt cho hắn: “Cầm đi.”

Ôn Doanh không từ chối, hắn nhận lấy rồi đứng dậy cảm ơn đối phương.

“Thằng nhóc nhà ngươi giỏi lắm, còn giỏi hơn cả ta hồi mới ra chiến trường lần đầu vào năm đó nữa, đúng là ta không nhìn lầm người mà.” Bá Tổng Trịnh cười ha ha.

Nhờ sống cạnh nhau khá lâu nên Ôn Doanh biết rõ vị Bá Tổng Trịnh này có tính cách hào phóng và không hẹp hòi chút nào, đối phương chưa từng nói năng lòng vòng với hắn. Ôn Doanh cũng biết ơn hắn ta vì đã dạy cho mình rất nhiều kỹ năng.

Ôn Doanh là người ít nói, bình thường hiếm khi hắn hưởng ứng mấy lời thổi phồng này lắm, nhưng Bá Tổng Trịnh chẳng quan tâm mấy, vẫn vui vẻ nói với hắn: “Ta đã báo cáo chiến tích của ngươi lên cấp trên rồi, nếu mọi chuyện suôn sẻ thì chắc người sẽ được thăng lên làm Tổng kỳ* thôi.”

“Cảm ơn Bá Tổng.”

Ôn Doanh nghiêm trang chào theo nghi thức quân đội, câu cảm ơn này nghe rất chân thành.

Thật ra đám lính mới nhập ngũ như hắn rất khó báo cáo đầy đủ chiến tích thực tế lên trên, bởi vì kiểu gì cũng bị cấp trên và nhóm lính lão làng giành mất một ít công lao. Nhưng Bá Tổng Trịnh không chỉ tốt bụng báo cáo hộ hắn, mà còn xin cho hắn lên làm Tổng kỳ. Chẳng phải cứ giết vài người là có thể thăng chức đâu, e rằng Bá Tổng Trịnh đã tốn khá nhiều công sức để lo lót vụ này.

Tiểu kỳ không phải là một chức quan chính quy dù mỗi người vẫn được dẫn theo mười tên lính. Trong khi Tống Kỳ lại là võ tướng Tòng thất phẩm* và được chỉ huy một đội gồm năm mươi binh sĩ, đây mới là chức vị chính thống.

(*Tòng thất phẩm: Là cách phân chia xếp hạng của quan lại.)

Tuy nó còn cách mục tiêu của hắn rất xa.

Bá Tổng Trịnh không quan tâm mấy, hắn ta xua tay nói: “Cảm ơn làm gì, ngươi là thuộc hạ của ta, ngươi có thể thăng tiến nhanh như vậy cũng giúp ta nở mày nở mặt, sau này nếu ngươi còn lên chức tiếp, đừng quên ta là được.”

Ôn Doanh nói cảm ơn lần nữa.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.