…từng hy vọng đến giờ sẽ nhận được một lá thư của cô, nhưng tất nhiên thư từ vô cùng không đảm bảo khi phải chuyển đi xa như vậy. Chỉ mới tuần trước tôi nghe chuyện về một kiện thư đã hai năm vừa được chuyển đến; nhiều người nhận trong số đó đã quay về Anh rồi. Mẹ tôi viết rằng cô đã khá và phục hồi hoàn toàn sau thử thách vừa rồi; tôi rất mừng được nghe thấy vậy. Công việc của tôi ở đây luôn đầy thách thức và thỏa mãn. Tôi đã đến ở hẳn ngoài thành phố, giống như phần lớn những người Châu Âu ở tại Madras này. Dù sao, tôi cũng thích đi thăm thành phố; vẻ ngoài của nó hơi giống ở Hy Lạp; hoặc đúng hơn, giống cái tôi tưởng tượng về Hy Lạp, vì tôi chưa bao giờ đến đó. Bầu trời thật xanh, xanh đến mức chói mắt, gần như là thứ xanh nhất tôi từng thấy.
—của Bá tước Kilmartin gửi cho Nữ bá tước Kilmartin, sáu tháng sau khi anh đến Ấn Độ
“Cô nói gì cơ?”
Cô làm anh choáng váng. Anh thậm chí đang lắp bắp. Cô không nói cái đó ra để chờ đợi phản ứng kiểu như vậy từ anh, nhưng giờ anh đang ngồi đó, miệng anh há ra và đờ đẫn, cô không thể không cảm thấy hơi khoái chí trong thoáng chốc.
“Tôi muốn một em bé,” cô nói với một cái nhún vai. “Có gì đáng ngạc nhiên về chuyện đó sao?”
Đôi môi anh động đậy trước khi có thể phát ra tiếng. “Ừm…không…nhưng…”
“Tôi đã hai mươi sáu.”
“Tôi biết cô bao nhiêu tuổi,” anh nói, hơi gắt.
“Tôi sẽ hai mươi bảy cuối Tháng tư này. Tôi không nghĩ có gì kỳ cục khi tôi có thể muốn một em bé.”
Đôi mắt anh vẫn còn thoáng chút thẫn thờ. “Không, đương nhiên là không, nhưng—”
“Và tôi không cần phải giải thích với anh!”
“Tôi không yêu cầu cô làm thế,” anh nói, nhìn cô chằm chằm như thể cô vừa mọc thêm hai cái đầu.
“Tôi xin lỗi,” cô nói khẽ. “Tôi phản ứng thái quá.”
Anh không nói gì, điều đó làm cô phát cáu. Ít nhất, anh cũng có thể phản bác cô. Có thể đó là một lời nói dối, nhưng đó vẫn là một việc làm tử tế và lịch sự.
Cuối cùng, chỉ vì sự im lặng thật khó mà chịu nổi, cô lẩm bẩm, “Rất nhiều phụ nữ muốn có con.”
“Phải,” anh nói, ho lên. “Tất nhiên. Nhưng… cô không nghĩ đầu tiên cô có thể cần một người chồng trước đã?”
“Tất nhiên.” Cô xuyên thủng anh bằng một cái lườm cáu kỉnh. “Anh nghĩ tại sao tôi lại xuống London sớm chứ?”
Anh nhìn cô trống rỗng.
“Tôi đang đi sắm một anh chồng,” cô nói, nói với anh như thể anh là thằng ngớ ngẩn.
“Nói nghe mới con buôn làm sao,” anh lầm bầm.
Cô cong môi. “Nó đúng như thế. Và vì bản thân mình, có lẽ anh tốt nhất là nên quen với cái đó đi. Đó chính xác là cách các quý cô sắp sửa nói về anh đấy.”
Anh lờ đi đoạn cuối của câu nói. “Cô có quý ông cụ thể nào trong đầu không?”
Cô lắc đầu. “Chưa. Nhưng tôi nghĩ ai đó sẽ xuất hiện khi tôi bắt đầu tìm kiếm.” Cô cố ra vẻ vui vẻ về chuyện này, như sự thực, giọng cô đã thấp xuống và nhỏ đi. “Tôi chắc các anh tôi có bạn bè,” cuối cùng cô chỉ còn lẩm bẩm.
Anh nhìn cô, rồi khẽ duỗi người và nhìn chằm chằm ra mặt nước.
“Tôi đã làm anh choáng,” cô nói.
“Ừm… phải.”
“Bình thường, tôi sẽ rất thích như thế,” cô nói, đôi môi cô xoắn lại vẻ chua chát.
Anh không trả lời, nhưng khẽ đảo mắt.
“Tôi không thể khóc thương John mãi được,” cô nói. “Ý tôi là, tôi có thể, và tôi sẽ, nhưng…” Cô dừng lại, ghét vì thấy mình sắp khóc. “Và tệ nhất là, biết đâu tôi thậm chí không thể có con. Tôi đã mất hai năm để có mang với John, và hãy nhìn xem tôi đã làm hỏng đến cỡ nào.”
“Francesca,” anh nói gay gắt, “cô không được tự trách mình vì vụ sảy thai.”
Cô cười cay đắng. “Anh có thể tưởng tượng được không? Cưới ai đó chỉ để kiếm một đứa bé và rồi chẳng thể có được?”
“Chuyện đó vẫn hay xảy ra với mọi người,” anh nói nhẹ nhàng.
Đó là sự thật, nhưng điều đó chẳng làm cô cảm thấy khá hơn. Cô có quyền lựa chọn. Cô không cần phải lấy chồng; cô sẽ được chu cấp đầy đủ—và tự do thoải mái—nếu cô vẫn là một bà góa. Nếu cô lấy chồng—không, khi cô lấy chồng—cô sẽ phải toàn tâm toàn ý với chuyện đó—nó sẽ không phải vì tình yêu. Cô sẽ không có một cuộc hôn nhân như cô từng có với John; một người đàn bà đơn giản là không thể tìm được một tình yêu như vậy hai lần trong đời.
Cô sẽ lấy chồng để có một đứa bé, và chẳng có gì đảm bảo là cô sẽ có.
“Francesca?”
Cô không nhìn anh, chỉ ngồi đó và chớp mắt, cố lờ đi những giọt nước mắt đang cháy lên bên khóe mắt.
Michael đưa ra chiếc khăn tay; nhưng cô không muốn chấp nhận cử chỉ đó. Nếu cô nhận lấy chiếc khăn, thì cô sẽ phải khóc. Sẽ chẳng có gì ngăn cô được.
“Tôi phải sống tiếp,” cô nói vẻ bướng bỉnh. “Tôi phải. John đã đi rồi, và tôi—”
Và rồi điều kỳ lạ nhất xảy ra. Chỉ có điều, kỳ lạ không thực sự là từ thích hợp. Choáng váng, có thể, hoặc làm thay đổi, hoặc có thể là chẳng có từ nào để miêu tả sự ngạc nhiên làm cho mạch đập trong cơ thể người ta biến mất, làm cho họ bất động, không thể thở nổi.
Cô quay nhìn anh. Lẽ ra đó là một việc thật đơn giản. Cô chắc chắn đã quay nhìn Michael trước đây, hàng trăm… không, hàng ngàn lần. Anh có thể đã ở Ấn Độ bốn năm vừa rồi, nhưng cô biết rõ khuôn mặt anh, và cô biết nụ cười của anh. Thực sự, cô biết tất cả mọi điều về anh—
Chỉ có điều lần này thì khác. Cô quay nhìn anh, nhưng cô không hề nghĩ trước rằng anh đã xoay sang nhìn cô sẵn. Và cô không nghĩ rằng anh lại ở gần đến mức cô có thể nhìn thấy những tia màu chì than trong đôi mắt anh.
Nhưng trên hết, cô không hề biết trước rằng ánh mắt của cô sẽ chạy xuống đôi môi anh. Chúng đầy đặn, căng, và có hình dạng thật đẹp, và cô đã biết hình dạng của chúng rõ chẳng kém gì môi của cô, ngoại trừ việc cô chưa bao giờ thực sự nhìn vào chúng, nhận ra rằng chúng không thực sự đồng màu, hoặc đường cong môi dưới của anh trông hấp dẫn biết bao, và—
Cô đứng dậy. Vội vàng đến mức cô suýt nữa mất thăng bằng. “Tôi phải đi,” cô nói, ngạc nhiên vì giọng cô vẫn nghe như bình thường chứ không phải như của một con quỷ đáng sợ. “Tôi có một cuộc hẹn. Tôi quên mất.”
“Tất nhiên,” anh nói, đứng dậy bên cạnh cô.
“Với người thợ may váy,” cô nói thêm, như thể chi tiết sẽ làm cho lời nói dối của cô thuyết phục hơn. “Tất cả quần áo của tôi đếu có màu nửa tang.”
Anh gật đầu. “Chúng không hợp với cô.”
“Anh thật tử tế khi nêu cái đó ra,” cô nói vẻ gắt gỏng.
“Cô nên mặc màu xanh,” anh nói.
Cô gật đầu nhát gừng, vẫn hơi mất thăng bằng và bấn loạn.
“Cô ổn chứ?” anh hỏi.
“Tôi ổn,” cô bật ra. Và rồi, bởi vì chẳng ai có thể bị lừa bởi giọng nói của cô, cô nói thêm, cẩn thận hơn, “Tôi ổn. Tôi đảm bảo với anh. Tôi chỉ ghét bị trễ hẹn.” Cái đó thì đúng, và anh biết điều đó ở cô, thế nên hy vọng là anh sẽ chấp nhận lý do đó cho sự cáu gắt của cô.
“Tốt thôi,” anh nói với vẻ đồng ý, và Francesca nói chuyện luôn miệng trên đường về Số Năm. Cô phải thể hiện một bộ mặt bình thường, cô cuống cuồng nhận ra. Cô không thể để cho anh đoán chuyện gì đã xảy ra trong cô trên băng ghế cạnh hồ Serpentine.
Cô luôn biết, tất nhiên, rằng Michael rất đẹp trai, thậm chí đẹp trai một cách đáng ngại. Nhưng tất cả điều đó chỉ là một khái niệm trừu tượng. Michael đẹp trai, cũng như anh Benedict của cô cao, và mẹ cô có đôi mắt đẹp.
Nhưng bỗng nhiên… Nhưng bây giờ…
Cô nhìn anh, và cô thấy cái gì đó hoàn toàn mới.
Cô thấy một người đàn ông.
Và điều đó làm cô sợ chết khiếp.
Francesca thường tuân theo triết lý rằng hướng hành động tốt nhất là hành động nhiều hơn, thế nên khi cô về đến Số Năm sau cuộc đi dạo, cô tìm mẹ và nói với bà rằng cô cần gặp người thợ may ngay lập tức. Dù sao thì tốt hơn hết vẫn là làm cho lời nói dối của cô trở thành sự thật càng sớm càng tốt.
Mẹ cô thì quá vui sướng được thấy Francesca thoát khỏi những bộ đồ xám và xanh tái nửa tang của cô, và thế là chỉ chưa đầy một giờ trôi qua trước khi họ ngồi thoải mái trong cỗ xe duyên dáng của Violet, thẳng tiến tới những cửa hiệu sang trọng trên Bond Street. Bình thường, Francesca sẽ rất không thích sự can thiệp của Violet; cô hoàn toàn đủ sức chọn riêng cho mình một tủ quần áo, xin cám ơn, nhưng hôm nay cô thấy sự có mặt của mẹ cô dễ chịu lạ lùng.
Không phải mẹ cô thường không làm cô dễ chịu. Chỉ là Francesca hay thích sự tự do của mình hơn, và cô thích không bị người ta nghĩ đến như “một trong những cô con gái nhà Bridgerton”. Và theo một cách hơi lạ, chuyến đi đến chỗ thợ may này có vẻ hơi ngượng ngập. Phải cần một cuộc tra tấn đầy đủ mới có thể làm cô thừa nhận điều này, nhưng Francesca, thực sự là, đang sợ chết khiếp.
Ngay cả nếu cô chưa quyết định đã đến lúc tái giá, việc rũ bỏ những bộ đồ bà góa đánh dấu một sự thay đổi lớn, và đó không phải điều cô chắc chắn mình đã sẵn sàng.
Cô nhìn xuống ống tay áo khi ngồi trong cỗ xe. Cô không thể nhìn thấy lớp vải của chiếc váy—nó bị che bởi cái áo khoác—nhưng cô biết nó có màu xanh tái. Và có cái gì đó dễ chịu ở nó, cái gì đó chắc chắn và có thể tin tưởng. Cô đã mặc màu đó, hoặc màu xám, ba năm nay. Và luôn là một màu đen trong năm trước đó. Nó như một tấm phù hiệu, cô nhận ra, một kiểu đồng phục. Người ta chẳng bao giờ phải lo lắng xem mình là ai khi mà quần áo của họ đã oang oang khẳng định điều đó.
“Mẹ à?” cô nói, trước khi cô nhận ra mình có một câu hỏi.
Violet quay nhìn cô với một nụ cười. “Gì cơ, con gái?”
“Tại sao mẹ không bao giờ tái giá?”
Đôi môi Violet khẽ mở ra, và trước sự kinh ngạc của Francesca, đôi mắt bà sáng lên. “Con có biết là,” Violet nói khẽ, “đây là lần đầu tiên một người trong các con hỏi mẹ điều đó?”
“Không thể thế được,” Francesca nói. “Mẹ có chắc không?”
Violet gật đầu. “Không ai trong các con từng hỏi mẹ. Mẹ phải nhớ chứ.”
“Không, không, tất nhiên mẹ sẽ nhớ,” Francesca nói thật nhanh. Nhưng chuyện này thật… lạ. Và thật vô ý, đúng thế. Sao không ai hỏi Violet về chuyện này chứ? Dường như với Francesca đó là câu hỏi nóng bỏng nhất có thể tưởng tượng được. Và ngay cả nếu không người con nào của Violet quan tâm đến câu trả lời cho sự tò mò của họ, chẳng nhẽ họ không nhận ra điều đó quan trọng đến thế nào với bà?
Họ có muốn hiểu về mẹ của họ không? Thực sự hiểu bà?
“Khi cha con mất…” Violet nói. “Ừm, mẹ không biết con còn nhớ được đến đâu, nhưng chuyện đó xảy ra rất đột ngột. Chẳng ai trong chúng ta đoán trước được cả.” Bà cười thật buồn, và Francesca tự hỏi không biết cô có bao giờ có thể cười về cái chết của John, ngay cả nếu nó thấm đẫm sự đau thương.
“Một vết ong đốt,” Violet nói tiếp, và Francesca nhận ra rằng ngay cả bây giờ, hơn hai mươi năm sau cái chết của Edmund Bridgerton, mẹ cô vẫn có vẻ ngạc nhiên khi bà nói về chuyện đó.
“Ai mà nghĩ chuyện đó có thể xảy ra chứ?” Violet nói, lắc đầu. “Mẹ không biết con nhớ được bao nhiêu về cha, nhưng cha con là một người đàn ông rất to lớn. Cao bằng Benedict và có thể có đôi vai còn rộng hơn. Con sẽ không thể nghĩ là một con ong…” Bà dừng lại, lôi ra một chiếc khăn tay trắng mới cứng và đưa lên môi trong khi bà hắng giọng. “Ừm, việc đó thật khó đoán. Mẹ không biết phải nói gì thêm, ngoại trừ…” Bà quay sang phía con gái với đôi mắt sáng suốt đến đau nhói. “Ngoại trừ là mẹ nghĩ con có thể hiểu rõ hơn ai hết.”
Francesca gật đầu, thậm chí không cố giấu đi cảm giác cay xè trong đôi mắt cô.
“Dù sao,” Violet nói dứt khoát, rõ ràng muốn tiếp tục, “sau cái chết của cha, mẹ đã quá… choáng váng. Mẹ cảm giác như đang bước đi trong đám sương mù. Mẹ hoàn toàn không rõ mẹ sống thế nào trong năm đầu tiên đó. Hay ngay cả năm ngay sau đó. Thế nên mẹ thậm chí không thể nghĩ đến chuyện kết hôn.”
“Con biết,” Francesca nói khẽ. Và cô thực sự biết.
“Và sau đó… ừm, mẹ không biết chuyện gì xảy ra nữa. Có thể vì mẹ chẳng gặp ai mà mẹ muốn chia sẻ cuộc đời cùng. Có thể mẹ quá yêu cha con.” Bà nhún vai. “Có thể mẹ chẳng thấy cần thiết. Mẹ ở một vị trí rất khác so với con, dù gì đi nữa. Mẹ già hơn, đừng có quên chuyện đó, và đã là mẹ của tám đứa con rồi. Và cha con đã sắp xếp công việc rất ổn. Mẹ biết chúng ta sẽ chẳng phải lo lắng về cái gì.”
“John cũng sắp xếp công việc ở Kilmartin một cách hoàn hảo,” Francesca nói nhanh.
“Tất nhiên nó đã làm vậy,” Violet nói, vỗ vỗ bàn tay cô. “Tha lỗi cho mẹ. Mẹ không có ý khác. Nhưng con không có tám đứa con, Francesca.” Đôi mắt bà dường như hơi thay đổi, chuyển thành một màu xanh còn sâu hơn. “Và con còn khá nhiều thời gian ở phía trước để có thể sống một mình.”
Francesca gật đầu gượng gạo. “Con biết,” cô nói. “Con biết. Con biết, nhưng con không thể… con không thể…”
“Con không thể làm sao?” Violet hỏi dịu dàng.
“Con không thể…” Francesca nhìn xuống. Cô không biết tại sao, nhưng vì lý do nào đó cô không thể rời mắt khỏi sàn xe. “Con không thể tránh khỏi cảm giác rằng con đang làm điều gì đó sai, rằng con đang nhạo báng John, nhạo báng cuộc hôn nhân của chúng con.”
“John sẽ muốn con được hạnh phúc.”
“Con biết. Con biết. Tất nhiên anh ấy sẽ muốn. Nhưng mẹ không thấy sao—” Cô ngước nhìn lên lần nữa, đôi mắt cô đang tìm kiếm gì đó trên gương mặt mẹ cô, cô không biết là cái gì— có thể là sự đồng tình, có thể chỉ là sự yêu thương, bởi vì có cái gì đó thật dễ chịu khi tìm kiếm thứ mà cô biết cô sẽ tìm thấy. “Con thậm chí sẽ không tìm kiếm nó,” cô nói thêm. “Con sẽ không tìm được ai như John. Con đã chấp nhận điều đó. Và nếu kết hôn dù không được như vậy thì thật là sai trái.”
“Con sẽ không tìm thấy ai như John, đó là sự thật,” Violet nói. “Nhưng con có thể sẽ tìm thấy một người cũng hợp với con không kém, chỉ là theo một cách khác.”
“Mẹ đã không tìm thấy.”
“Không, mẹ không,” bà đồng ý, “nhưng mẹ cũng đã không cố gắng tìm. Mẹ thậm chí chẳng tìm.”
“Mẹ có mong là mẹ đã tìm không?”
Violet mở miệng, nhưng không có âm thanh nào phát ra, ngay cả hơi thở. Cuối cùng bà nói, “Mẹ không biết, Francesca. Mẹ thực sự không biết.” Và rồi, bởi vì khoảnh khắc đó thực sự cần một tiếng cười, bà thêm, “Mẹ chắc chắn không muốn có thêm đứa con nào nữa!”
Francesca không thể không mỉm cười. “Con có muốn,” cô nói khẽ. “Con muốn một đứa con.”
“Mẹ đã nghĩ con muốn.”
“Tại sao mẹ không bao giờ hỏi con về chuyện đó?”
Violet nghiêng đầu sang một bên. “Vì sao con không bao giờ hỏi mẹ tại sao mẹ không tái giá?”
Đôi môi của Francesca há ra. Cô lẽ ra không nên ngạc nhiên đến vậy trước sự nhạy cảm của mẹ cô.
“Nếu con là Eloise, mẹ nghĩ mẹ có thể đã nói gì đó,” Violet nói thêm. “Hay là bất cứ chị em nào của con, nếu điều đó quan trọng. Nhưng con—” Bà mìm cười nhớ lại. “Con không giống như vậy. Con chưa bao giờ như thế. Ngay cả khi là một đứa bé con đã tách mình ra. Và con cần có khoảng cách của con.”
Một cách bột phát, Francesca đưa tay ra xiết lấy bàn tay mẹ cô. “Con yêu mẹ, mẹ có biết không?”
Violet mỉm cười. “Mẹ hơi nghi đấy.”
“Mẹ!”
“Được rồi, tất nhiên là mẹ biết. Sao con có thể không yêu mẹ khi mà mẹ yêu con đến như thế chứ?”
“Con chưa nói ra,” Francesca nói, cảm thật tệ vì sự thiếu sót của mình. “Dù sao cũng không phải là gần đây.”
“Không sao cả.” Violet xiết lại tay cô. “Con có những việc khác cần phải nghĩ.”
Và vì lý do nào đó câu đó làm Francesca khẽ cười khúc khích. “Có vẻ hơi nói giảm quá, con phải nói vậy.”
Violet chỉ cười.
“Mẹ?” Francesca buột miệng. “Con có thể hỏi mẹ thêm một câu không?”
“Đương nhiên.”
“Nếu con không tìm thấy ai đó—không giống John, tất nhiên, nhưng vẫn không hợp với con bằng anh ấy. Nếu con không tìm thấy một người như vậy, và con lấy ai đó con khá thích, nhưng có thể là không yêu… liệu có được không?”
Violet im lặng một lúc trước khi bà đáp lại. “Mẹ e rằng chỉ có con mới biết câu trả lời cho chuyện đó,” cuối cùng bà nói. “Mẹ sẽ không bao giờ nói không, đương nhiên. Nửa giới quý tộc—hơn cả một nửa, trong thực tế—có những cuộc hôn nhân như vậy, và khá nhiều trong số họ hoàn toàn hài lòng. Nhưng con sẽ phải tự có sự phán xét của mình khi điều đó đến. Mọi người đều khác nhau, Francesca. Mẹ nghĩ con biết cái đó hơn bất cứ ai. Và khi một người đàn ông cầu hôn con, con sẽ phải nhận xét anh ta theo những điểm tốt của anh ta chứ không phải dựa trên những tiêu chuẩn bất kỳ con đặt ra từ trước.”
Bà nói đúng, tất nhiên, nhưng Francesca đã quá phát ốm khi cuộc sống trở nên quá bừa bộn và phức tạp đến mức nó không phải là câu trả lời cô đang tìm kiếm.
Và chẳng có cái nào giải quyết được vấn đề đang nằm sâu trong tim cô. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô thực sự gặp ai đó làm cô cảm thấy như cô từng cảm thấy với John? Cô không thể hình dung ra cô sẽ gặp; thực sự, điều đó rất rất khó có khả năng.
Nhưng nếu cô có gặp thì sao? Cô phải sống sao với bản thân mình lúc đó?
Có một cái gì đó làm người ta khá thỏa mãn khi có một tâm trạng tệ hại, thế nên Michael quyết định để cho tâm trạng mình chìm xuống hoàn toàn.
Anh đá một hòn sỏi suốt dọc đường về nhà.
Anh gầm gừ với bất kỳ ai va vào anh trên phố.
Anh giật mở cửa chính với sự dữ dằn đến mức làm cho nó đập mạnh vào bức tường đá đằng sau. Hoặc đúng hơn là anh có thể đã làm thế, nếu như tay quản gia nghiêm nghị của anh không quá tinh nhạy và mở cánh cửa ra trước khi những ngón tay của Michael thậm chí kịp chạm vào tay nắm.
Nhưng anh đã tưởng tượng giật nó mở tung, và điều đó cũng có chút gì đấy thỏa mãn.
Và rồi anh bước nhanh lên cầu thang về phòng—nơi vẫn còn có cảm giác quá giống phòng của John, tất nhiên anh chẳng thể làm được gì về chuyện đó ngay lúc ấy—và giật phắt đôi ủng ra.
Hoặc đã cố làm thế.
Khỉ thật.
“Reivers!” anh gào.
Người hầu của anh xuất hiện—hoặc đúng hơn, cứ như anh ta vừa hiện hình—nơi cửa ra vào.
“Vâng, thưa ngài?”
“Anh giúp tôi với đôi ủng chứ?” Michael nói lè nhè, cảm thấy mình giống như trẻ con. Ba năm trong quân đội và bốn năm ở Ấn Độ, và anh không thể tháo đôi ủng khốn kiếp của chính mình? Ở London có cái gì mà khiến một người đàn ông trở thành thằng ngốc hay kêu ca vậy trời? Anh lờ mờ nhớ rằng Reivers cũng từng phải tháo ủng cho anh hồi anh ở London ngày trước.
Anh nhìn xuống. Đó là đôi ủng lạ. Kiểu khác, anh đoán, cho dịp khác, và Reivers luôn rất tự hào một cách ngớ ngẩn với công việc của anh ta. Anh ta đã—
“Reivers?” Michael nói với một giọng thật thấp. “Anh lấy đôi ủng này ở đâu ra?”
“Thưa ngài?”
“Đôi ủng. Tôi không nhận ra chúng.”
“Chúng ta vẫn chưa nhận được tất cả các hòm của ngài từ trên tàu, thưa ngài. Ngài chưa có cái gì thích hợp cho London, thế nên tôi đã tìm những cái này trong số đồ đạc của ngài bá tước trước—”
“Chúa ơi.”
“Thưa ngài? Tôi vô cùng xin lỗi nếu chúng không hợp với ngài. Tôi nhớ rằng hai ngài cùng một cỡ chân, và tôi nghĩ ngài sẽ muốn—”
“Hãy tháo chúng ra đi. Ngay bây giờ.” Michael nhắm mắt lại và ngồi vào một cái ghế da—ghế da của John—ngạc nhiên trước sự chua chát của việc đó. Cơn ác mộng tệ hại nhất của anh đã thành sự thật, theo nghĩa trần trụi nhất.
“Tất nhiên, thưa ngài.” Reivers trông có vẻ đau khổ, nhưng ai ta nhanh chóng tháo đôi ủng ra.
Michael gãi gãi chóp mũi bằng ngón trỏ và ngón cái rồi thở ra một hơi thật dài trước khi nói tiếp. “Tôi không muốn dùng bất cứ vật gì trong tủ của ngài bá tước trước,” anh nói với vẻ mệt mỏi. Thật sự, anh không biết tại sao quần áo của John vẫn còn ở đây; chỗ đó lẽ ra đã được đem cho những người hầu hoặc làm từ thiện hàng năm nay rồi. Nhưng anh nghĩ đó là quyết định của Francesca, không phải của anh.
“Tất nhiên, thưa ngài. Tôi sẽ lo việc đó ngay.”
“Tốt,” Michael khịt mũi.
“Tôi khóa chúng lại chứ ạ?”
Khóa lại? Chúa ơi, những thứ đó có phải thuốc độc đâu. “Tôi chắc cứ để chúng ở chỗ cũ là ổn,” Michael nói. “Chỉ đừng có đưa ra cho tôi dùng.”
“Dạ.” Reivers nuốt vào, và yết hầu anh ta nhô lên đầy căng thẳng.
“Gì vậy, Reivers?”
“Chỉ là tất cả những vật dụng của Ngài Kilmartin trước đều vẫn ở cả đây.”
“Ở đây?” Michael hỏi một cách trống rỗng.
“Ở đây,” Reivers xác nhận, liếc một lượt quanh phòng.
Michael thừ người trên ghề. Không phải là anh muốn xóa sạch những gì gợi nhắc đến anh họ anh khỏi trái đất này; chẳng ai nhớ John bằng anh, không ai cả.
Ừm, có thể là trừ Francesca, anh thừa nhận, nhưng cái đó khác.
Nhưng anh thật không biết sẽ sống cuộc sống của mình thế nào khi nó bị bao quanh hoàn toàn đến mức nghẹt thở bởi những vật dụng của John. Anh đã có danh hiệu của anh ấy, dùng tiền của anh ấy, sống trong nhà anh ấy. Chẳng nhẽ anh phải mang cả đôi giày chết tiệt của anh ấy luôn?
“Gói chúng lại,” anh nói với Reivers. “Ngày mai. Tôi không muốn bị làm phiền tối nay.”
Và hơn nữa, anh có lẽ nên nói với Francesca về ý định của mình.
Francesca.
Anh thở dài, đứng dậy khi người hầu đã đi. Chúa ơi, Reivers đã quên mang theo đôi ủng. Michael nhặt chúng lên và đặt chúng ra ngoài cửa. Anh có thể đang phản ứng thái quá, nhưng kệ xác, anh chỉ không muốn nhìn chằm chằm vào đôi ủng của John suốt sáu giờ tới.
Sau khi đóng cánh cửa với một tiếng cách chắc gọn, anh bước một cách vô thức về phía cửa sổ. Bậu cửa sổ rộng và sâu, và anh dựa hẳn vào đó, nhìn qua lớp rèm mỏng về phía khung cảnh đường phố bên dưới. Anh gạt tấm vải mỏng sang một bên, đôi môi anh cong lên thành một nụ cười cay đắng khi anh nhìn một cô hầu dắt theo một em bé trên vỉa hè.
Francesca. Cô ấy muốn một em bé.
Anh không biết tại sao anh lại ngạc nhiên đến thế. Nếu anh nghĩ về chuyện đó một cách bình tĩnh, anh lẽ ra sẽ không như vậy. Cô là một phụ nữ, vì Chúa; tất nhiên cô sẽ muốn có con. Chẳng phải tất cả họ đều thế sao? Và trong khi anh chưa bao giờ tự ngồi xuống và nói với mình rằng cô sẽ khóc than John mãi mãi, anh cũng chưa bao xem xét cái ý nghĩ rằng cô có thể muốn tái giá một ngày nào đó.
Francesca và John. John và Francesca. Họ là một cặp, hoặc ít nhất họ đã từng như vậy, và mặc dù cái chết của John, thật đáng buồn, đã làm cho việc tưởng tượng người này không có người kia trở nên dễ dàng hơn, nghĩ đến một người cùng với ai đó khác lại là một chuyện khác hẳn.
Và rồi tất nhiên còn cả cái vụ nổi da gà của anh nữa, mà đó là phản ứng chung của anh với ý nghĩ Francesca cùng với một người đàn ông khác.
Anh rùng mình. Hay là run rẩy? Khỉ thật, anh hy vọng đó không phải là run.
Anh nghĩ đơn giản là anh sẽ phải quen với ý tưởng đó. Nếu Francesca muốn có con, thì Francesca cần một người chồng, và anh chẳng thể làm cái quái gì về chuyện đó. Sẽ tốt hơn, anh nghĩ, nếu cô đã quyết định như vậy và giải quyết cái chuyện đáng ghét này từ năm ngoái, đỡ cho anh phải buồn nôn khi chứng kiến toàn bộ cái trò tán tỉnh diễn ra. Nếu cô đi và cưới từ năm ngoái, thì chuyện này đã xong, kết thúc, xong là xong.
Hết chuyện.
Nhưng giờ anh sẽ phải chứng kiến. Thậm chí có thể là cho lời khuyên.
Khỉ thật.
Anh lại run lên. Khốn nạn. Có thể anh chỉ bị lạnh. Dù sao cũng đang là tháng ba, và là một tháng ba lạnh, ngay cả với ngọn lửa trong lò.
Anh kéo kéo cà vạt, nó đang bắt đầu trở nên chặt kinh khủng, rồi giật tuột nó ra. Trời ạ, anh cảm thấy như quỷ, vừa nóng vừa lạnh, và chuếnh choáng lạ lùng.
Anh ngồi xuống. Dường như đó là việc làm tốt nhất.
Và rồi anh thôi giả vờ mình vẫn ổn, lột hết quần áo ra và bò vào giường.
Đêm nay sẽ là một đêm dài.