…Tôi xin lỗi vì đã không viết thư. Không, không phải vậy. Tôi không xin lỗi. Tôi không muốn viết. Tôi không muốn nghĩ về—
—của Nữ bá tước Kilmartin gửi cho Bá tước Kilmartin mới, một ngày sau khi nhận được thư của anh cho cô, bị xé thành từng mảnh, rồi thấm đẫm nước mắt
Khi Michael tỉnh dậy sáng hôm sau, Ngôi nhà Kilmartin dường như đã trở lại và hoạt động xứng tầm là ngôi nhà của một bá tước. Có lửa trong tất cả các lò, và một bữa sáng thật tuyệt đã được bày ra trong phòng ăn thân mật, với trứng chưng, thịt nguội, thịt muối, xúc xích, bánh mì nướng với bơ và mứt, và món yêu thích của anh, cá thu rán.
Tuy vậy, Francesca thì không thấy đâu cả.
Khi anh hỏi về cô, anh được đưa cho một mảnh giấy gấp cô để lại cho anh sáng hôm đó. Có vẻ cô cảm thấy sẽ có miệng lưỡi đàm tiếu việc họ ở riêng với nhau tại Ngôi nhà Kilmartin, và thế là cô quay về nhà mẹ đẻ tại Số Năm, Bruton Street, cho đến khi Janet hoặc Helen từ Scotland xuống. Tuy nhiên, cô có mời anh đến thăm ngày hôm đó, vì cô chắc họ có nhiều việc để bàn.
Và Michael nghĩ là cô nói đúng, vì thế sau khi anh xong bữa sáng (nhận ra, một cách thật ngạc nhiên, rằng anh cũng hơi nhớ món sữa chua và bánh dosas trong bữa sáng Ấn Độ của mình), anh bước ra ngoài và đến Số Năm.
Anh chọn đi bộ; cũng chẳng phải xa lắm, và không khí đã ấm lên đáng kể kể từ sau những trận gió băng giá hôm trước. Nhưng trên hết, anh chỉ muốn nhìn ngắm cảnh thành phố, để nhắc mình nhớ lại nhịp điệu của London. Anh chưa bao giờ nhận ra những mùi vị và âm thanh đặc trưng của thủ đô trước đây, cái cách tiếng lóc cóc của vó ngựa hòa với tiếng rao vui vẻ của những người bán hoa và những giọng ồm ồm lịch sự. Có tiếng bước chân anh trên vỉa hè, và mùi lạc rang, và vị xút thoảng trong không khí, tất cả hòa vào tạo thành một cái gì đó đặc trưng của London.
Điều này gần như hấp dẫn không thể cưỡng lại nổi, thật là lạ, bởi vì anh nhớ từng cảm thấy hệt như vậy khi đặt chân xuống Ấn Độ bốn năm trước. Không khí ẩm ướt, sực nức mùi hương liệu và hoa, đã làm choáng váng mọi giác quan của anh. Nó có cảm giác như một cuộc tấn công, làm cho anh lơ mơ và mất phương hướng. Và trong khi phản ứng của anh với London không kịch tính quá như thế, anh vẫn cảm thấy hơi giống một người lạ, những giác quan bị tràn ngập với các mùi hương và âm thanh lẽ ra không lạ lẫm đến vậy.
Anh đã thành một người lạ trên mảnh đất của chính mình? Điều đó có vẻ quá quái dị, thế mà, khi anh bước theo những con phố đông đúc của London tại khu buôn bán sang trọng nhất, anh không thể không nghĩ mình quá nổi bật, rằng bất cứ ai nhìn thoáng thấy anh cũng biết anh thật khác biệt, khác so với hình ảnh người Anh của họ.
Hoặc, anh nuốt khan, khi nhìn thấy bóng mình trong cửa kính một cửa hiệu, có thể là do cháy nắng.
Sẽ mất hàng tuần để nó nhạt đi. Hàng tháng, có lẽ vậy.
Mẹ anh sẽ phát hoảng lên thôi.
Ý nghĩ đó làm anh mỉm cười. Anh khá thích làm mẹ anh phát hoảng. Anh chưa bao giờ đủ lớn để việc đó thôi không còn thú vị nữa.
Anh rẽ sang Bruton Street và bước qua vài ngôi nhà tới Số Năm. Anh từng đến đây, tất nhiên. Mẹ Francesca luôn định nghĩa từ “gia đình” theo nghĩa rộng nhất có thể, và thế là Michael nhận ra mình được mời đến cùng với John và Francesca trong một số sự kiện của gia đình Bridgerton.
Khi anh đến, Bà Bridgerton đã ngồi sẵn trong căn phòng khách màu xanh và kem, uống một tách trà bên bàn giấy cạnh cửa sổ. “Michael!” bà kêu lên, đứng dậy với sự quý mến rõ rệt. “Thật vui được gặp cháu!”
“Bà Bridgerton,” anh nói, nắm lấy tay bà và đặt lên đó một nụ hôn lịch thiệp.
“Không ai làm việc đó như cháu,” bà nói vẻ hài lòng.
“Người ta phải luyện tập miếng tốt nhất của mình,” anh thì thào.
“Và bác phải nói với cháu là những quý bà các bác ở một độ tuổi nhất định đánh giá rất cao việc cháu làm như thế.”
“Độ tuổi nhất định đó là…” Anh cười ranh mãnh. “… ba mươi mốt?”
Bà Bridgerton là kiểu phụ nữ càng nhiều tuổi càng đáng yêu, nhưng nụ cười của bà với anh làm cho bà như tỏa sáng. “Cháu luôn luôn được chào đón ở ngôi nhà này, Michael Stirling.”
Anh mỉm cười và ngồi xuống cái ghế lưng cao bà ra hiệu mời anh ngồi.
“Ôi trời,” bà nói và khẽ nhăn mặt. “Bác phải xin lỗi. Bác đoán là bây giờ bác nên gọi cháu là Kilmartin.”
“Michael cũng hoàn toàn ổn,” anh đảm bảo với bà.
“Bác biết đã bốn năm rồi,” bà nói tiếp, “nhưng bác không được gặp cháu…”
“Bác có thể gọi cháu bằng bất cứ tên gì bác muốn,” anh nói nhẹ nhàng. Thật lạ. Cuối cùng anh cũng quen được gọi là Kilmartin, quen với việc danh hiệu của anh đã thay thế họ của mình. Nhưng đó là ở Ấn Độ, nơi không ai từng biết anh chỉ như là Ông Stirling bình thường, và có thể quan trọng hơn, không ai biết John như là một bá tước. Nghe đến danh hiệu của mình phát ra từ miệng Violet Bridgerton có vẻ hơi làm cụt hứng, đặc biệt bởi vì bà, giống như nhiều bà mẹ vợ khác, thường gọi John như là con đẻ của mình.
Nhưng nếu bà có cảm thấy sự khó chịu bên trong anh, bà chẳng để lộ một dấu hiệu nào hết. “Nếu cháu dễ tính như thế,” bà nói, “thì bác cũng sẽ phải vậy. Hãy gọi bác là Violet. Cũng đến lúc cháu làm thế rồi.”
“Ồ, cháu không thể,” anh nói vội. Và anh thực sự nghĩ vậy. Đây là Quý bà Bridgerton. Bà là… Ừm, anh không biết bà là thế nào, nhưng bà không thể chỉ là Violet đối với anh.
“Bác nhất quyết thế, Michael,” bà nói, “và bác chắc cháu cũng biết là bác thường được theo ý mình.”
Sẽ chẳng có cách nào anh thắng được cuộc tranh luận này, thế nên anh chỉ thở dài và nói, “Cháu không biết cháu có thể hôn tay một Violet không. Có vẻ thân mật quá mức, bác không nghĩ vậy sao?”
“Thách cháu dám thôi làm việc đó.”
“Người ta sẽ đàm tiếu,” anh cảnh báo với bà.
“Bác tin danh tiếng của bác chịu được chuyện đó.”
“A, nhưng danh tiếng của cháu thì sao?”
Bà cười lớn. “Cháu là thằng nhãi ranh ma.”
Anh ngả người trên ghế. “Cái đó cũng không tệ.”
“Cháu muốn uống trà không?” Bà đưa tay về phía cái ấm sứ trên mặt bàn bên kia phòng. “Trà của bác nguội rồi, nhưng bác rất sẵn lòng gọi thêm.”
“Cháu cũng muốn một chút,” anh thú thực.
“Bác tưởng cháu hỏng mất vị giác rồi, sau bao nhiêu năm ở Ấn Độ,” bà nói, đứng dậy và đi qua phòng để kéo chuông.
“Chúng không giống nhau,” anh nói, cũng vội đứng dậy. “Cháu không thể giải thích, nhưng chẳng có gì có vị giống trà nước Anh.”
“Do chất lượng nước, cháu có nghĩ thế không?”
Anh mỉm cười kín đáo. “Chất lượng của người phụ nữ rót trà.”
Bà cười phá lên. “Cháu, quý ngài, cần một cô vợ. Ngay lập tức.”
“Ồ, thật vậy ư? Tại sao?”
“Bởi vì với tình trạnh hiện tại của cháu, rõ ràng cháu là mối nguy hiểm cho những phụ nữ không chồng ở khắp nơi.”
Anh không thể cưỡng lại câu chọc ghẹo cuối cùng. “Cháu hy vọng bác tự gồm mình vào hàng ngũ đó, Violet.”
Và rồi một giọng nói đến từ phía cửa: “Anh đang trêu ghẹo mẹ tôi đấy à?”
Đó là Francesca, tất nhiên, xuất hiện không chê vào đâu được trong bộ váy buổi sáng màu xanh tái điểm một dải ren Bỉ khá cầu kỳ. Trông cô như đang cố ra vẻ nghiêm khắc với anh.
Và không hoàn toàn thành công.
Michael cho phép đôi môi mình cong lên thành một nụ cười bí hiểm khi anh nhìn hai người phụ nữ ngồi xuống. “Tôi đã đi cả thế giới, Francesca, và tôi có thể nói không cần nghĩ ngợi gì, rằng có rất ít phụ nữ mà tôi muốn trêu ghẹo hơn là mẹ cô.”
“Bác đang mời cháu đến ăn tối ngay đấy,” Violet thông báo, “và bác sẽ không chấp nhận câu trả lời là không.”
Michael cười lên. “Cháu rất vinh hạnh.”
Phía bên kia, Francesca lẩm bẩm, “Anh thật không thể sửa được.”
Anh chỉ nở với cô một nụ cười uyển chuyển. Thế này thật hay, anh quyết định vậy. Buổi sáng diễn ra đúng như anh hy vọng, anh và Francesca quay lại với những thói quen và vai trò cũ của họ. Anh một lần nữa lại làm tay chơi bất cần và cô giả vờ mắng anh, và tất cả lại như trước lúc John chết.
Anh đã rất ngạc nhiên đêm qua. Anh không nghĩ sẽ gặp cô. Và anh không thể chắc cái vẻ ngoài anh tạo ra vẫn còn nguyên.
Và không phải tất cả những cái đó là đóng kịch. Anh luôn hơi bất cần, và có thể anh là một kẻ hay tán tỉnh hết cách cứu. Mẹ anh rõ ràng thích nói rằng anh đã quyến rũ các bà các cô từ khi anh bốn tuổi.
Vấn đề là khi anh ở bên Francesca, điều tối quan trọng là khía cạnh đó trong tính cách của anh được thể hiện và giữ nguyên, để cô không bao giờ nghi ngờ cái nằm sâu bên dưới.
“Kế hoạch của cháu là gì khi giờ cháu đã về?” Violet hỏi.
Michael quay nhìn bà với một vẻ mặt anh biết là có vẻ trống rỗng. “Cháu không chắc, thực là vậy,” anh nói, hơi xấu hổ khi tự thú nhận với mình rằng đó là sự thật. “Cháu nghĩ sẽ cần chút thời gian để biết người ta trông đợi gì ở cháu với vai trò mới.”
“Bác chắc Francesca có thể hỗ trợ cháu trong chuyện đó,” Violet nói.
“Chỉ khi cô ấy muốn thế,” Michael nói khẽ.
“Tất nhiên,” Francesca nói, hơi nhích sang một bên khi một cô hầu mang vào một khay trà. “Tôi sẽ giúp anh theo bất cứ cách nào anh cần.”
“Nhanh thật đấy,” Michael lẩm bẩm.
“Bác điên vì trà,” Violet giải thích. “Uống suốt ngày. Những cô hầu bây giờ luôn để nước gần sôi trên bếp.”
“Anh uống một chút chứ?” Francesca hỏi, bởi vì cô vừa lãnh việc rót trà.
“Có, cảm ơn,” Michael trả lời.
“Không ai biết về Kilmartin như Francesca,” Violet nói, với tất cả niềm tự hào của một bà mẹ. “Nó sẽ là vô giá đối với cháu.”
“Cháu chắc là bác đúng,” Michael nói, nhận lấy tách trà từ Francesca. Cô đã nhớ cách anh uống—sữa, không đường. Vì lý do nào đó, việc này làm anh thật dễ chịu. “Cô ấy đã làm nữ bá tước sáu năm, và trong bốn năm, cô ấy còn phải làm cả bá tước nữa.” Với cái liếc đáng ngại của Francesca, anh nói thêm, “Theo tất cả các cách ngoại trừ cái tên. Ồ, thôi nào, Francesca, cô phải nhận ra rằng đó là sự thật.”
“Và,” anh thêm, “đó là một lời khen. Tôi nợ cô một món nợ lớn hơn tôi có thể có bao giờ trả được. Tôi đã không thể ở lại đó lâu như vậy nếu tôi không biết rằng lãnh địa đã được giao phó vào một đôi tay có năng lực.”
Francesca đỏ mặt, và điều đó làm anh ngạc nhiên. Trong những năm anh biết cô, anh có thể đếm trên đầu ngón tay những lần anh thấy đôi má cô ửng hồng.
“Cảm ơn anh,” cô thì thầm. “Cũng không khó lắm, tôi đảm bảo với anh.”
“Có thể, nhưng việc đó vẫn đáng trân trọng vậy.” Anh nâng tách trà lên môi, để cho hai phụ nữ hướng câu chuyện từ đó.
Và họ đã làm. Violet hỏi anh về thời gian ở Ấn Độ, và trước khi anh kịp nhận ra, anh kể cho họ về những cung điện và những nàng cô chúa, những đoàn lữ hành và cà ri. Anh bỏ qua những tên cướp và sốt rét, vì nghĩ rằng chúng không phải chủ đề thích hợp cho một cuộc nói chuyện trong phòng khách.
Sau một lúc anh nhận ra mình đang rất vui vẻ. Có thể, anh nghĩ, nhớ lại thời gian đó trong khi Violet nói gì đó về buổi dạ hội chủ đề Ấn Độ bà đã dự vài năm trước, có thể anh đã quyết định đúng.
Về nhà có thể thực sự là một điều hay.
Một giờ sau, Francesca nhận ra mình đang nắm cánh tay Michael, dạo bước qua Hyde Park. Mặt trời đã xuyên qua những đám mây, và khi cô tuyên bố cô không thể cưỡng lại thời tiết đẹp, Michael không còn cách nào khác là đưa cô đi dạo.
“Thật giống ngày xưa,” cô nói, ngửa mặt lên hướng về phía mặt trời. Gần như chắc chắn cô sẽ bị rám nắng kinh khiếp, hoặc ít nhất cũng bị tàn nhang, nhưng cô nghĩ là cô sẽ luôn trông như đồ sứ bên cạnh Michael, làn da anh chỉ rõ đây là một người mới trở về từ vùng nhiệt đới.
“Việc đi dạo, ý cô là vậy?” anh hỏi. “Hay là việc cô đã khiến cho tôi phải đi cùng cô một cách thành thạo.”
Cô cố giữ vẻ mặt thản nhiên. “Cả hai, tất nhiên. Anh thường hay đưa tôi ra ngoài mà. Mỗi khi John bận.”
“Đúng là tôi có như vậy.”
Họ bước đi trong im lặng một lúc, và rồi anh nói, “Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy cô đã đi sáng nay.”
“Tôi hy vọng anh hiểu tại sao tôi phải đi,” cô nói. “Tôi không muốn thế, tất nhiên; quay về nhà mẹ đẻ khiến tôi cảm thấy như lại quay ngay về thời trẻ con.” Cô cảm thấy đôi môi mình mím lại khó chịu. “Tôi yêu bà, tất nhiên, nhưng tôi đã khá quen với việc điều hành gia đình của riêng mình.”
“Cô có muốn tôi ra ở chỗ khác không?”
“Không, tất nhiên là không,” cô nói nhanh. “Anh là bá tước. Ngôi nhà Kilmartin thuộc về anh. Hơn nữa, Helen và Janet chỉ chậm hơn tôi một tuần; họ sẽ đến ngay thôi, và lúc đó tôi lại có thể dọn về lại.”
“Cố lên, Francesca. Tôi chắc chắn cô sẽ chịu đựng được.”
Cô liếc anh một cái. “Chẳng phải là một chuyện mà anh—hay bất cứ người đàn ông nào, trong vấn đề này— có thể hiểu được, nhưng tôi thích mình là một phụ nữ có chồng hơn làm một cô gái mới trình làng. Mỗi khi tôi ở Số Năm, với cả Eloise và Hyacinth ở đó, tôi có cảm giác như thể tôi lại trở lại mùa lễ hội đầu tiên, với tất cả những phép tắc và quy định cho người tham dự.”
“Không phải tất cả,” anh chỉ ra. “Nếu điều đó đúng, cô sẽ không được phép ra ngoài với tôi lúc này.”
“Đúng,” cô thừa nhận. “Đặc biệt là với anh, tôi nghĩ vậy.”
“Và cái đó có nghĩa là gì đây?”
Cô cười lớn. “Ồ, thôi nào, Michael. Anh không nghĩ là tiếng tăm của anh tự dưng được gột sạch chỉ bởi vì anh đã ra nước ngoài bốn năm đấy chứ?”
“Francesca—”
“Anh là huyền thoại rồi.”
Trông anh có vẻ kinh hãi.
“Đó là sự thật,” cô nói, tự hỏi sao anh lại ngạc nhiên vậy. “Chúa ơi, phụ nữ vẫn còn nói chuyện về anh.”
“Không phải với cô, tôi hy vọng thế,” anh lẩm bẩm.
“Ồ, đặc biệt là với tôi.” Cô mỉm cười ma mãnh. “Tất cả bọn họ đều muốn biết khi nào anh định trở về. Và chắc chắn sẽ còn tệ hơn khi tin anh về được đồn ra. Tôi phải nói rằng, đó là một vai trò thật kỳ cục—người bạn tâm sự của tay chơi khét tiếng nhất London.”
“Bạn tâm sự, hử?”
“Anh sẽ gọi nó là cái gì nữa?”
“Không, không, bạn tâm sự là một từ hoàn toàn thích hợp. Chỉ là nếu cô nghĩ tôi đã tâm sự tất cả mọi thứ với cô…”
Francesca ném cho anh một vẻ mặt cáu kỉnh. Đúng là kiểu của anh, để cho câu nói ngắt giữa chừng một cách đầy ẩn ý, để cho trí tưởng tượng của cô sôi lên với những câu hỏi. “Tôi coi như thế có nghĩa là,” cô lầm bầm, “anh chưa nói hết cho chúng tôi về những chuyện ở Ấn Độ.”
Anh chỉ mỉm cười. Ma mãnh.
“Được thôi. Cho chép tôi, nếu vậy, chuyển cuộc nói chuyện sang một hướng đứng đắn hơn. Anh định làm gì, khi anh đã về? Anh có lãnh ghế trong Nghị viện không?”
Trông anh có vẻ như chưa nghĩ đến chuyện đó.
“John sẽ muốn như vậy,” cô nói, biết rằng mình đang mưu mô khủng khiếp.
Michael nhìn cô u ám, và đôi mắt anh cho cô biết rằng anh không thích chiến thuật của cô.
“Anh cũng sẽ phải lấy vợ,” Francesca nói.
“Cô định đóng vai bà mối cho tôi phải không?” anh nói vẻ cáu bẳn.
Cô nhún vai. “Nếu anh muốn thế. Tôi chắc chắn tôi không thể làm việc đó tệ hơn anh.”
“Chúa ơi,” anh rên, “tôi vừa về được một ngày. Chúng ta có cần bàn chuyện này bây giờ không?”
“Không, tất nhiên là không,” cô thừa nhận. “Nhưng phải sớm. Anh không trẻ thêm tí nào đâu.”
Michael nhìn chăm chăm vào cô như bị choáng. “Tôi không thể tưởng tượng sẽ để cho ai khác nói với tôi theo kiểu đó.”
“Đừng quên mẹ anh,” cô nói với một nụ cười thỏa mãn.
“Cô,” anh nói khá lớn, “không phải mẹ tôi.”
“Ơn chúa vì điều đó,” cô đáp trả. “Tôi sẽ chết vì đau tim hàng năm trước rồi. Tôi không biết sao bà có thể chịu được.”
Anh đứng lại giữa đường. “Tôi không tệ đến thế.”
Cô nhún vai rất nhẹ. “Thật sao?”
Và anh không biết nói gì. Hoàn toàn không biết nói gì. Đây là một cuộc nói chuyện họ đã nói không biết bao nhiêu lần, nhưng giờ đây có cái gì đó khác. Giọng cô dường như có góc cạnh, một cú đâm trong những lời nói của cô mà chưa từng bao giờ có trước đây.
Hoặc có thể chỉ vì anh chưa bao giờ nhận ra cái đó.
“Ồ, đừng trông có vẻ choáng váng như vậy, Michael,” cô nói, với tay qua và vỗ vỗ cánh tay anh. “Tất nhiên là anh có danh tiếng tệ hại. Nhưng anh luôn luôn hấp dẫn, và thế nên anh luôn được tha thứ.”
Đó có phải là cách cô nghĩ về anh không, anh tự hỏi. Và tại sao anh lại ngạc nhiên chứ? Đó chính là hình ảnh anh đã xây dựng nên.
“Và bây giờ anh là bá tước,” cô nói tiếp, “các bà mẹ sẽ đổ lên đổ xuống để ghép anh với những cô con gái quý giá của họ.”
“Tôi thấy lo,” anh nói khẽ trong hơi thở. “Rất lo.”
“Anh nên thế,” cô nói, chẳng hề có một chút cảm thông nào hết. “Đó sẽ là một cuộc nhồi nhét điên loạn, tôi đảm bảo. Anh thật may là tôi đã kéo mẹ tôi sang một bên sáng nay và bắt bà thề sẽ không quăng Eloise và Hyacinth về phía anh. Bà cũng sẽ làm thế đấy,” cô thêm, rõ ràng đang hứng thú với câu chuyện.
“Tôi nhớ hình như cô thường thích thú với việc quăng chị em cô về phía tôi.”
Môi côi hơi xoắn lại. “Đó là mấy năm trước rồi,” cô nói, vung tay trong không khí như thể cô có thể xua đi những câu nói đó khỏi đầu óc anh. “Hai người sẽ không bao giờ hợp.”
Anh chưa bao giờ muốn tán tỉnh bất cứ ai trong số chị em của cô, nhưng anh không thể cưỡng lại cơ hội được chọc ghẹo Francesca một chút. “Eloise,” anh hỏi, “hay Hyacinth?”
“Cả hai,” cô nói, với đủ độ gắt gỏng để làm anh cười. “Nhưng tôi sẽ kiếm cho anh một ai đó, đừng lo.”
“Tôi có lo không?”
Cô tiếp tục như thể anh chưa nói gì. “Tôi nghĩ tôi sẽ giới thiệu anh với Penelope bạn Eloise.”
“Cô Featherington?” anh hỏi, lờ mờ nhớ lại một cô gái hơi đẫy đà và chẳng bao giờ nói gì.
“Chị ấy cũng là bạn tôi, tất nhiên,” Francesca thêm. “Tôi tin là anh sẽ thích chị ấy.”
“Cô ấy đã học nói rồi à?”
Cô lườm anh. “Tôi sẽ bỏ qua câu đó. Penelope hoàn toàn là một quý cô đáng yêu và rất thông minh một khi chị ấy vượt qua sự ngượng ngùng lúc đầu.”
“Và cái đó thì mất bao lâu?” anh lầm bầm.
“Tôi nghĩ chị ấy sẽ bổ sung cho anh rất tốt,” Francesca tuyên bố.
“Francesca,” anh nói, hơi cao giọng, “cô sẽ không làm mối cho tôi, đã rõ chưa nhỉ?”
“Ừm, ai—”
“Và đừng có nói ai đó sẽ phải làm việc đó,” anh chen vào. Thật sự, cô vẫn là cuốn sách để mở như năm xưa. Cô luôn luôn muốn sắp xếp cuộc đời của anh.
“Michael,” cô nói, câu nói phát ra như một tiếng thở dài quá ra vẻ chịu đựng, hơn là cô có quyền được tỏ ra như vậy.
“Tôi vừa mới về được một ngày,” anh nói. “Một ngày. Tôi mệt, và tôi chẳng quan tâm mặt trời có hé ra không—tôi vẫn lạnh chết đi được, và đồ đạc của tôi thậm chí còn chưa được giở ra. Làm ơn làm phước cho tôi ít nhất một tuần đã, trước khi cô bắt đầu lên kế hoạch cho đám cưới của tôi.”
“Một tuần, vậy nhé?” cô nói vẻ ranh mãnh.
“Francesca,” anh nói, giọng anh nhuốm vẻ cảnh cáo.
“Được thôi,” cô nói lảng. “Nhưng đừng có bảo là tôi không nói trước với anh. Một khi anh quay trở lại giới quý tộc, và các quý cô trẻ dồn anh vào chân tường đợi các bà mẹ tới ra đòn kết liễu—”
Anh run lên trước hình ảnh đó. Và vì biết rằng dự đoán của cô có thể đúng.
“— anh sẽ cầu xin sự cứu giúp của tôi,” cô kết thúc, nhìn anh với một vẻ mặt thỏa mãn đáng bực mình.
“Tôi chắc là tôi sẽ,” anh nói, nở một nụ cười kẻ cả với cô mà anh biết cô rất ghét. “Và khi điều đó xảy ra, tôi hứa với cô tôi sẽ hoàn toàn quy phục, với sự hối tiếc, đau khổ, hổ thẹn, và bất cứ cảm giác khó chịu nào cô muốn gán cho tôi.”
Và thế là cô cười phá lên, làm trái tim anh ấm lên nhiều hơn quá nhiều so với anh đáng ra nên cho phép. Anh luôn có thể làm cô cười.
Cô quay sang anh và mỉm cười, rồi vỗ vỗ cánh tay anh. “Thật tốt khi có anh trở về.”
“Thật tốt được trở về,” anh nói. Anh tự buột ra câu đó, nhưng anh nhận ra mình thực sự nghĩ vậy. Thật tốt. Khó khăn, nhưng tốt. Nhưng ngay cả sự khó khăn cũng không đáng để phàn nàn. Nó chắc chắn chẳng phải là chuyện gì anh không quen thuộc.
Họ đã vào khá sâu trong Hyde Park, và chung quanh đã trở nên đông đúc hơn. Những cái cây chỉ vừa mới đâm chồi, nhưng không khí vẫn đủ lạnh để những người đi dạo không phải tìm kiếm bóng râm.
“Tôi lẽ ra nên mang bánh mỳ cho lũ chim,” Francesca nói khẽ.
“Ở hồ Serpentine?” Michael hỏi với vẻ ngạc nhiên. Anh từng hay đi dạo trong Hyde Park với Francesca, và họ thường tránh khu vực bờ hồ Serpentine như tránh dịch. Ở đó lúc nào cũng đầy các cô bảo mẫu và trẻ em, hò hét như lũ mọi con (thường các cô bảo mẫu hét to hơn cả bọn trẻ) và Michael có ít nhất một người quen từng lãnh nguyên một ổ bánh mỳ vào đầu.
Dường như chẳng ai nói với những mầm non cricket tương lai rằng người ta nên chia nhỏ cái bánh mỳ thành những miếng dễ điều khiển hơn—và đỡ nguy hiểm hơn.
“Tôi thích ném bánh mỳ cho lũ chim,” Francesca nói, hơi có vẻ bao biện. “Hơn nữa, sẽ chẳng có nhiều trẻ con lắm vào hôm nay đâu. Vẫn còn hơi lạnh.”
“Chưa bao giờ ngăn được John và tôi,” Michael nói khiêu khích.
“Đúng, ừm, các anh là người Scotland,” cô trả lời. “Máu trong người các anh cũng đông sẵn một nửa rồi.”
Anh cười. “Một đám cuồng nhiệt, người Scot chúng tôi.” Cái đó có pha một chút đùa cợt. Với quá nhiều sự kết hôn qua lại, gia đình này ít nhất cũng mang máu Anh nhiều như máu Scotland, thậm chí còn hơn, nhưng do Kilmartin nằm ở những hạt gần biên giới, nhà Stirling bám lấy dòng máu Scotland của họ như một tấm huân chương danh dự.
Họ tìm thấy một cái ghế băng không xa hồ Serpentine và ngồi xuống, thảnh thơi ngắm những con vịt trên mặt nước.
“Cô có thể nghĩ chúng nên tìm một nơi ấm hơn,” Michael nói. “Pháp, có thể thế.”
“Và bỏ lỡ chỗ thức anh bọn trẻ ném cho chúng?” Francesca mỉm cười tinh quái. “Chúng đâu có ngu.”
Anh chỉ nhún vai. Anh sẽ quá lố nếu giả vờ có chút kiến thức nào đó về hành vi của chim muông.
“Anh thấy thời tiết ở Ấn Độ thế nào?” Francesca hỏi. “Nó có nóng như người ta nói không?”
“Còn hơn thế,” anh trả lời. “Hoặc có thể không. Tôi không biết. Tôi nghĩ sự mô tả là hoàn toàn chính xác. Vấn đề là, chẳng người Anh nào thực sự hiểu được ý họ cho đến khi anh ta đến đó.”
Cô nhìn anh tò mò.
“Nó nóng hơn cả cô có thể tưởng tượng,” anh nói, thẳng tuột.
“Nghe có vẻ… Ừm, tôi chẳng biết nghe có vẻ ra làm sao,” cô thú nhận.
“Cái nóng chẳng thể gây khổ sở bằng lũ côn trùng.”
“Nghe thật khiếp,” Francesca kết luận.
“Có thể cô sẽ không thích đâu. Không nếu định ở dài, dù sao đi nữa.”
“Nhưng tôi thích du lịch,” cô nói khẽ. “Tôi luôn định như thế.”
Cô trở nên im lặng, gật đầu một cách lơ đãng, cằm cô đưa lên và xuống thật lâu đến mức anh chắc cô đã quên mất mình đang làm vậy. Rồi anh nhận ra đôi mắt cô đang dán vào đâu đó ở xa xa. Cô đang ngắm cái gì đó, nhưng có chết anh cũng không thể hình dung là cái gì. Chẳng có gì thú vị ở trong khung cảnh đó, chỉ là một cô bảo mẫu cau có đang đẩy chiếc xe nôi.
“Cô đang nhìn gì vậy?” cuối cùng anh hỏi.
Cô không nói gì, chỉ tiếp tục nhìn chằm chằm.
“Francesca?”
Cô quay sang anh. “Tôi muốn một em bé.”