” Con chắc Michael cũng sẽ viết thư, nhưng vì con coi mẹ là một người bạn rất rất thân thiết, con muốn tự mình viết để thông báo rằng chúng con đã lấy nhau. Mẹ có ngạc nhiên không? Con phải thú nhận là con có.
—của Nữ bá tước Kilmartin gửi Helen Stirling, ba ngày sau khi cô kết hôn với Bá tước Kilmartin
“Trông anh thật kinh khủng.”
Michael quay người nhìn Francesca với một vẻ mặt tỉnh queo. “Và anh cũng chúc em buổi sáng tốt lành,” anh nói, quay lại tập trung vào món trứng và bánh mỳ nướng.
Francesca ngồi vào chỗ đối diện anh ở phía bên kia bàn ăn sáng. Cuộc hôn nhân của họ đã bước sang tuần thứ hai; Michael đã dậy sớm sáng hôm đó, và khi cô tỉnh dậy, giường bên phía anh đã không còn ấm.
“Em không đùa đâu,” cô nói, cảm thấy sự lo lắng làm cho trán mình nhíu lại thành các nếp nhăn. “Anh trông khá nhợt nhạt, và anh thậm chí còn chẳng ngồi thẳng. Anh nên về lại giường và nghỉ ngơi một chút.”
Anh ho, rồi lại ho, cơn ho thứ hai làm người anh co lại. “Anh ổn,” anh nói, mặc dù câu đó phát ra như một tiếng thở hổn hển.
“Anh không ổn.”
Anh đảo mắt. “Mới lấy nhau hai tuần, và em đã—”
“Nếu anh không muốn có một cô vợ hay cằn nhằn, anh đã không nên lấy em,” Francesca nói, ước lượng khoảng cách giữa chiếc bàn và kết luận cô không thể với tay đủ xa để sờ vào trán anh xem có sốt không.
“Anh ổn,” anh nói chắc chắn, lần này anh cầm tờ The London Times lên—nó đã cũ vài ngày, nhưng cũng là cập nhật nhất họ có thể trông đợi tại những hạt biên giới Scotland này—và quyết định lờ cô đi.
Hai người đều có thể chơi trò đó, Francesca kết luận, và cô bỏ hết sự chú ý vào cái công việc đầy thử thách là phết mứt lên bánh của mình.
Ngoại trừ việc anh lại ho.
Cô ngọ ngoạy trên ghế, cố không nói gì cả.
Anh lại ho, lần này phải xoay khỏi cái bàn để có thể gập người xuống một chút.
“M—”
Anh ném cho cô một cái nhìn quyết liệt làm cô ngậm chặt miệng lại.
Cô nheo mắt.
Anh nghiêng đầu theo một cách lịch sự đến mức đáng ghét, và rồi làm hỏng hẳn ấn tượng đó khi người anh lại run lên bần bật với một trận ho khác.
“Đủ rồi,” Francesca tuyên bố, đứng dậy. “Anh sẽ quay lại giường. Ngay bây giờ.”
“Anh ổn,” anh gầm gừ.
“Anh không ổn.”
“Anh—”
“Ốm,” cô chen ngang. “Anh ốm, Michael. Bệnh, yếu, mắc dịch, anh ốm. Như một con cún. Em không hiểu làm cách nào em có thể nói điều đó rõ ràng hơn nữa.”
“Anh không mắc dịch,” anh lẩm bẩm.
“Không,” cô nói, vòng sang bên kia bàn và túm lấy cánh tay anh, “nhưng anh bị sốt rét, và—”
“Đây không phải là sốt rét,” anh nói, đấm đấm ngực khi anh lại ho lần nữa.
Cô kéo anh đứng dậy, một công việc cô không thể hoàn thành mà không có chút sự trợ giúp của chính anh. “Sao anh biết được?” cô hỏi.
“Anh chỉ biết thế thôi.”
Cô dẩu môi.”Và anh nói dựa trên sự tinh thông nghề y, có được nhờ—”
“Nhờ đã bị căn bệnh đó trong hầu hết cả năm,” anh chen vào. “Không phải là sốt rét.”
Cô đẩy anh về phía cánh cửa.
“Ngoài ra,” anh phản đối, “còn quá sớm.”
“Sớm cho cái gì?”
“Cho một lần lên cơn nữa,” anh giải thích vẻ mệt mỏi. “Anh vừa mới bị ở London, bao lâu nhỉ—hai tháng trước đây? Còn quá sớm.”
“Tại sao lại là quá sớm?” cô hỏi, giọng cô khẽ một cách lạ lùng.
“Nó là thế,” anh lẩm bẩm, nhưng bên trong, anh biết một sự thật khác. Nó không quá sớm; anh đã biết nhiều người bị những đợt lên cơn sốt rét cách nhau hai tháng.
Họ đều ốm. Rất ốm.
Khá nhiều trong số họ đã chết.
Nếu những lần lên cơn của anh trở nên sát nhau hơn, liệu đó có phải là căn bệnh của anh đang chiến thắng?
Nào, giờ thì có một sự mỉa mai cho anh đây. Anh cuối cùng đã lấy được Francesca, và giờ anh có thể sắp chết.
“Nó không phải là sốt rét,” anh lại nói, lần này với nhiều sức đến nỗi làm cô dừng bước và ngước nhìn anh.
“Nó không phải,” anh nói.
Cô chỉ gật đầu.
“Có thể chỉ là cảm lạnh,” anh nói.
Cô lại gật đầu, nhưng anh cảm nhận bằng trực giác rằng cô chỉ đang chiều theo anh.
“Em sẽ đưa anh về giường,” cô nói nhẹ nhàng. Và anh để cô làm vậy.
Mười tiếng sau, Francesca đang phát hoảng. Cơn sốt của Michael càng nóng hơn, và mặc dù anh không bị mê sảng hay nói mớ, rõ ràng là anh đang rất, rất ốm. Anh cứ nói mãi rằng nó không phải là sốt rét, và nó cũng không có vẻ giống sốt rét, nhưng mỗi khi cô gặng hỏi anh chi tiết hơn, anh không thể giải thích tại sao—ít nhất cũng không đủ làm cô thỏa mãn.
Cô chẳng biết nhiều về căn bệnh đó; những hiệu sách lịch sự dành cho quý cô ở London từ chối bán các loại sách về y học. Cô từng muốn hỏi bác sĩ riêng của mình, hay thậm chí tìm đến một chuyên gia trong trường Cao đẳng y khoa hoàng gia, nhưng cô đã hứa với Michael là cô sẽ giữ bí mật về căn bệnh của anh. Nếu cô chạy khắp thành phố và hỏi về sốt rét, cuối cùng sẽ có ai đó muốn biết tại sao. Vì thế, hầu như tất cả những gì cô biết đều là từ Michael, trong những tháng ngắn ngủi sau khi anh về từ Ấn Độ.
Nhưng khi những đợt lên cơn sát nhau hơn, dường như có cái gì đó không ổn. Mặc dù, cô phải thừa nhận, cũng chẳng phải là cô có chút kiến thức về y học nào để có thể dự đoán như vậy. Khi anh ngã bệnh ở London, anh từng nói rằng đã sáu tháng kể từ sau những cơn sốt gần nhất, và trước đó là ba tháng.
Tại sao căn bệnh đó lại đột ngột thay đổi chu trình lên cơn nhanh đến vậy? Hoàn toàn không có lý. Không khi mà anh đang khá lên.
Và anh phải đang khá lên. Anh phải như vậy.
Cô thở dài, đưa tay ra để sờ trán anh. Anh đang ngủ, ngáy khẽ, như anh thường vậy khi bị nghẹt mũi. Hoặc đúng hơn là như anh đã kể với cô. Họ chưa lấy nhau đủ lâu để cô có thể tự khám phá ra chuyện đó.
Làn da anh nóng, mặc dù chưa đến mức nóng rực. Miệng anh có vẻ khô khốc, và cô bón chút trà ấm vào miệng anh, nghiêng cằm anh lên để cố giúp anh nuốt vào trong khi ngủ.
Thay vào đó, anh sặc và tỉnh dậy, phun nước trà phì phì trên giường.
“Xin lỗi,” Francesca nói, quan sát mức độ tàn phá. Ít nhất cũng mới chỉ có một thìa nhỏ.
“Em đang làm cái quỷ gì với anh thế?” anh lập bập.
“Em không biết,” cô thú nhận. “Em chẳng có nhiều kinh nghiệm chăm sóc người ốm lắm. Trông anh có vẻ khát.”
“Lần sau anh khát, anh sẽ nói với em,” anh gầm gừ.
Cô gật đầu đồng ý và quan sát khi anh nhúc nhích tìm lại tư thế thoải mái. “Anh không khát ngay lúc này chứ?” cô hỏi với một giọng điềm đạm.
“Chỉ hơi hơi,” anh nói, giọng anh hơi đứt quãng.
Không nói một lời, cô giơ tách trà ra. Anh uống sạch chỉ với một hơi.
“Anh muốn một tách nữa không?”
Anh lắc đầu. “Thêm chút nào nữa và anh sẽ phải đi t—” Anh ngừng lại và hắng giọng. “Xin lỗi,” anh lẩm bẩm.
“Em có bốn anh em trai,” cô nói. “Đừng để ý. Anh có cần em lấy cho anh cái bô không?”
“Anh có thể tự làm.”
Trông anh không đủ khỏe để tự đi qua bên kia phòng, nhưng cô đủ khôn ngoan để không tranh cãi với một người đàn ông trong tình trạng cáu kỉnh như thế. Anh sẽ nhận ra khi anh cố đứng lên và lại ngã phịch xuống giường. Cô có tranh cãi mấy cũng chẳng thể thuyết phục anh được.
“Anh sốt khá cao,” cô nói nhẹ nhàng.
“Không phải là sốt rét đâu.”
“Em chưa nói—”
“Em đang nghĩ đến nó.”
“Nếu đúng là sốt rét thì sao?” cô hỏi.
“Không phải—”
“Nhưng nếu đúng?” cô chen vào, và nhận ra với sự sợ hãi, giọng nói cô có cái âm thanh kinh khủng đó, cái tiếng vo ve vẻ khiếp sợ cô phát ra trước khi nghẹn lại.
Michael ngước nhìn cô trong vài giây, đôi mắt anh u ám. Cuối cùng, anh chỉ lăn người qua chỗ khác và nói, “Không phải.”
Francesca nuốt vào. Cô đã có câu trả lời rồi. “Anh có phiền không nếu em đi?” cô buột miệng, đứng lên nhanh đến nỗi lảo đảo vì choáng.
Anh không nói gì, nhưng cô có thể thấy anh nhún vai dưới những tấm chăn.
“Chỉ đi dạo thôi,” cô nói ngập ngừng, bước về phía cửa. “Trước khi mặt trời xuống.”
“Anh sẽ ổn,” anh khò khè.
Cô gật đầu, mặc dù anh đang không nhìn cô. “Em sẽ sớm quay lại,” cô nói.
Nhưng anh đã lại ngủ thiếp đi.
Không khí mờ sương và de dọa còn có mưa nữa, nên Francesca vớ lấy một cái áo khoác mưa và ra cái chòi nghỉ. Bốn phía chòi để trống, nhưng nó có một cái mái, và kể cả nếu bầu trời có mở toác ra, cô vẫn có thể giữ cho mình tương đối khô.
Nhưng với mỗi bước đi, có cảm giác như hơi thở cô càng thêm khó nhọc, và khi cô tới được đích đến của mình, cô đã thở hồng hộc vì cố sức, không phải do cuộc đi bộ, mà chỉ do phải kìm nén những giọt nước mắt.
Ngay khi cô vừa ngồi xuống, cô thôi không cố nữa.
Từng tiếng thút thít vang lên thật lớn, và thật không giống một quý cô, nhưng cô chẳng cần.
Michael có thể đang chết. Và với tất cả những gì cô biết, anh đang chết, và cô sắp làm một bà góa lần thứ hai.
Và lần trước nó đã gần như giết chết cô.
Và cô chẳng biết liệu mình có đủ mạnh mẽ để trải qua tất cả chuyện đó một lần nữa không. Cô chẳng biết liệu cô có muốn đủ mạnh mẽ nữa không.
Thật không đúng, thật không công bằng, chết tiệt, khi mà cô có thể sẽ phải mất đến hai người chồng trong khi có bao nhiêu phụ nữ có thể giữ lấy một người cho cả cuộc đời họ. Và hầu hết những phụ nữ đó thậm chí còn chẳng thích chồng mình, trong khi cô, người thực sự yêu cả hai—
Hơi thở Francesca ngưng lại.
Cô yêu anh? Michael?
Không, không, cô tự nhủ, cô không yêu anh. Không phải như vậy. Khi cô nghĩ về nó, khi từ đó vang lên trong óc cô, ý cô là trong tình bạn. Tất nhiên cô yêu Michael theo cách đó. Cô đã luôn yêu anh, đúng không nào? Anh là bạn tốt nhất của cô, đã như vậy ngay từ khi John còn sống.
Cô tưởng tượng ra anh, thấy gương mặt anh, nụ cười của anh.
Cô nhắm mắt lại, nhớ lại nụ hôn của anh và cảm giác tuyệt vời của bàn tay anh trên eo lưng cô khi họ bước đi trong tòa nhà.
Và cuối cùng cô hiểu ra tại sao tất cả mọi chuyện đều có vẻ khác lạ giữa họ dạo gần đây. Đó không phải, như cô từng nghĩ lúc đầu, bởi vì họ đã lấy nhau. Đó không phải vì anh là chồng cô, vì cô đã đeo chiếc nhẫn của anh trên ngón tay mình.
Đó là vì cô yêu anh.
Thứ có giữa bọn họ, sự gắn bó—đó không phải chỉ là sự đam mê, và nó không hề xấu xa.
Đó là tình yêu, và nó thật thiêng liêng.
Và Francesca cũng không thể ngạc nhiên hơn ngay cả nếu John hiện hình trước mặt cô và nhảy một điệu nhảy xoay vòng kiểu Ireland.
Michael.
Cô yêu Michael.
Không chỉ như một người bạn, mà như một người chồng và một người tình. Cô yêu anh với sự sâu sắc và mãnh liệt cô đã từng cảm thấy với John.
Nó khác, bởi vì họ là những con người khác nhau, và cô bây giờ cũng đã khác, nhưng nó vẫn là một. Đó là tình yêu của một người đàn bà dành cho một người đàn ông, và nó ngập tràn tới tất cả mọi ngóc ngách trong trái tim cô.
Và có Chúa, cô không muốn anh chết.
“Ngươi không thể làm thế này với ta,” cô gào, chống tay vào thành cái ghế dài trong chòi nghỉ và nhìn lên bầu trời. Một giọt mưa to đùng rơi lên chóp mũi cô, bắn tóe lên mắt.
“Ồ, không ngươi không,” cô gầm gừ, quẹt chỗ nước đi. “Đừng có nghĩ là ngươi có thể—”
Ba giọt mưa nữa, liên tiếp.
“Chết tiệt,” Francesca lẩm bẩm, tiếp theo là một câu “Xin lỗi,” hướng lên những đám mây.
Cô lui đầu vào lại trong chòi, trốn dưới cái mái gỗ khi cơn mưa trở nên nặng hạt.
Cô phải làm gì bây giờ? Lao về phía trước với tất cả sự quyết tâm vì một mục đích duy nhất, giống như một thiên thần báo thù, hay là khóc ngon lành và tự thấy thương xót bản thân mình?
Hoặc có thể là mỗi thứ một tí.
Cô nhìn ra ngoài cơn mưa, giờ đang ầm ầm trút xuống với đủ sức mạnh để gieo rắc nỗi khiếp sợ vào trái tim của ngay cả những thiên thần báo thù quyết tâm nhất.
Chắc chắn là mỗi thứ một tí.
Michael mở mắt ra, ngạc nhiên khi nhận ra trời đã sáng. Anh chớp mắt vài lần, chỉ để xác nhận điều đó. Những tấm rèm được kéo kín, nhưng không hoàn toàn, và có một tia sáng rõ ràng đang tạo nên một dải sáng dọc trên tấm thảm.
Buổi sáng. Ừm. Anh hẳn phải đã rất mệt. Điều cuối cùng anh nhớ là Francesca lao ra khỏi cửa, nói rằng cô định đi dạo, mặc dù sự thực là bất cứ tên ngốc nào cũng sẽ nhận ra trời sắp mưa.
Cái cô gái ngốc nghếch.
Anh cố gắng ngồi dậy, rồi lại nhanh chóng đổ phịch xuống trên những tấm chăn. Chết tiệt, anh cảm thấy như chết rồi. Không phải là, anh thừa nhận, một sự ví von hay ho lắm trong hoàn cảnh lúc này, nhưng anh chẳng thể nghĩ ra cái gì khác đủ để tả sự đau nhức đang gặm lấy cơ thể anh. Anh cảm thấy mệt rũ, gần như dính chặt vào đệm. Ngay cả ý nghĩ phải ngồi dậy cũng đủ làm anh rên lên.
Chết tiệt, anh thật là khốn khổ.
Anh sờ tay vào trán mình, cố xem xem mình còn sốt không, nhưng trán anh nóng, và bàn tay anh cũng vậy; anh chẳng thể biết được gì ngoài một điều là anh đang mướt mồ hôi và chắc chắn cần phải tắm kỹ càng.
Anh cố hít ngửi không khí chung quanh, nhưng mũi anh tịt đến nỗi cuối cùng anh lại ho lên sù sụ.
Anh thở dài. Ừm, nếu anh bốc mùi, thì ít nhất anh cũng không phải ngửi.
Anh nghe một âm thanh khe khẽ ở phía cửa và ngước lên để nhìn thấy Francesca bước vào phòng. Cô đi rón rén trên hai bàn chân đeo tất, rõ ràng đang cố để không đánh thức anh. Khi cô tới bên giường, tuy nhiên, cuối cùng cô cũng nhìn anh và thốt lên một tiếng “Ồ!” khẽ vì ngạc nhiên.
“Anh dậy rồi,” cô nói.
Anh gật đầu. “Mấy giờ rồi?”
“Tám rưỡi. Không muộn lắm, thực ra là thế, nhưng anh đã ngủ tối qua, từ trước cả giờ ăn tối.”
Anh gật đầu lần nữa, bởi vì anh thực sự cũng chẳng có gì hay ho để thêm vào câu chuyện. Và hơn nữa, anh quá mệt để nói.
“Anh cảm thấy thế nào?” cô hỏi, ngồi xuống bên cạnh anh. “Và anh có muốn ăn cái gì đó không?”
“Như muốn chết, và không, cảm ơn em.”
Môi cô khẽ cong lên. “Cái gì đó để uống?”
Anh gật đầu.
Cô nhấc lên một cái bát nhỏ vẫn nằm trên cái bàn gần đó. Một cái đĩa úp lên trên, có thể là để giữ ấm thứ chứa bên trong. “Nó là của đêm qua,” cô nói, vẻ xin lỗi, “nhưng em đã đậy nó lại, nên chắc cũng không đến nỗi quá kinh khủng.”
“Súp loãng?” anh hỏi.
Cô gật đầu, ghé một cái thìa vào môi anh. “Có nguội quá không?”
Anh nhấp một chút, rồi lắc đầu. Nó thậm chí cũng chẳng thể coi là ấm, nhưng anh không nghĩ mình có thể chịu được cái gì quá nóng, đằng nào cũng thế.
Cô cho anh ăn trong im lặng khoảng một phút gì đó, và rồi, khi anh nói anh đã ăn đủ, cô đặt cái bát xuống, cẩn thận đậy cái nắp lên, mặc dù anh nghĩ cô sẽ muốn gọi một bát mới cho bữa sau. “Anh có sốt không?” cô thì thầm.
Anh cố nở một nụ cười ra vẻ không thèm quan tâm. “Anh chả biết.”
Cô với tay ra và sờ vào trán anh.
“Chưa có thời gian để tắm,” anh lẩm bẩm, xin lỗi vì gương mặt nhớp nháp của mình, mà không phải thốt lên cái từ mồ hôi trước mặt cô.
Cô chẳng tỏ vẻ gì là đã nghe thấy cố gắng pha trò của anh, thay vào đó cô chỉ nhíu mày khi áp sát hơn bàn tay trên trán anh. Và rồi, một cách nhanh nhẹn đến mức làm anh ngạc nhiên, cô đứng dậy và cúi xuống trên đầu anh, đặt môi vào trán anh.
“Frannie?”
“Anh còn nóng,” cô nói, gần như chỉ là một hơi thở. “Anh nóng!”
Anh chẳng làm gì mà chỉ chớp mắt.
“Anh vẫn sốt,” cô nói vẻ hào hứng. “Anh không hiểu sao? Nếu anh vẫn còn sốt, thì không thể là sốt rét được!”
Trong một chốc anh không thể thở nổi. Cô nói đúng. Anh không thể tin là anh đã không nghĩ ra, nhưng cô nói đúng. Những cơn sốt rét luôn biến mất vào buổi sáng. Chúng tấn công lại vào ngày hôm sau, tất nhiên, và thường với sức mạnh kinh khủng, nhưng chúng luôn biến mất, cho anh một ngày trì hoãn trước khi một lần nữa hạ anh đo ván.
“Nó không phải là sốt rét,” cô lại nói, đôi mắt sáng ngời lên một cách đáng ngờ.
“Anh đã bảo em là không phải,” anh nói, nhưng ở bên trong, anh biết sự thật—Anh đã không chắc chắn đến thế.
“Anh sẽ không chết,” cô thì thầm, môi dưới cắn giữa hai hàm răng.
Đôi mắt anh hướng lên mắt cô. “Em lo là anh sẽ?” anh khẽ hỏi.
“Tất nhiên là em lo,” cô trả lời, không còn cố gắng giấu đi âm thanh nghẹn ngào trong giọng mình. “Chúa ơi, Michael, em không thể tin anh—Anh có biết là em—Ôi, vì Chúa.”
Anh chẳng hiểu cô vừa nói gì, nhưng anh có cảm giác nó cũng không tệ.
Cô đứng dậy, lưng ghế cô va vào tường. Một cái khăn vải đã để sẵn bên bát súp; cô vớ lấy nó và chấm lên mắt.
“Frannie?” anh thì thầm.
“Anh đúng là đồ đàn ông,” cô nói và cau mặt.
Anh chẳng thể làm gì ngoài việc nhướng mày trước câu nói đó.
“Anh phải biết là em—” Nhưng cô ngừng lại, tự ngắt lời mình.
“Gì thế, Frannie?”
Cô lắc đầu. “Chưa được,” cô nói, và anh có cảm giác cô đang nói với chính mình hơn là nói với anh. “Sẽ sớm thôi, nhưng chưa được.”
Anh chớp mắt. “Em nói gì cơ?”
“Em phải ra ngoài,” cô nói, lời nói của cô cụt lủn và đột ngột một cách kỳ cục. “Có một chuyện em cần phải làm.”
“Vào lúc tám rưỡi sáng?”
“Em sẽ quay về sớm,” cô nói, vội vã bước ra cửa. “Đừng có đi đâu đấy.”
“Ừm, khỉ thật,” anh cố nói đùa, “thế là đi tong kế hoạch đi gặp nhà vua của anh.”
Nhưng Francesca đang quá bận bịu với suy nghĩ của mình đến nỗi cô thậm chí chẳng thèm chọc ngoáy câu đùa khá tệ hại của anh. “Sớm thôi,” cô nói, câu nói phát ra giống một lời hứa đến lạ lùng. “Em sẽ về sớm thôi.”
Tất cả anh có thể làm là nhún vai và nhìn cánh cửa khi cô khép nó lại phía sau lưng mình.