Vũ Khí Bóng Đêm 3: Thành Phố Pha Lê

Chương 5: Vấn đề của ký ức



Ánh sáng của mặt trời ban chiều, một ánh sáng trắng xanh chiếu thẳng lên mặt cô, biến màn đen đằng sau mí mắt thành màu hồng sậm, đã đánh thức Clary dậy. Cô bồn chồn nhúc nhích và mệt mỏi mở mắt.

Cơn sốt, cùng với cái cảm giác rằng mọi đốt xương đều tan chảy và bẻ gãy bên trong người, đã biến mất. Cô ngồi dậy và tò mò nhìn quanh. Hẳn cô đang nằm trong phòng ngủ dành cho khách của nhà cô Amatis – phòng nhỏ, sơn trắng, giường phủ chăn lông cừu màu sáng. Tấm rèm đăng ten kéo gọn khỏi ô cửa sổ tròn, để cho những luồng ánh sáng tròn chiếu qua. Cô từ từ ngồi dậy, chờ đợi một cơn chóng mặt sẽ tới. Chẳng có gì xảy ra. Cô thấy hoàn toàn khỏe mạnh, thậm chí là nghỉ ngơi đầy đủ. Rời khỏi giường, cô cúi nhìn chính mình. Có ai đó đã thay cho cô bộ pajamas trắng mới tinh, dù giờ lúc này nó có phần hơi nhăn nhúm và bộ đồ hơi to so với cô; ống tay áo dài qua ngón tay tới khôi hài.

Cô tới bên một ô cửa sổ hình tròn và nhìn qua đó. Những ngôi nhà san sát xây bằng đá vàng xỉn mọc lên ở một bên đồi, những mái nhà như thể được lợp bằng đồng vậy. Từ hướng này của ngôi nhà, cô không nhìn thấy con kênh; quang cảnh hiện ra trước mặt cô là một khu vườn nho nhỏ với sắc lá chuyển sang nâu vàng của mùa thu. Hàng rào mắt cáo bao quanh một bên nhà; một đóa hồng duy nhất còn bám trên đó, những cánh hoa nâu úa héo rũ rũ xuống. Nắm đấm cửa kêu lách cách và Clary vội vàng chui lên giường ngay trước khi cô Amatis bước vào với một chiếc khay trên tay. Cô nhướn mày khi thấy Clary đã tỉnh, nhưng không nói gì.

“Chú Luke đâu ạ?” Clary hỏi, kéo chăn lên quanh mình.

Amatis đặt cái khay xuống bàn cạnh giường. Trên khay đặt chiếc cốc với hơi nóng bốc nghi ngút cùng vài lát bánh mỳ “Cháu nên ăn gì đó,” cô nói. “Cháu sẽ thấy tốt hơn.”

“Cháu thấy khỏe ạ,” Clary nói. “Chú Luke đâu rồi cô?”

Có một chiếc ghế lưng cao cạnh bàn; cô Amatis ngồi lên đó, đặt tay lên lòng và bình tĩnh nhìn Clary. Dưới ánh sáng ban ngày, Clary thấy rõ hơn những nếp nhăn trên mặt người phụ nữ – cô ấy có vẻ già hơn mẹ Cary rất nhiều, dù họ không thể cách nhau nhiều tuổi tới thế. Mái tóc nâu của cô lốm đốm bạc còn viền mắt hồng sậm như thể cô vừa khóc. “Chú ấy không ở đây.”

“Không ở đây là chú ấy vừa ra ngoài quán nước giải khát mua một bịch sáu lon Coca Ăn Kiêng và một hộp Krispy Kremes, hay không ở đây là-”

“Chú ấy đã rời đi vào sáng nay, khoảng tầm bình minh, sau khi ngồi trông cháu cả đêm. Còn chú ấy định đi đâu thì cô không biết.” Giọng Amatis khô khốc, và nếu Clary không cảm thấy quá tồi tệ, cô sẽ vui khi biết rằng giọng người phụ nữ này và giọng chú Luke rất giống nhau. “Khi chú Luke sống ở đây, trước khi rời Idris, sau khi bị- Biến Đổi- chú ấy là sói đầu đàn trong Rừng Brocelind. Chú ấy nói muốn trở lại tìm họ, nhưng chú ấy không nói vì sao hay bao lâu – chỉ nói vài ngày nữa sẽ về thôi.”

“Chú ấy cứ thế- mà bỏ cháu ở đây? Vậy cháu sẽ ở lại đây và đợi?”

“Ừm, chú ấy không thể mang cháu đi cùng, đúng không?” Amatis hỏi. “Mà giờ cháu muốn về nhà cũng không phải dễ. Cháu phá Luật để đến đây, và Clave không thể bỏ qua hoặc dễ dàng để cháu đi được.”

“Cháu không muốn về nhà.” Clary cố lấy lại bình tĩnh. “Cháu tới để- để gặp một người. Cháu còn có chuyện phải làm.”

“Luke đã nói với cô,” Amatis nói. “Cô khuyên cháu thế này – cháu sẽ tìm thấy Ragnor Fell nếu ông ta muốn.”

“Nhưng –”

“Clarissa.” Cô Amatis ngẫm ngợi nhìn Clary. “Bọn cô đang chờ đợi một cuộc tấn công từ Valentine vào bất cứ thời điểm nào. Hầu hết mọi Thợ Săn Bóng Tối tại Idris đều có đây, trong thành phố này, dưới sự bảo vệ của những kết giới kia. Ở lại Alicante là an toàn nhất cho cháu.”

Clary ngồi im. Về mặt lý lẽ mà nói, Amatis nói có lý, nhưng nó không thể làm im lặng tiếng hét bên trong cô. Cô phải tìm Ragnor Fell ngay bây giờ; cô phải cứu mẹ ngay bây giờ; cô phải đi ngay bây giờ. Cô kiềm cơn hoảng loạn và cố nói năng bình thường. “Chú Luke chưa bao giờ nói là có em gái.”

“Ừ,” Amatis nói. “Luke không nói đâu. Anh em cô – không thân thiết lắm.”

“Chú Luke nói cô mang họ Herodale,” Clary nói. “Nhưng đó cũng là họ của Điều Tra Viên. Đúng không ạ?”

“Đúng,” Amatis nói, mặt cau lại như thể nói ra lời này khiến cô đau đớn. “Bà ấy là mẹ chồng cô.”

Chú Luke đã nói với Clary gì về Điều Tra Viên ấy nhỉ? Rằng bà ấy có một người con trai đã kết hôn cùng một người phụ nữ không được “môn đăng hộ đối.” “Cô kết hôn với chú Stephen Herodale?”

Amatis có vẻ ngạc nhiên. “Cháu biết tên chú ấy?”

“Dạ – chú Luke nói cho cháu nghe – nhưng cháu tưởng vợ chú ấy đã qua đời. Cháu nghĩ vì thế nên Điều Tra Viên quá…” Kinh khủng, cô muốn nói nhưng có vẻ nói ra có phần quá độc ác. “Cay nghiệt.” cuối cùng cô nói.

Amatis cầm chiếc cốc cô mang tới; tay cô hơi run khi nâng lên. “Đúng, cô ta đã chết rồi. Tự sát. Đó là Céline – người vợ thứ hai của Stephen. Cô là người vợ đầu tiên.”

“Và cô đã ly hôn với chú ấy?”

“Đại loại thế.” Amatis giơ cốc cho Clary. “Nghe này, uống đi. Cháu phải có gì đó vào bụng chứ.”

Đầu óc nghĩ vẩn vơ, Clary cầm lấy chiếc cốc và nuốt một ngụm nước nóng. Chất lỏng trong đó đậm đặc và mằn mặn – không phải trà, cô nghĩ, mà là súp. “Được rồi,” cô nói. “Vậy chuyện gì đã xảy ra?”

Amatis nhìn xa xôi. “Bọn cô, Stephen và cô từng là thành viên của Circle, cùng những người khác. Khi Luke – khi chuyện xảy ra với Luke, Valentine cần một phó chỉ huy mới. Hắn chọn Stephen. Và khi hắn chọn Stephen, hắn quyết định rằng có lẽ thật không hợp khi vợ người bạn thân nhất và người quân sư lại là một người có anh em là-”

“Một người sói.”

“Hắn dùng từ khác.” Amatis có vẻ cay nghiệt. “Hắn thuyết phục Stephen hủy bỏ cuộc hôn nhân của bọn cô và tìm một cô vợ mới, một người do Valentine chọn. Céline rất trẻ – hoàn toàn nghe lời hắn.”

“Thật kinh khủng.”

Amatis lắc đầu mà cười lanh lảnh. “Chuyện cũng lâu rồi. Cô nghĩ dù sao Stephen cũng tử tế – chú ấy cho cô căn nhà này và chuyển về trang viên nhà Herodale ở cùng bố mẹ và Céline. Từ hồi đó cô không bao giờ gặp lại chú ấy. Tất nhiên cô rời khỏi Circle. Họ không còn cần cô nữa. Người duy nhất còn qua lại gặp cô là Jocelyn. Thậm chí mẹ cháu còn nói cho cô biết khi mẹ cháu tới gặp Luke-” Cô vén lọn tóc muối tiêu ra sau tai. “Cô nghe được chuyện xảy ra với Stephen trong vụ Nổi Loạn khi chuyện đã kết thúc. Và Céline – cô ghét cô ta, nhưng sau đó cô thấy thương cho cô ta. Họ kể cô ấy đã cắt cổ tay – máu chảy lênh láng-” Cô hít một hơi thật sâu. “Sau đó cô đã gặp Imogen trong đám tang của Stephen, khi họ chôn thi thể chú ấy trong lăng mộ dòng họ Herodale. Dường như bà ấy còn chẳng nhận ra cô. Không lâu sau đó họ đưa bà ấy lên vị trí Điều Tra Viên. Clave cảm thấy rằng không ai có thể săn đuổi những thành viên cũ của Circle không ngừng nghỉ như bà ấy – và họ đã đúng. Nếu bà ấy có thể xóa sạch ký ức về Stephen bằng máu họ, bà ấy sẽ làm.”

Clary nghĩ tới đôi mắt lạnh lùng của Điều Tra Viên, cái nheo mắt khắc nghiệt và cố gắng thương cảm với bà ta. “Cháu nghĩ điều đó làm cho bà ta phát điên,” cô nói. “Thực sự phát điên. Với cháu, bà ta đã kinh khủng — nhưng với Jace còn kinh hơn. Như thể bà muốn anh ấy chết vậy.”

“Cũng dễ hiểu thôi,” Amatis nói. “Cháu giống mẹ cháu, và mẹ cháu đã nuôi nấng cháu, nhưng anh cháu –” Cô nghiêng đầu. ”Cậu bé có giống Valentine như cháu giống mẹ không?”

“Không,” Clary nói. “Jace chỉ giống anh ấy thôi.” Clary rùng mình khi nhớ tới Jace. “Anh ấy đang ở Alicante này,” cô buột miệng nói những gì đang nghĩ. “Nếu cháu có thể gặp anh ấy-”

“Không.” Amatis nói với chút khó chịu. “Cháu không thể rời căn nhà này. Không được gặp ai hết. Và đặc biệt không được gặp anh cháu.”

“Không rời nhà?” Clary hoảng hốt. “Cô muốn nói là cháu bị kẹt ở đây? Như một tù nhân?”

“Chỉ trong một hai ngày thôi,” Amatis dỗ dành cô, “và hơn nữa, cháu chưa khỏe hẳn. Cháu cần bình phục đã. Nước hồ suýt giết chết cháu.”

“Nhưng Jace –”

“Là một người nhà Lightwood. Cháu không thể đi sang đó. Ngay khi họ thấy cháu, họ sẽ báo cáo với Clave. Và rồi cháu sẽ không phải người duy nhất gặp rắc rối với Luật đâu. Luke nữa đó.”

Nhưng nhà Lightwood không bán cháu cho Clave. Họ sẽ không làm thế-

Lời nói chết ngay trên môi cô. Cô không thể nào thuyết phục Amatis rằng nhà Lightwood cô biết cách đây mười lăm năm đã không còn tồn tại nữa, rằng cô chú Maryse và Robert không còn trung thành một cách mù quáng nữa rồi. Người phụ nữ này có thể là em gái của chú Luke, nhưng với Clary, cô ấy vẫn là một người xa lạ. Với chú Luke, cô Amatis cũng gần như xa lạ. Chú đã không gặp em gái mình trong suốt mười sáu năm nay – chưa từng đề cập tới việc cô ấy có tồn tại. Clary dựa người lên gối, giả vờ mệt. “Cô nói đúng,” cô nói. “Cháu cảm thấy không khỏe. Cháu nghĩ cháu nên đi nghỉ.”

“Ý kiến hay.” Cô Amatis nhoài người lên và cầm lấy cái cốc không khỏi tay Clary. “Nếu cháu muốn tắm, phòng tắm bên kia hành lang. Và có ít quần áo cũ của cô dưới chân giường đấy. Cháu cũng tầm tầm cô khi cô bằng tuổi cháu, vì thế có thể cháu sẽ mặc vừa. Không giống như bộ pajamas này,” cô bổ sung và cười, một nụ cười yếu ớt mà Clary không đáp lại. Cô đang mải kìm cảm giác muốn đấm vào đệm.

Ngay khi cánh cửa đóng lại sau lưng Amatis, Clary lục tục rời giường và đi sang phòng tắm, mong đứng dưới nước nóng sẽ giúp đầu óc tỉnh táo. Nhẹ nhõm thay, dù thời trang của Thợ Săn Bóng Tối có phần lạc mốt nhưng họ vẫn tin dùng hệ thống chứa nước hiện đại và nước nóng lạnh. Thậm chí trong phòng tắm còn có một miếng xà phòng hương cam để tẩy sạch mùi nước hồ Lyn còn dính trên người cô. Khi cô ra khỏi nhà tắm, quấn trong hai chiếc khăn tắm, cô cảm thấy tốt hơn rất nhiều.

Trong phòng ngủ, cô lục lọi đống quần áo cũ của cô Amatis. Quần áo cô ấy được xếp gọn ghẽ giữa từng lớp vải cứng. Có vài món đồ giống đồng phục học sinh – áo len vải len merino với biểu tượng nhìn giống bốn chữ C đối lưng vào nhau thêu trên túi áo ngực, váy xếp li và áo sơ mi đóng cúc tay áo hẹp. Có chiếc váy trắng gấp gọn chèn giữa những lớp khăn giấy – một chiếc váy cưới, Clary nghĩ, và cẩn thận đặt sang bên. Bên dưới nó là chiếc váy khác, chiếc này may từ vải lụa màu bạc, với những cái đai mảnh đính đá giữ toàn bộ lớp tơ mảnh. Clary không thể tưởng tượng ra cảnh Amatis mặc chiếc váy này, nhưng – đây là dạng đồ mẹ sẽ mặc khi nhảy cùng Valentine, cô không thể không nghĩ, và đặt cái váy trở lại rương, chất liệu mềm mại và lành lạnh trên đầu ngón tay cô.

Và rồi ở đó có bộ đồ đi săn của Thợ Săn Bóng Tối, xếp ở cuối cùng.

Clary lôi bộ đồ đó ra và tò mò trải rộng trong lòng. Lần đầu tiên cô thấy Jace và anh em nhà Lightwood, họ đang mặc bộ đồ đi săn; áo bó và quần làm từ chất liệu dai, màu đen tuyền. Khi nhìn gần thế này cô thấy chất liệu không hề co dãn mà có phần cứng, một lớp da được cán rất mỏng cho tới khi trở lên mềm dẻo. Có một chiếc áo dạng áo khoác được kéo khóa hết cỡ và quần có những chiếc móc thắt lưng phức tạp. Những chiếc thắt lưng của Thợ Săn Bóng Tối có khổ lớn, chắc chắn, được sử dụng để treo vũ khí.

Tất nhiên, cô nên mặc một trong những chiếc áo len kia cùng với chiếc váy. Hẳn Amatis muốn cô ăn mặc như thế. Nhưng có gì trong những bộ đồ đi săn đang kêu gọi cô; cô luôn tò mò, luôn luôn muốn biết sẽ thế nào nếu-

Vài phút sau, hai chiếc khăn tắm đã được treo trên thanh chắn ở chân giường còn Clary đang ngắm mình trong gương vừa ngạc nhiên vừa có chút thích thú. Bộ đồ rất vừa vặn – nó bó nhưng không quá chật, và ôm lấy đường cong của chân và ngực cô. Thực tế, nó làm cho cô có vẻ như có đường cong, cái mà có lẽ chỉ tồn tại trong tiểu thuyết. Nó không hề làm cho cô trông dữ dội – cô không nghĩ có thứ gì có thể cho cô cái đó – nhưng ít nhất cô trông cao hơn, và tóc cô sáng bất ngờ trên nền đen. Thực sự – mình giống mẹ, Clary giật mình trước suy nghĩ đó.

Và đúng thật. Bên dưới vẻ ngoài như búp bê, mẹ Jocely là một con người cứng rắn như thép. Clary thường tự hỏi chuyện gì đã xảy ra trong quá khứ để mẹ như ngày hôm nay – mạnh mẽ và kiên cường, ngang ngạnh và dũng cảm. Anh cháu có giống Valentine như cháu giống mẹ Jocelyn của cháu không? Amatis đã hỏi và Clary muốn trả lời rằng cô không hề giống mẹ chút nào, rằng mẹ cô xinh đẹp còn cô thì không. Nhưng Jocelyn mà Amatis biết là người phụ nữ trẻ đã lên kế hoạch hạ bệ Valentine, người đã bí mật kết nối mối quan hệ đồng minh giữa Nephilim và Thế Giới Ngầm, nhờ vậy đã phá tan nhóm Circle và cứu Hiệp Định. Jocelyn đó chưa bao giờ chịu sống im lặng trong căn nhà này và đợi trong khi mọi thứ trong thế giới của cô ta đang đổ vỡ.

Không dừng lại để suy nghĩ, Clary đi qua phòng và khóa trái cửa. Sau đó, cô tới cửa sổ và đẩy mở. Hàng rào mắt cáo ở đó, bám trên tường đá giống như – Giống một cái thang, Clary tự nhủ. Chỉ giống một cái thang thôi – và thang thì an toàn tuyệt đối.

Hít một hơi thật sâu, cô chui khỏi cửa sổ.

Những lính canh trở lại với Simon vào sáng hôm sau, lay cậu tỉnh dậy khỏi giấc ngủ chập chờn với những giấc mơ kỳ lạ. Lần này họ không bịt mắt cậu khi dẫn cậu trở lên tầng, và cậu đã nhìn nhanh qua cánh cửa khóa trái của xà lim bên cạnh. Nếu cậu hy vọng sẽ nhìn thấy cái người mang giọng trầm trầm nói chuyện với cậu vào đêm trước, cậu đã thất vọng. Điều duy nhất có thể nhìn thấy qua những chấn song là một đống giẻ rách.

Những lính gác vội vã đưa Simon đi qua hàng dãy những hành lang xám ngắt, nhanh chóng lắc cậu nếu cậu nhìn bất cứ hưóng nào quá lâu. Cuối cùng họ dừng lại trước một căn phòng dán giấy dán tường đắt tiền. Có bức chân dung những người đàn ông và phụ nữ khác nhau mặc đồ đi săn của Thợ Săn Bóng Tối, những khung hình được trang trí với họa tiết chữ rune. Bên dưới một trong những bức chân dung lớn nhất là chiếc ghế đỏ nơi Điều Tra Viên đang ngồi, cầm trên tay cái gì đó trông giống chiếc cốc bạc. Ông ta giơ ra cho Simon. “Máu không?” ông ta hỏi. “Giờ hẳn cháu đói lắm.”

Ông ta nghiêng cốc về phía Simon, và nhìn thấy, cũng như ngửi thấy mùi của chất lỏng màu đỏ đó đã cho Simon một cú đấm rất mạnh. Từng mạch máu của cậu đang vươn về phía cốc máu, giống như những sợi dây dưới sự kiểm soát của người điều khiển rối. Cảm giác đó thật khó chịu, và gây đau nữa. “Là- máu người sao?”

Aldertree cười khúc khích. “Con trai ta ơi! Đừng lố bịch chứ. Đây là máu nai. Hoàn toàn tươi ngon.”

Simon chẳng nói gì. Môi dưới cậu đau ở nơi răng nanh lòi ra khỏi lợi, và cậu nếm thấy vị máu của mình trong miệng. Cậu thấy buồn nôn.

Khuôn mặt Aldertree nhăn lại như trái bầu khô. “Ô, cháu yêu.” Hắn quay sang những lính canh. “Giờ xin các quý ông hãy để chúng tôi với nhau,” ông ta nói và họ quay người bỏ đi. Chỉ có Quan Tổng Tài dừng lại trước cửa, liếc nhìn Simon với vẻ kinh tởm không thể lẫn đi đâu được. “Không, cám ơn,” Simon nói qua cảm giác ngường ngượng trên miệng. “Tôi không cần máu.”

“Cậu Simon trẻ tuổi ơi, răng nanh của cậu nói khác đấy,” Aldertree thân ái nói. “Đây. Uống đi.” Ông ta giơ cái cốc, và cái mùi máu trong đó tỏa ngát căn phòng hệt như hương hoa hồng trong vườn vậy.

Răng nanh của Simon dài ra, giờ đã hết cỡ, cắm phập vào môi. Cơn đau giống như một cú tát; cậu tiến lên, gần như không thế kiềm chế, nắm lấy chiếc cốc khỏi tay Điều Tra Viên. Cậu uống cạn trong ba ngụm, rồi nhận ra điều cậu vừa làm và, đặt xuống tay ghế. Tay cậu đang run. Điều Tra Viên một điểm, cậu nghĩ. Mình không.

“Ta tin nghỉ đêm trong xà lim không quá khó chịu chứ nhỉ? Chúng không phải những gian phòng tra tấn đâu, con trai ạ, hầu hết chỉ được dùng để giúp con người ta phản tỉnh ấy mà. Ta thấy suy nghĩ chắc chắn là trung tâm của trí não, cháu có nghĩ thế không? Chủ yếu để suy nghĩ rõ ràng. Ta thực sự mong cháu đã nghĩ thông suốt. Cháu có vẻ là một cậu trai trẻ biết suy nghĩ.” Điều Tra Viên nghiêng đầu sang bên. “Cháu biết không, ta đã tự mình mang chăn xuống cho cháu đấy. Ta không muốn cháu bị lạnh.”

“Tôi là ma cà rồng,” Simon nói. “Chúng tôi không bị lạnh.”

“À.” Điều Tra Viên có vẻ thất vọng.

“Tôi đánh giá cao những Ngôi Sao David và Phong Ấn Solomon.” Simon bổ sung thêm. “Tôi luôn mừng khi có người quan tâm tới tôn giáo của tôi.”

“À, đúng rồi, tất nhiên, tất nhiên!” Aldertree vui vẻ trở lại. “Những hình khắc ấy tuyệt vời, đúng không? Cực kỳ quyến rũ, và tất nhiên dễ sử dụng. Ta tưởng tượng cháu cứ chạm vào nó là trầy da tróc vảy ngay!” Ông ta cười khúc khích, rõ ràng là hứng thú với suy nghĩ đó. “Trong bất cứ trường hợp nào. Cháu lùi một bước giùm ta được không? Coi như một ân huệ, một ân huệ không hơn không kém, cháu hiểu đấy.”

Simon lùi một bước.

Chẳng có chuyện gì xảy ra, nhưng đôi mắt Điều Tra Viên mở lớn, lớp da sưng húp quanh mắt trông có vẻ căng ra và sáng lên. “Ta thấy rồi,” ông ta thở hắt ra.

“Ông thấy gì?”

“Nhìn nơi cháu đứng, Simon trẻ tuổi. Nhìn toàn bộ con người cháu.”

Simon liếc nhìn quanh – chẳng có gì thay đổi về căn phòng, và cậu mất một lúc mới hiểu ra điều Aldertree muốn nói. Cậu đang đứng giữa dải nắng rạng rỡ chiếu xuống từ ô cửa sổ cao cao.

Aldertree đang uốn éo trong cơn hứng thú. “Cháu đang đứng dưới ánh mặt trời trực tiếp, vậy mà chẳng mảy may hề hấn gì. Ta đã không tin – ý ta là, tất nhiên ta đã được nghe kể, nhưng chưa từng nhìn thấy điều tương tự.”

Simon không nói gì. Mà có vẻ là chẳng có gì để nói.

“Tất nhiên, câu hỏi cho cháu là,” Aldertree tiếp tục, “Cháu có biết nguyên do không.”

“Có thể vì tôi tốt tính hơn các ma cà rồng khác.” Simon ngay lập tức hối hận vì điều vừa nói. Đôi mắt Aldertree nheo lại, một mạch máu nổi lên trên thái dương như một con giun béo núc. Rõ ràng, ông ta không thích những câu nói đùa, trừ khi do ông ta nói ra.

“Rất hay, rất hay,” ông ta nói. “Ta hỏi cháu thế này nhé: Cháu có là Ma Cà Rồng Ưa Sáng kể từ giây phút chui khỏi mộ không?”

“Không.” Simon cẩn trọng nói. “Không. Lúc đầu ánh mặt trời thiêu cháy tôi. Thậm chí chỉ một tia sáng cũng đủ đục lỗ trên da tôi rồi.”

“Đúng.” Aldertree gật đầu cái một, như thể chuyện phải thế thôi. “Vậy lần đầu tiên cháu có thể đi dưới ánh nắng mà không bị đau là từ khi nào?”

“Vào buổi sáng sau trận chiến trên tàu của Valentine –”

“Trong lần Valentine bắt cháu, đúng không nhỉ? Hắn đã bắt giam cháu trên tàu, định dùng máu cháu để hoàn thành Nghi Thức Xoay Chuyển.”

“Vậy là ông đã biết hết,” Simon nói. “Ông cần gì tôi nữa.”

“Ồ, không, không đâu!” Aldertree cảm thán, giơ hai tay lên. Simon nhận ra, ông ta có bàn tay nhỏ xíu, quá nhỏ chẳng ăn nhập với cánh tay béo núc. “Con trai, cháu còn nhiều điều để kể lắm! Ví dụ, ta cứ băn khoăn mãi rằng: chuyện gì đã xảy ra trên tàu, chuyện gì đã biến đổi cháu. Cháu có uống gì không?”

Tôi uống máu Jace, Simon nghĩ, nửa muốn nhắc lại suy nghĩ đó cho Điều Tra Viên nghe – rồi, giật mình nhận ra, Mình uống máu Jace. Có phải vì thế mà cậu thay đổi không? Có thể không? Dù có thể hay không thì, cậu có nên nói cho Điều Tra Viên biết không? Bảo vệ Clary là một lẽ; bảo vệ Jace là chuyện khác. Cậu chẳng nợ Jace gì sất.

Có điều nói thế cũng không hoàn toàn đúng. Jace đã cho cậu uống máu anh ta, nhờ đó mà cậu được tiếp tục sống. Liệu có một Thợ Săn Bóng Tối nào dám làm điều đó, vì một ma cà rồng chứ? Và kể cả nếu anh ta làm chỉ vì Clary, thì đã sao nào? Cậu nghĩ bản thân đã nói, Ta đã có thể giết anh. Và Jace: Tôi sẽ để cậu giết tôi. Và không thể biết được Jace sẽ vướng phải loại rắc rối nào nếu Clave biết anh đã cứu mạng Simon và cách anh cứu sống cậu.

“Tôi không nhớ bất cứ chuyện gì trên tàu,” Simon nói. “Tôi nghĩ Valentine hẳn đã đánh thuốc tôi hoặc gì đó.”

Gương mặt Aldertree xụi lơ. “Thật là một tin tức kinh khủng. Khủng khiếp. Ta rất tiếc.”

“Tôi cũng tiếc nữa,” Simon nói, dù cậu chẳng mảy may cảm thấy thế.

“Vậy là cháu chẳng nhớ nổi một điều gì? Chỉ một chi tiết thôi sao?”

“Tôi chỉ nhớ đã ngất đi khi Valentine tấn công, và khi tôi tỉnh dậy sau đó trên… trên xe tải chú Luke, trở về nhà. Tôi chẳng nhớ gì nữa.”

“Ôi cháu yêu, ôi cháu yêu.” Aldertree kéo áo choàng quanh người. “Ta thấy nhà Lightwood có vẻ quý mến cháu, nhưng những thành viên khác của Clave thì không…hiểu chuyện. Cháu bị Valentine bắt, cháu thoát khỏi cuộc đụng độ với một khả năng kỳ lạ mới mẻ mà lúc trước không hề có, và giờ cháu đã tìm được đường tới trái tim của Idris. Cháu có thấy chuyện ra sao không?”

Nếu trái tim của Simon còn đập, hẳn nó đang đập dồn dập. “Ông nghĩ tôi là gián điệp của Valentine.”

Aldertree ra bộ choáng. “Con trai ơi, con trai ơi – tất nhiên là ta tin cháu. Ta hoàn toàn tin cháu! Nhưng Clave, ôi, Clave, ta sợ là họ vô cùng đa nghi. Chúng ta rất mong cháu có thể giúp đỡ chúng ta. Cháu biết không – ta không nên nói với cháu điều này, nhưng ta cảm thấy mình có thể tin cậy cháu, con trai yêu quý ạ – Clave đang gặp rắc rối nghiêm trọng.”

“Clave?” Simon thấy choáng. “Nhưng thế thì có liên quan gì với…”

“Cháu thấy đấy,” Adertree nói tiếp, “Clave bị chia đôi – cháu có thể hiểu là chính các thành viên của Clave đang đối nghịch với nhau, ngay lúc này, ngay trong thời chiến. Điều Tra Viên tiền nhiệm và những người trước đã phạm sai lầm – mà thôi, chúng ta nhắc lại làm gì. Nhưng giờ, quyền lực của Clave, của Quan Tổng Tài và Điều Tra Viên đang bị nghi ngờ. Valentine có vẻ lúc nào cũng đi trước chúng ta một bước, như thể hắn biết trước kế hoạch của chúng ta vậy. Hội Đồng sẽ không nghe lời khuyên của ta hay của Malachi, nhất là sau chuyện xảy ra tại New York.”

“Tôi tưởng chính Điều Tra Viên…”

“Và Malachi là người đề bạt bà ta. Giờ, tất nhiên, ông ta đâu có biết bà ta lại điên khùng tới mức đó…”

“Nhưng,” Simon nói, có phần chua cay, “câu hỏi là ra sao cơ mà.”

Mạch máu trên trán Aldertree lại nổi lên. “Thông minh,” ông ta nói. “Và cháu nói đúng. Vẻ bề ngoài rất quan trọng, và đặc biệt là trong chính trị. Cháu luôn có thể xoay chuyển đám đông, miễn là cháu có một câu chuyện hay.” Ông ta nhoài người tới, mắt xoáy vào Simon. “Giờ để ta kể cho cháu một câu chuyện. Chuyện như thế này này. Vợ chồng Lightwood từng là thành viên Circle. Rồi họ nhận ra sai lầm và nhận được khoan hồng với điều kiện phải rời xa Idris, tới New York và điều hành Học Viện nơi đó. Hồ sơ sạch bong không có lấy một lỗi lầm của họ bắt đầu giúp họ có lại lòng tin nơi Clave. Nhưng họ luôn biết Valentine còn sống. Lúc nào họ cũng là những đầy tớ trung thành của hắn. Họ nuôi nấng con trai hắn…”

“Nhưng họ đâu có biết-”

“Trật tự,” Điều tra viên quát và Simon ngậm miệng. “Họ giúp hắn tìm ra các Bảo Bối Thiên Thần và hỗ trợ hắn hoàn thành Nghi Thức Xoay Chuyển. Khi Điều Tra Viên phát hiện ra điều họ đang ngấm ngầm làm, họ đã sắp xếp để bà ta chết trong trận chiến trên tàu. Và giờ họ tới đây, tới trái tim của Clave, để tìm hiểu kế hoạch của chúng ta rồi tâu lại với Valentine, để hắn có thể đánh bại chúng ta và sau đó bắt Nephilim phải nghe theo ý hắn. Và họ mang cháu theo – cháu, một ma cà rồng có thể đi lại dưới ánh nắng – để đánh lạc hướng chúng ta khỏi kế hoạch thực sự của họ: đưa Cirlce trở về thời huy hoàng và tiêu hủy Luật.” Điều Tra Viên nhoài người lên, đôi mắt ti hí như mắt lợn lóe sáng. “Cháu nghĩ câu chuyện thế nào hả, ma cà rồng?”

“Thật điên rồ,” Simon nói. “Và trong đó có nhiều lỗ hổng hơn cả Đại Lộ Kent tại khu Brooklyn – mà tình cờ thay, không được lấp lại sau từng đó năm. Tôi không biết ông đang hy vọng có được gì với câu chuyện…”

“Hy vọng?” Aldertree nhắc lại. “Ta không hy vọng, cậu bé của Thế Giới Ngầm ạ. Ta biết từ tận tâm. Ta biết nhiệm vụ cao cả của ta là cứu Clave.”

“Bằng những lời nói dối?” Simon nói.

“Bằng câu chuyện,” Aldertree đáp. “Những chính trị gia vĩ đại thêu dệt những câu chuyện để lên dây cót tinh thần cho người khác.”

“Lên dây cót cái khỉ gì khi đổ lỗi cho cô chú Lightwood về mọi chuyện…”

“Phải hy sinh một vài cá nhân thôi,” Aldertree nói. Mặt ông ta sáng lên nhờ ánh sáng hắt lên những giọt mồ hôi. “Một khi Hội Đồng có chung kẻ thù, và có lý do để tin tưởng Clave thêm lần nữa, họ sẽ gắn kết với nhau. Chỉ bằng một gia đình mà đổi được từng đó có đáng gì nào? Thực ra, ta nghĩ lũ trẻ nhà Lightwood sẽ chẳng hề hấn gì đâu mà. Chúng không bị buộc tội. À, có lẽ trừ thằng cả. Nhưng, những đứa khác..”

“Ông không thể làm vậy,” Simon nói. “Sẽ không ai tin câu chuyện đó đâu.”

“Con người tin điều họ muốn tin,” Aldertree nói, “Và Clave muốn ai đó bị đổ tội. Ta có thể cho họ. Tất cả những gì ta cần là cháu.”

“Tôi? Tôi liên quan gì?”

“Thú tội.” Gương mặt Điều Tra Viên đỏ lựng vì phấn khích. “Thú nhận rằng cháu là nô bộc của nhà Lightwood và cháu theo phe Valentine. Thú tội và ta sẽ cho cháu hưởng khoan hồng. Ta sẽ trả cháu về với gia đình. Ta thề. Nhưng ta cần lời thú tội của cháu để có được lòng tin nơi Clave.”

“Ông muốn tôi thú tội bằng cách nói dối,” Simon nói. Cậu biết cậu đang lặp lại điều Điều Tra Viên đã nói, nhưng đầu óc cậu đang quay cuồng; dường như cậu không thể nghĩ nổi một chút xíu nào. Gương mặt những thành viên nhà Lightwood xoay vần trong trí óc cậu – Alec, thở hổn hển trên đoạn đường dẫn lên Gard; đôi mắt đen của Isabelle ngước lên nhìn cậu; Max cúi đâu chăm chú đọc sách.

Và Jace. Jace thuộc về gia đình Lightwood như thể trong người anh đang chảy dòng máu đó. Điều Tra Viên không nhắc tới tên anh, nhưng Simon biết Jace sẽ bị tính cùng. Và dù anh ta phải chịu đau khổ thế nào thì Clary cũng phải chịu đau khổ y như vậy. Simon bỗng nghĩ, vì sao cậu lại dây dưa với những người đó – những người nghĩ cậu không hơn gì một kẻ thuộc về Thế Giới Ngầm, cùng lắm chỉ là một bán nhân?

Cậu ngước mắt lên nhìn Điều Tra Viên. Đôi mắt Aldertree đen kịt như than; nhìn vào chúng như thể nhìn vào bóng đêm vậy. “Không,” Simon nói. “Tôi không làm.”

“Máu mà ta cho cháu,” Aldertree nói, “là tất cả số máu cháu được thấy trước khi cháu cho ta một câu trả lời khác.” Trong giọng ông ta không còn chút nhân hậu nào, kể cả chút nhân hậu giả hiệu. “Cháu sẽ ngạc nhiên vì cháu có thể khát tới mức nào đấy.”

Simon không nói gì.

“Vậy thêm một đêm trong xà lim vậy,” Điều Tra Viên nói, đứng dậy và rung chuông gọi lính gác. “Dưới đó rất yên bình, nhỉ? Ta thực sự thấy không khí yên bình có thế giúp ít nhiều đối với vấn đề nho nhỏ của trí nhớ – đúng không nào?”

Dù Clary tự nhủ cô nhớ con đường đã đi cùng chú Luke trong đêm trước, nhưng hóa ra không hoàn toàn vậy. Đi thẳng tới trung tâm thành phố dường như là cách tốt nhất để nhớ ra các hướng khác, nhưng khi tới được cái sân đá có cái giếng lâu ngày không được sử dụng, cô không thể nhớ nên rẽ trái hay phải nữa. Cô rẽ trái, chui vào mê cung những con phố ngoằn ngoèo, mỗi con phố đều giống nhau và mỗi lần rẽ càng làm cô thêm tuyệt vọng.

Cuối cùng, cô cũng ra được con phố rộng rãi hơn với những cửa hàng chạy dọc hai bên. Người người đi lại hối hả ở hai bên, không ai dừng lại liếc nhìn cô lần thứ hai. Một vài người cũng mặc đồ đi săn, dù hầu hết thì không; ngoài trời khá mát mẻ, và những chiếc áo khoác dáng dài, cổ điển khá được ưa chuộng. Trời lồng lộng gió và Clary sực nhớ ra chiếc áo khoác nhung xanh treo trong phòng ngủ dành cho khách tại nhà cô Amatis.

Chú Luke không nói dối khi nói rằng Thợ Săn Bóng Tối trên toàn thế giới tập trung về đây dự họp. Clary đi qua một người phụ nữ Ấn Độ mặc sari màu vàng tuyệt đẹp, đeo hai chiếc kiếm khoằm ở sợi xích quanh eo. Một người đàn ông cao dong dỏng, da đen mang gương mặt vuông vức của người Aztec đang nhìn chăm chú vào ô cửa sổ cửa hàng bán vũ khí; những chiếc vòng đúc từ cùng nguyên liệu cứng, sáng xây dựng nên tháp quỷ đeo đầy trên tay anh ta. Xa hơn một chút là một người đàn ông khác mặc áo choàng trắng của dân du mục đang xem xét gì đó hình như là bản đồ đường phố. Nhìn thấy anh ta làm Clary lo lắng khi tiếp cận một người phụ nữ qua đường để hỏi đường tới Phố Princewater. Nếu có lúc nào mà người dân thành phố không nhất thiết phải nghi ngờ những người không biết địa điểm họ muốn đến thì chính là thời điểm này.

Bản năng của cô đã đúng; không hề lưỡng lự, người phụ nữ ngay lập tức đưa ra một lô một lốc những chỉ dẫn. “Và ngay cuối Kênh Oldcastle, và qua cây cầu đá là em tới Princewater rồi đó.” Chị ta cười với Clary. “Tới thăm ai hả em?”

“Nhà Penhallow ạ.”

“Ồ, đó là ngôi nhà màu xanh da trời, sọc vàng, quay lưng với con kênh nhé. Ngôi nhà đó to lắm – em không bỏ qua nổi đâu.”

Chị ta đúng một nửa. Ngôi nhà lớn thật, nhưng Clary đi ngang qua nó trước khi nhận ra sai lầm và quay phắt lại nhìn lại. Nó mang màu chàm thì đúng hơn là xanh da trời, cô nghĩ, nhưng không phải ai cũng nhận biết màu sắc đúng. Hầu hết mọi người không thể phân biệt giữa màu vàng chanh và vàng nghệ tây. Như thể chúng giống nhau lắm ấy! Và những sọc trên tường nhà không phải màu vàng; đỏ vàng mới đúng. Một màu đỏ vàng sậm đẹp, như thể ngôi nhà đã ở đó rất lâu, và có lẽ thế thật. Mọi thứ thuộc về nơi này đều cổ kính –

Đủ rồi, Clary tự nhủ. Cô vẫn luôn để đầu óc nghĩ vẩn vơ mỗi khi lo lắng. Cô xoa tay lên quần; tay cô ướt đẫm và nhớp nháp mồ hôi. Vải quần ram ráp và khô, giống như da rắn vậy.

Cô bước lên những bậc tam cấp và nắm lấy tay cầm nặng chĩu. Nó có hình giống như một đôi cánh thiên thần, và khi cô thả nó ra, cô có thể nghe thấy âm thanh dội lại như tiếng chuông phát ra từ quả chuông cỡ đại. Một lúc sau, cửa mở và Isabelle Lightwood đứng trước ngưỡng cửa, mắt mở to vì sốc.

“Clary?”

Clary cười yếu ớt. “Chào Isabelle.”

Isabelle dựa người trên khung cửa, có vẻ thất vọng. “Ôi, khốn nạn.”

Về lại xà lim, Simon đổ sụp xuống giường, lắng nghe tiếng chân của những lính gác xa dần. Một đêm nữa. Một đêm nữa trong nhà tù này, trong khi Điều Tra Viên đợi cậu “nhớ ra.” Cậu sẽ thấy nó thế nào. Trong những cơn ác mộng kinh khủng nhất, trong những nỗi sợ hãi lớn nhất, Simon chưa bao giờ nghĩ ai đó nghĩ cậu hợp tác cùng Valentine. Valentine nổi tiếng là ghét Thế Giới Ngầm. Valentine đã đâm và rút cạn máu cậu và mặc cậu nằm đó chết còng queo. Nhưng, đúng ra mà nói, Điều Tra Viên không biết vụ đó.

Có tiếng sột soạt phát ra từ bên kia xà lim. “Tôi phải thừa nhận, tôi đang tự hỏi liệu cậu có trở lại không,” giọng khàn khàn mà Simon nhớ vào đêm trước nói. “Vậy là cậu không cho Điều Tra Viên thứ ông ta muốn?”

“Tôi không nghĩ vậy,” Simon nói, tiến tới gần bức tường. Cậu lướt những ngón tay trên đá như thể tìm kiếm một khe nứt, hay gì đó cho cậu nhìn qua, nhưng chẳng có gì. “Chú là ai?”

“Cậu ta cứng đầu lắm, Aldertree ạ,” giọng kia cất tiếng, như thể Simon chưa nói gì. “Cậu ta sẽ còn tiếp tục gắng gượng lâu đấy.”

Simon dựa người lên bức tường ẩm ướt. “Vậy có lẽ tôi sẽ ở dưới này một thời gian.”

“Tôi không nghĩ cậu sẵn sàng nói cho tôi biết ông ta muốn gì từ cậu?”

“Sao chú muốn biết chứ?”

Tiếng cười khùng khục trả lời Simon nghe như tiếng kim loại cào lên đá. “Tôi ở trong xà lim này lâu hơn cậu, Ma Cà Rồng Ưa Sáng ạ, và như cậu thấy đấy, không có nhiều thứ để đầu óc suy nghĩ. Bất cứ suy nghĩ vẩn vơ nào đều tốt hết.”

Simon đặt tay lên bụng. Máu nai đã khiến cậu không đói nhưng chưa khiến cậu đủ no. Cơ thể cậu đang đau lên vì khát. “Chú cứ gọi tôi thế mãi” cậu nói. “Ma cà rồng Ưa Sáng.”

“Tôi nghe thấy những lính gác nói chuyện về cậu. Một ma cà rồng có thể đi lại dưới ánh mặt trời. Chưa ai từng thấy một điều gì tương tự hết.”

“Nhưng chú đã có một từ đặt cho nó. Tiện thật.”

“Nó là một từ sử dụng trong Thế Giới Ngầm, không phải Clave. Họ có những truyền thuyết về những sinh vật như cậu. Tôi ngạc nhiên khi cậu không biết đó.”

“Tôi không sống trong Thế Giới Ngầm lâu lắm,” Simon nói. “Và chú có vẻ biết nhiều về tôi.”

“Lũ lính gác thích đưa chuyện lắm,” giọng nói đáp. “Rằng nhà Lightwood xuất hiện qua Cổng Dịch Chuyển với một ma cà rồng máu me bê bết đang hấp hối – đó là một câu chuyện hay. Dù tôi phải nói tôi không nghĩ cậu sẽ xuất hiện ở đây – cho tới khi họ bắt đầu sửa sang xà lim cho cậu. Tôi ngạc nhiên nhà Lightwood cho phép điều đó xảy ra.”

“Sao lại không?” Simon chua chát nói. “Tôi chẳng là gì. Chỉ là một kẻ thuộc Thế Giới Ngầm.”

“Có lẽ là đối với Quan Tổng Tài thì là thế.” Giọng đó nói. “Nhưng nhà Lightwood-”

“Họ thì sao?”

Một khoảng ngừng ngắn. “Những Thợ Săn Bóng Tối sống bên ngoài Idris – đặc biệt là những người điều hành Học Viện – thường dễ chấp nhận các cư dân Thế Giới Ngầm hơn. Nhưng những Clave địa phương, theo một cách khác…nhỏ nhen hơn nhiều.”

“Còn chú thì sao?” Simon nói. “Chú cũng đến từ Thế Giới Ngầm?”

“Đến từ Thế Giới Ngầm?” Simon không chắc, nhưng cậu nghe ra chút xíu giận dữ trong giọng nói người lạ. “Tên tôi là Samuel. Samuel Blackbum. Tôi là Nephilim. Nhiều năm trước tôi là thành viên Circle, cùng Valentine. Tôi giết chết những cư dân Thế Giới Ngầm trong cuộc Nổi Dậy. Tôi không phải một trong số họ.”

“Ồ.” Simon nuốt nước bọt. Miệng cậu mằn mặn vị muối. Những thành viên trong Circle của Valentine đã bị Clave bắt và trừng trị, cậu nhớ vậy – trừ một số người như cô chú Lightwood, những người đã thỏa thuận hoặc đồng ý đi lưu đày để đổi lại sự khoan hồng. “Vậy chú ở đây từ đó tới giờ?”

“Không. Sau cuộc Nổi Dậy, tôi trốn khỏi Idris trước khi bị bắt. Tôi sống xa nơi này trong nhiều năm – nhiều năm trời – cho một tới ngày, như một kẻ ngốc, tôi nghĩ họ đã quên tôi và tôi có thể trở lại. Tất nhiên họ tóm tôi ngay khi tôi đặt chân tới. Clave có nhiều cách để theo dấu kẻ thù. Họ lôi tôi tới trước mặt Điều Tra Viên và tôi bị thẩm vấn suốt bao ngày trời. Khi họ xong việc, họ ném tôi vào đây.” Samuel thở dài. “Trong tiếng Pháp, kiểu nhà tù này được gọi là oubliette. Có nghĩa là “nơi lãng quên.” Là nơi cậu ném rác rưởi cậu không muốn nhớ tới vào, để nó có thể mục nát mà không khiến cậu khó chịu vì cái mùi hôi thối bốc ra.”

“Tốt thôi. Tôi là một cư dân Thế Giới Ngầm, vì thế tôi là rác rưởi. Nhưng chú thì không. Chú là Nephilim.”

“Tôi là Nephilim đồng minh của Valentine. Vì thế tôi chẳng hơn gì cậu. Thậm chí là tệ hơn. Tôi là kẻ phản bội đồng loại.”

“Nhưng có rất nhiều Thợ Săn Bóng Tối khác từng là thành viên Circle – cô chú Lightwood và cô chú Penhallow…”

“Họ đều công khai nhận sai lầm. Quay lưng lại với Valetine. Tôi thì không.”

“Chú không ư? Nhưng vì sao không?”

“Vì tôi sợ Valentine hơn sợ Clave,” Samuel nói, “và nếu cậu nhạy cảm ra, Ma cà rồng Ưa Sáng ạ, cậu cũng nên thế.”

“Nhưng đáng ra cậu phải ở New York chứ!” Isabelle kêu lên. “Jace nói với bọn mình là cậu đã thay đổi quyết định. Anh ấy nói cậu muốn ở lại cùng mẹ cậu!”

“Jace nói dối đấy,” Clary đều đều đáp. “Jace không muốn mình ở đây, vì thế anh ấy nói dối về mình khi các cậu đi, và rồi nói dối về chuyện mình đổi ý. Nhớ lúc cậu bảo rằng anh ấy chưa bao giờ nói dối chưa? Quá nhầm.”

“Thường thì anh ấy không nói dối,” Isabelle, giờ mặt mũi trắng bệch, nói. “Nghe này, việc cậu tới đây – ý mình là, việc đó có liên quan gì tới Simon không?”

“Tới Simon? Không. Simon đang an toàn ở New York, cảm ơn Chúa. Dù cậu ấy hẳn sẽ rất bực khi không thể tạm biệt mình.” Biểu hiện ngớ ngẩn của Isabelle bắt đầu làm Clary ngứa gan. “Thôi nào Isabelle. Để mình vào. Mình cần gặp Jace.”

“Vậy…cậu tự mình tới đây? Cậu được Clave cho phép không? Làm ơn nói với mình là cậu được Clave cho phép nhé.”

“Không hẳn-”

“Cậu phạm Luật?” giọng Isabelle cao lên, rồi hạ thấp. Cô nàng nói tiếp, chỉ thì thầm. “Nếu Jace biết, anh ấy điên lên mất. Clary, cậu phải về nhà.”

“Không. Mình phải ở đây,” Clary nói, chẳng hiểu sự cứng đầu của cô tới từ đâu. “Mình cần nói chuyện với Jace.”

“Giờ không phải lúc.” Isabelle có vẻ căng thẳng, như mong một ai đó tới giúp kéo Clary đi. “Làm ơn, cứ về New York đi. Làm ơn nhé?”

“Mình tưởng cậu thích mình cơ đấy, Izzy.” Clary chơi bài trách móc.

Isabelle cắn môi. Cô nàng mặc váy liền trắng và búi gọn tóc lên và trông trẻ hơn bình thường. Đằng sau cô nàng là hành lang cao treo những bức tranh sơn dầu có vẻ lâu năm. “Mình thích cậu chứ. Chỉ là Jace… ôi Chúa ơi, cậu mặc cái gì thế này? Sao cậu kiếm được bộ đồ đi săn thế?”

Clary cúi nhìn mình. “Chuyện dài lắm.”

“Cậu không thể vào đây trong bộ đồ đó. Nếu Jace thấy cậu…”

“Ồ, anh ấy thấy mình thì sao. Isabelle, mình tới đây vì mẹ mình đấy. Jace không muốn mình ở đây, nhưng anh ấy không thể bắt mình ở nhà. Mình phải ở đây. Mẹ muốn mình làm điều này cho mẹ. Cậu cũng làm thế cho mẹ cậu, đúng không?”

“Tất nhiên rồi,” Isabelle nói. “Nhưng, Clary, Jace có những lý do-”

“Vậy mình muốn được nghe.” Clary chui qua cánh tay Isabelle và bước vào căn nhà.

“Clary!” Isabelle gọi và hớt hải đuổi theo, nhưng Clary đã đi một nửa hành lang. Cô thấy, chỉ với sự tập trung một nửa không để ý tới việc tránh Isabelle, rằng ngôi nhà xây giống kiểu nhà của cô Amatis, cao và hẹp, nhưng lớn hơn và trang trí xa hoa hơn đáng kể. Hành lang dẫn tới một căn phòng với những ô cửa sổ cao cao nhìn ra con kênh rộng. Những chiếc thuyền trắng dập dềnh trên mặt nước, cánh buồm phấp phới như những cánh hoa bồ công anh bay đi trong gió. Một cậu con trai tóc đen ngồi trên ghế cạnh cửa sổ, rõ ràng là đang đọc sách.

“Sebastian!” Isabelle gọi. “Đừng để cô ấy lên lầu.”

Cậu con trai ngước lên, giật mình – và một lát sau đã đứng trước mặt Clary, chặn đường cô. Clary dừng khựng lại – cô chưa từng thấy ai di chuyển nhanh tới vậy, trừ Jace. Cậu con trai đó còn chẳng hụt hơi; thật ra, cậu ta đang cười với cô.

“Vậy đây là Clary nổi tiếng.” Nụ cười rọi sáng gương mặt cậu ta, và Clary cảm thấy hụt hơi. Đã nhiều năm liền, cô vẽ câu chuyện của cô – câu chuyện về vị hoàng tử chịu lời nguyền rằng mọi người chàng yêu thương đều qua đời. Cô đặt mọi thứ cô mơ tới cho vị hoàng tử tội nghiệp, đau khổ và lãng mạn đó, và chàng đứng ở đây, ngay trước mặt cô – cũng làn da trắng xanh đó, cũng mái tóc rối xù và đôi mắt đen kịt, đồng tử dường như lẫn vào con ngươi đó. Cũng đôi gò má cao và góc cạnh, đôi mắt với những sợi lông my dài. Cô biết cô chưa bao giờ gặp cậu thiếu niên này, nhưng…

Cậu ta có vẻ bối rối. “Tôi không nghĩ – chúng ta từng gặp nhau chưa?”

Không nói nổi lên lời, Clary lắc đầu.

“Sebastian!” Tóc Isabelle tung khỏi ghim và rơi xuống vai, và cô nàng đang lườm nguýt. “Đừng tử tế với bạn ấy. Clary, về nhà đi.”

Với nỗi lực, Clary rời mắt khỏi Sebastian và lườm Isabelle. “Cái gì, trở lại New York á? Làm sao mình về đó được?”

“Sao cô tới được đây?” Sebastian hỏi. “Trốn vào Alicante quả là đáng khen đấy.”

“Tôi đi qua Cổng Dịch Chuyển,” Clary đáp.

“Cổng Dịch Chuyển?” Isabelle có vẻ kinh ngạc. “Nhưng không còn Cổng Dịch Chuyển nào ở New York hết. Valentine đã phá hủy cả hai…”

“Mình không cần giải thích gì với cậu hết,” Clary nói. “Trước khi cậu giải thích cho mình. Trước hết, Jace đâu?”

“Anh ấy không ở đây,” Isabelle trả lời, cùng lúc đó, Sebastian nói, “Anh ấy trên lầu.”

Isabelle quay sang cậu ta. “Sebastian! Im đi.”

Sebastian có vẻ bối rối. “Nhưng cô gái này là em gái anh ta. Sau anh ta lại không muốn gặp em mình chứ?”

Isabelle mở miệng rồi lại ngậm miệng lại. Clary biết Isabelle đang so sánh giữa việc giải thích mối quan hệ phức tạp giữa cô và Jace với việc tặng cho Jace niềm bất ngờ khó chịu kia. Cuối cùng, cô nàng giơ tay tỏ vẻ tuyệt vọng. “Được rồi, Clary,” cô nàng tức giận một cách không bình thường – với Isabelle – nói. “Đi đi và làm bất cứ điều gì cậu muốn, dù cho ai bị tổn thương đi chăng nữa. Đằng nào cậu cũng làm, đúng không?”

Ai da. Clary nhìn Isabelle tỏ ý quở mắng trước khi quay lại với Sebastian, người đã im lặng tránh đường cho cô. Cô vượt qua cậu ta và lao lên lầu, hầu như không để ý tới những giọng nói bên dưới khi Isabelle đang quát mắng Sebastian đáng thương. Nhưng đó là Isabelle – nếu có một cậu con trai ở gần và cô nàng cần đổ tội cho ai đó, Isabelle sẽ gán lên cậu ta luôn.

Cầu thang mở rộng vào một hành lang với hốc tường có ô cửa sổ nhô ra nhìn toàn cảnh thành phố. Một cậu bé đang ngồi trong hốc tường và đọc sách. Cậu bé ngước mắt lên khi Clary đến và chớp mắt ngạc nhiên. “Em biết chị.”

“Chào Max. Clary đây – em gái Jace đây. Nhớ chứ?”

Gương mặt Max bừng sáng. “Chị đã chỉ cho em cách đọc Naruto,” cậu bé nói và giơ sách ra cho cô xem. “Nhìn này, em vừa mua cuốn nữa. Cuốn này là…”

“Max, giờ chị không nói chuyện được. Chị hứa chị sẽ xem cuốn sách của em sau, nhưng em có biết Jace ở đâu không?”

Max xụ mặt. “Phòng đó đó,” thằng bé nói và chỉ vào căn phòng phía cuối hành lang. “Em muốn vào đó cùng anh ấy, nhưng anh ấy bảo em anh ấy cần làm việc của người lớn. Mọi người đều nói với em vậy.”

“Chị xin lỗi,” Clary nói, nhưng đầu óc cô chẳng còn đặt vào cuộc trò chuyện nữa. Nó đang lao ầm ầm – cô sẽ nói gì với Jace khi gặp anh, anh sẽ nói gì với cô? Tiến về phía cánh cửa, cô nghĩ, Tốt nhất là nên tỏ ra thân thiện, không giận dữ; hét vào mặt Jace chỉ khiến anh ấy xù lông lên thôi. Anh ấy cần hiểu mình thuộc về nơi đây, cũng như anh ấy vậy. Mình không muốn được bảo vệ như một món đồ sứ dễ vỡ. Mình cũng mạnh mẽ vậy…

Cô đẩy cửa. Căn phòng trông tựa như một thư viện, những bức tường xếp đầy sách. Phòng được thắp sáng, ánh sáng chiếu qua ô cửa sổ bích họa. Jace đang đứng giữa phòng. Nhưng anh không chỉ có một mình – không một chút nào. Có một cô gái tóc đen đứng cùng anh, một cô gái Clary chưa từng thấy, và hai người đang ôm chặt nhau không rời.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.