Vũ Khí Bóng Đêm 3: Thành Phố Pha Lê

Chương 4: Ma cà rồng ưa sáng



Màn đêm đã phủ xuống khắp Alicante khi Simon và Alec rời khỏi nhà Penhallow và lên đồi để tới Gard. Những con phố hẹp và ngoằn ngoèo, quanh co lên dốc trông như sợi ruy băng bằng đá trắng ởn dưới ánh trăng. Trời lạnh, dù Simon chỉ cảm thấy chút ít.

Alec im lặng bước đi, sải bước đi trước Simon như thể giả bộ anh ta chỉ có một mình. Nếu ở kiếp sống trước, Simon sẽ phải rảo chân, thở hổn hển để theo kịp; giờ cậu phát hiện ra cậu có thể sánh bước cùng Alec chỉ cần rảo bước nhanh hơn một chút. “Chắc anh chán lắm nhỉ,” cuối cùng Simon lên tiếng, khi Alec nhìn ủ ê nhìn về trước. “Về chuyện phải hộ tống tôi ấy.”

Alec nhún vai. “Tôi mười tám tuổi rồi. Tôi là người lớn, vì thế tôi phải sống có trách nhiệm. Tôi là người duy nhất có thể ra vào Gard khi Clave đang họp, và hơn nữa, Quan Tổng Tài biết tôi.”

“Quan Tổng Tài là gì cơ?”

“Ông ta giống như viên chức cấp cực cao trong Clave. Ông ta tính mọi phiếu bầu của Hội Đồng, dịch Luật cho Clave và đưa cho Clave cùng Điều Tra Viên những lời khuyên. Nếu cậu điều hành Học Viện và gặp vấn đề mà cậu không biết phải giải quyết ra sao, cậu sẽ gọi cho Quan Tổng Tài.”

“Ông ta đưa lời khuyên cho Điều Tra Viên? Tôi tưởng – không phải Điều Tra Viên đã chết sao?”

Alec khụt khịt mũi. “Câu đó của cậu nghe giống như ‘Không phải tổng thống chết rồi?’ Đúng, Điều Tra Viên đã chết; giờ đã có người mới. Tân Điều Tra Viên Aldertree.”

Simon nhìn xuống đồi về phía con kênh nước đen xa xa bên dưới. Họ đã bỏ lại thành phố và đang đi trên con đường hẹp rợp bóng cây. “Tôi sẽ nói cho anh nghe, ngày xưa ba cái vụ điều tra chẳng bao giờ cậy miệng nổi con người chúng tôi đâu.” Alec có vẻ bối rối. “Đừng bận tâm. Chỉ là câu đùa cợt kinh điển của người thường ấy mà. Anh chẳng hiểu gì đâu.”

“Cậu không phải người thường,” Alec vạch trần. “Đó là lý do Aline và Sebastian rất hứng thú khi được nhìn thấy cậu. Cậu không nhận ra điều đó ở Sebastian cũng phải thôi. Cậu ta luôn thích tỏ ra biết trước mọi chuyện.”

Simon nói chẳng suy nghĩ, “Sebastian và Isabelle- giữa hai người đó đang có gì à?”

Nghe tới đó, Alec cười váng lên. “Isabelle và Sebastian? Khó lắm. Sebastian là một chàng trai tốt – nhưng Isabelle chỉ thích hẹn hò với những cậu con trai không thích hợp mà bố mẹ tôi ghét. Người thường, cư dân Thế Giới Ngầm, lũ ăn cắp vặt – ”

“Cám ơn,” Simon nói. “Tôi mừng vì được lên lớp về những phần tử tội phạm.”

“Tôi nghĩ con bé cố ý,” Alec nói. “Nó là cô con gái duy nhất trong nhà, vì thế nó luôn cố chứng minh mình cũng kiên cường như bất cứ ai. Hoặc ít nhất, đó là điều nó nghĩ.”

“Hoặc có lẽ Isabelle cố để bố mẹ anh không để ý tới anh,” Simon nói, phần nào là buột miệng. “Anh biết đấy, để bố mẹ anh không biết anh là dân gay.”

Alec dừng khựng giữa đường quá đột ngột làm Simon suýt đâm vào anh. “Không,” anh nói, “nhưng rõ ràng những người khác đều biết.”

“Trừ Jace,” Simon nói. “Anh ta cũng không biết, đúng không?”

Alec hít một hơi thật sâu. Người anh ta trắng bệch, Simon nghĩ, hoặc cũng có lẽ do ánh trăng đã quét sạch mọi thứ màu sắc. Đôi mắt anh trông đen thăm thẳm trong màn đêm. “Tôi không hiểu cậu muốn gì. Hay là cậu đang đe dọa tôi?”

“Đe dọa anh?” Simon giật mình. “Tôi không-”

“Vậy tại sao?” Alec nói, và sự tổn thương đột ngột, rõ ràng xuất hiện trong giọng của Alec khiến Simon giật mình. “Sao lại lôi đề tài đó ra?”

“Vì sao à,” Simon nói. “Lúc nào anh cũng tỏ ra ghét tôi. Bản thân tôi không thể hiểu nổi, khi chính tôi đã từng cứu anh. Anh có vẻ như ghét toàn bộ thế giới. Và hơn nữa, chúng ta về cơ bản chẳng có điểm chung. Nhưng tôi thấy cách anh nhìn Jace và tôi hiểu cách tôi nhìn Clary, thế là tôi nghĩ – có lẽ chúng ta có một điểm chung. Và có lẽ điều này sẽ khiến anh bớt ghét tôi đi ít nhiều.”

“Vậy cậu sẽ không nói cho Jace biết?” Alec nói. “Tôi muốn nói – cậu đã bày tỏ với Clary, và-”

“Đó không phải ý kiến hay nhất,” Simon nói. “Giờ lúc nào tôi cũng tự hỏi liệu anh có thể cư xử bình thường như cũ sau những chuyện như thế không. Liệu chúng tôi có thể nào trở lại thành bạn hoặc hay chúng tôi sẽ chẳng còn là gì của nhau nữa. Không phải vì cô ấy, mà vì bản thân tôi đây này. Có thể nếu tôi tìm được một người khác-”

“Một người khác,” Alec nhắc lại. Anh bắt đầu đi tiếp, rất nhanh, chăm chú nhìn phần đường phía trước.

Simon vội vã đuổi theo. “Anh biết tôi muốn nói gì. Ví dụ nhé, tôi nghĩ Magnus Bane thực sự thích anh. Và anh ấy cũng tốt nữa. Mà ông ta tổ chức tiệc tùng cũng ra trò đấy chứ. Kể cả khi tôi đã bị biến thành chuột vào lần đó.”

“Cám ơn vì lời khuyên.” Giọng Alec khô khốc. “Nhưng tôi không nghĩ Magnus thích tôi nhiều tới mức đó. Lúc tới mở Cổng Dịch Chuyển ở Học Viện, anh ta chẳng nói gì nhiều với tôi.”

“Có lẽ anh nên gọi cho ông ta,” Simon khuyên nhủ, cố không nghĩ quá nhiều tới việc đưa lời khuyên cho một thợ săn quỷ về chuyện hẹn hò với một pháp sư kỳ lạ thế nào.

“Không thể,” Alec nói. “Không có điện thoại ở Idris. Nhưng dù gì cũng chẳng quan trọng.” Anh ta dừng sựng lại. “Chúng ta tới rồi. Đây là Gard.”

Một bức tường cao sừng sững hai cánh cổng khổng lồ xuất hiện trước mặt họ. Cánh cổng được chạm khắc với những họa tiết chữ rune xoắn ốc, cứng cỏi và dù Simon không thể đọc như Clary, sự phức tạp của chúng làm cậu thấy quáng mắt và cậu cảm nhận được quyền năng mạnh mẽ tỏa ra từ chúng. Đứng gác hai bên cổng là những bức tượng thiên thần bằng đá, mang gương mặt đẹp đẽ nhưng dữ tợn. Mỗi bức tượng đều cầm một thanh kiếm chạm khắc và có một sinh vật đang lồng lộn – một sinh vật lai giữa chuột, dơi và thằn lằn, với những cái răng nhọn hoắt xấu xí – nằm chết ngắc dưới gót chân họ. Simon đứng nhìn một lúc lâu. Những con quỷ, cậu đoán – nhưng chúng cũng có thể là những ma cà rồng lắm chứ.

Alec đẩy cổng mở cổng và ra hiệu cho Simon bước vào. Khi vừa vào trong, cậu chớp mắt vì bối rối. Từ khi trở thành ma cà rồng, khả năng nhìn trong bóng tối của Simon đã trở nên sắc bén như tia la-de, nhưng hàng tá ngọn đuốc nằm dọc lối đi dẫn đến cửa của Gard là những ngọn đèn phù thủy, và ánh sáng trắng chói mắt dường như đã tẩy trắng mọi thứ tới từng chi tiết. Cậu mơ hồ nhận thấy Alec đang dẫn cậu theo con đường đá hẹp sáng lên nhờ ánh sáng phản chiếu, và rồi có ai đó đứng trước mặt cậu, giơ tay chắn đường cậu đi.

“Vậy đây là ma cà rồng đó?” Một giọng nói trầm nghe hơi giống tiếng gầm vang lên. Simon ngước mắt, luồng ánh sáng quá mạnh khiến cậu nóng mắt – hẳn nếu còn có thể, cậu đã ứa nước mắt rồi. Đèn phù thủy, cậu nghĩ, ánh sáng của thiên thần, thiêu rụi mình. Mình cũng chẳng thấy ngạc nhiên.

Người đàn ông đứng trước mặt họ rất cao, có đôi gò má cao mang nước da tái xám. Bên dưới mái tóc đen cắt sát da đầu là cái trán dồ lên, cái mũi khoằm và mang gương mặt của người La Mã. Ông ta cúi xuống nhìn Simon với vẻ mặt của một người thường xuyên đi lại trên tàu điện ngầm nhìn một con chuột cống to tướng chạy đi chạy lại trên đường ray, mong đợi một chuyến tàu lao tới cán bẹp ruột nó.

“Đây là Simon,” Alec nói, có chút bối rối. “Simon, đây là Quan Tổng Tài Malachi Dieuonné. Cổng Dịch Chuyển đã sẵn sàng chưa ạ, thưa ngài?”

“Rồi,” Malachi nói. Giọng ông ta nghe khắc nghiệt và mang theo hơi hướm của một địa phương nào đó. “Tất cả đã sẵn sàng. Đi nào, cư dân Thế Giới Ngầm,” Ông ta vẫy tay ra hiệu cho Simon đi theo. “Chuyện kết thúc càng sớm chừng nào hay chừng ấy.”

Simon định đi theo viên chức cao cấp kia, nhưng Alec nắm tay giữ cậu lại. “Đợi chút,” anh ta nói với Quan Tổng Tài. “Cậu ta sẽ được đưa thẳng tới Manhattan chứ? Có ai đợi cậu ta ở bên kia không ạ?”

“Có chứ,” Malachi nói. “Pháp sư Magnus Bane. Vì hắn đã ngu ngốc để cho ma cà rồng này đi tới Idris nên hắn phải chịu trách nhiệm đón tiếp chàng ma cà rồng đây trở về.”

“Nếu Magnus không cho Simon đi qua Cổng Dịch Chuyển, cậu ta sẽ chết,” Alec nói, hơi lên giọng.

“Có lẽ,” Malachi nói. “Đó là điều bố mẹ cậu nói và Clave chọn tin họ. Chính ra Clave đã đi ngược với lời khuyên của tôi. Nhưng, kẻ đó đã không sáng suốt khi mang những cư dân Thế Giới Ngầm vào Thành phố Pha lê.”

“Chẳng có sáng siếc gì ở đây hết.” Cơn giận bùng lên trong lồng ngực Simon. “Chúng tôi bị tấn công-”

Malachi quay sang nhìn Simon. “Cậu chỉ được nói khi được cho phép, cư dân Thế Giới Ngầm ạ, không phải trước đó.”

Tay Alec nắm chặt lấy tay Simon. Vẻ mặt anh ta – nửa do dự, nửa nghi ngờ, như thể anh ta không chắc mình thông minh khi mang Simon tới nơi đây.

“Ôi Quan Tổng Tài ơi, thật sao!” Một giọng vang lên từ sân, cao thánh thót và có chút hụt hơi, rồi Simon hơi ngạc nhiên khi nhận thấy giọng nói đó thuộc về một người đàn ông – nhỏ thó, tròn quay đang hớt hải đi trên con đường nhỏ dẫn tới chỗ họ. Ông ta mặc áo chùng rộng màu xám bên ngoài bộ đồ đi săn của Thợ Săn Bóng Tối, cái đầu hói láng bóng dưới ánh sáng của ngọn đèn phù thủy. “Ông đâu cần phải dọa dẫm khách của chúng ta.”

“Khách?” Malachi có vẻ phát hỏa.

Người đàn ông nhỏ thó dừng lại trước mặt Alec và Simon rồi cười toe toét với cả hai. “Chúng tôi đều rất mừng – thực ra là hài lòng – khi cháu quyết định nghe theo lời chúng tôi mà trở về New York. Như vậy, chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều.” Ông ta nháy mắt với Simon, còn cậu thì bối rối đứng đực mặt giương mắt ếch ra mà nhìn. Cậu không nghĩ sẽ gặp một Thợ Săn Bóng Tối tỏ vẻ hài lòng khi gặp cậu – kể cả khi cậu là một người thường, chứ đừng nói là giờ cậu đã là một ma cà rồng. “A, ta suýt quên mất!” Người đàn ông nhỏ thó vỗ vỗ trán tỏ vẻ hối lỗi. “Ta nên tự giới thiệu chứ nhỉ. Ta là Điều Tra Viên – Điều Tra Viên mới. Điều Tra Viên Aldertree.”

Aldertree giơ tay về phía Simon và trong cơn bối rối, Simon nắm lấy. “Và cháu. Tên cháu là Simon?”

“Đúng ạ,” Simon nói, rụt tay lại ngay khi có thể. Cái bắt tay của Aldertree cho cậu cảm giác ướt át và lành lạnh khó chịu. “Ngài không cần phải cám ơn vì cháu đã hợp tác. Tất cả những gì cháu muốn là được về nhà.”

“Chắc rồi, chắc rồi!” Dù giọng Aldertree khá vui vẻ nhưng cái gì đó thoáng hiện trên gương mặt ông ta khi nói – một biểu cảm khiến bụng dạ Simon chộn rộn. Nó biến mất trong một tích tắc, khi Aldertree mỉm cười và vẫy tay về phía con đường hẹp chạy vòng quanh Gard. “Đường này, Simon, nếu cháu bằng lòng.”

Simon tiến lên, và Alec cũng định đi theo. Nhưng Điều Tra Viên liền giơ tay. “Chúng tôi chỉ cần cậu tới đây thôi, Alexander. Cám ơn vì cậu đã giúp.”

“Nhưng Simon-” Alec cất tiếng.

“Sẽ ổn,” Điều Tra Viên trấn an anh. “Malachi, làm ơn dẫn Alexander ra ngoài. Và đưa cho cậu đây một viên đá đèn phù thủy để cậu ta về nhà nếu như cậu ta không đem theo. Đường tối cũng nguy hiểm ra trò đấy chứ nhỉ.”

Và với một nụ cười hiền khô nữa, ông ta dẫn Simon đi, bỏ lại Alec chăm chú nhìn theo.

Thế giới lóe sáng chung quanh Clary trong cảnh mờ mịt trong khi chú Luke bế cô qua ngưỡng cửa và xuống hành lang dài, Amatis vội vàng dẫn họ đi bằng ngọn đèn-phù thủy. Trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, cô nhìn trong khi hành lang mở ra trước mặt, càng lúc càng dài và dài hơn như hành lang trong một cơn ác mộng. Thế giới quay cuồng. Đột nhiên cô đang nằm trên mặt đất lạnh và những bàn tay vuốt thẳng chiếc chăn đắp trên người cô. Cặp mắt xanh đang cúi nhìn cô. “Con bé có vẻ ốm lắm, Luian,” Amatis nói, bằng giọng méo mó và rời rạc như bản nhạc cũ. “Con bé gặp chuyện gì thế?”

“Con bé uống nửa số nước hồ Lyn,” Giọng chú Luke nghe xa xôi và trong một lát, tầm nhìn của Clary trở nên rõ ràng: Cô đang nằm trên sàn bếp lát gạch lạnh lẽo và ở đâu đó trên đầu cô, chú Luke đang lục lọi trong các ngăn tủ. Bếp được dán giấy dán tường màu vàng và một chiếc lò nướng bằng gang kiểu cổ đặt sát một bên tường; những lưỡi lửa đang liếm trên vỉ lò, khiến mắt cô đau. “Hồi, cà dược, lê tư-” Chú Luke quay khỏi cái tủ với trên tay ôm đầy những chiếc hộp thủy tinh. “Em có thể nấu tất cả mấy thứ này cùng nhau không, Amatis? Anh đưa con bé tới gần bếp lò hơn. Con bé đang run.”

Clary cố nói, nói rằng cô không cần ấm người, rằng cô đang nóng đây, nhưng âm thanh phát ra khỏi miệng cô không phải cái cô định nói. Cô nghe thấy mình đang rên rỉ khi chú Luke nâng cô, và rồi sau đó là độ ấm, thấm vào bên sườn trái tim – cô không hề nhận ra rằng cô đang lạnh. Răng cô đập lập cập vào nhau, và cô nếm thấy vị máu trong miệng. Thế giới bắt đầu run lên xung quanh cô như nước sánh khỏi ly.

“Hồ của những Mộng Tưởng?” Giọng Amatis tràn ngập sự khó tin. Clary không thấy rõ cô, nhưng cô có vẻ đang đứng gần bếp lò, chiếc muôi dài cầm trong một tay. “Hai chú cháu làm gì ở đây? Jocelyn có biết nơi nào-” Và thế giới biến mất, ít nhất là thế giới thật, nhà bếp cùng những bức tường vàng cùng ngọn lửa ấm áp đăng sau vỉ lò. Thay vào đó, cô thấy nước Hồ Lyn, với lửa phản chiếu trong đó như thể mặt gương được đánh bóng. Những thiên thần đang bước đi trên kính – những thiên thần cánh trắng đẫm máu vì đôi cánh rách tuột khỏi lưng, và mọi thiên thần đều mang khuôn mặt của Jace. Và rồi xuất hiện thêm nhiều thiên thần khác, với đôi cánh đen như màn đêm và họ chạm tay vào lửa rồi cười…

“Con bé cứ gọi tên anh trai mãi.” Giọng Amatis nghe trống rỗng như thể từ trên độ cao không tưởng nhỏ xuống. “Cậu bé ở cùng nhà Lightwood, đúng không? Họ đang sống tại nhà Penhallow tại đường Princewater. Em có thể…”

“Không,” chú Lnke gạt đi ngay. “Không. Tốt nhất là Jace không nên biết.”

Vì sao mình lại gọi tên Jace? Vì sao mình làm thế? Clary tự hỏi, nhưng ý nghĩ đó chỉ tồn tại trong một vài khoảnh khắc; bóng tối trở lại, và những ảo giác lại phủ lên cô. Lần này cô mơ thấy Alec và Isabelle; cả hai điều có vẻ vừa trải qua một trận chiến dữ dội, gương mặt lấm tấm bụi bẩn và nước mắt. Rồi họ biến mất, và cô mơ về người đàn ông không mặt mang đôi cánh đen giang rộng như cánh dơi. Máu chảy xuống từ miệng khi hắn cười. Cầu nguyện những hình ảnh kia biến mất, Clary nhắm tịt mắt…

Rất lâu sau cô mới nghe lại được những giọng nói phía trên mình. “Uống cái này đi,” chú Luke nói. “Clary, cháu phải uống,” và rồi đôi tay đỡ lưng cô và chất lỏng được thấm vào miệng cô qua chiếc khăn ướt. Nó có vị đắng và khó uống khiến cô sặc và nhổ nó ra, nhưng bàn tay đỡ lưng cô rất vững vàng. Cô nuốt, qua cơn đau nơi cổ họng sưng tấy. “Đây,” chú Luke nói. “Đây, thế tốt hơn.”

Clary chậm rãi mở mắt. Quỳ xuống bên cạnh cô là chú Luke và Amatis, đôi mắt xanh da trời gần như từ cùng một khuôn của họ tràn ngập sự lo lắng như nhau. Cô liếc nhìn ra sau họ và chẳng thấy gì – không có thiên thần hay quỷ dữ cánh dơi, chỉ có những bức tường vàng và ấm trà màu hồng phấn nằm chênh vênh trên bậu cửa sổ.

“Cháu sẽ chết à?” cô thều thào.

Chú Luke nở nụ cười mệt mỏi. “Không. Chỉ một chút thôi trước khi cháu trở lại bình thường, nhưng… cháu sẽ sống.”

“Dạ.” Cô quá mệt mỏi để cảm nhận điều gì, thậm chí là nhẹ nhõm. Cô có cảm giác mọi đốt xương trong cơ thể đều bị tháo rời, chỉ để lại bộ da èo uột lại. Thẫn thờ ngước lên nhìn qua hàng lông my, cô nói, gần như không cần nghĩ. “Đôi mắt hai người giống nhau.”

Chú Luke chớp mắt. “Giống nhau gì cơ?”

“Giống đôi mắt cô ấy,” Clary nói, chuyển ánh nhìn ngái ngủ sang Amatis, người có vẻ bối rối. “Cùng một màu xanh da trời.”

Một nụ cười nhạt xuất hiện trên khuôn mặt chú Luke. “À thì cũng chẳng có gì bất ngờ,” chú nói. “Chú chưa có cơ hội giới thiệu hai người với nhau. Clary, đây là Amatis Herodale. Em gái chú.”

Điều Tra Viên lẳng lặng bước đi sau khi Alec và vị viên chứccấp cao kia đã ngoài tầm nghe lỏm. Simon đi theo chân ông ta trên đoạn đường hẹp được lắp sáng nhờ đèn phù thủy, cố không nheo mắt nhìn nguồn sáng. Cậu nhận thức được Gard đang sừng sững xung quanh như thành tàu dâng lên từ mặt biển; ánh sáng lóe lên từ những ô cửa sổ nhuộm bạc bầu trời đêm. Ở nơi này còn có những ô cửa sổ thấp chỉ ngang tầm mặt đất. Vài cái có song chắn, nhưng chỉ có bóng tối trong đó mà thôi.

Sau một đi một quãng dài, họ đã tới cánh cửa gỗ dẫn vào một hành lang khum khum hình vòm nằm ở một bên ngách tòa nhà lớn. Aldertree mở khóa và bụng dạ Simon quặn lại. Kể từ lúc trở thành ma cà rồng, Simon nhận thấy khi người ta thay đổi cảm xúc; mùi cơ thể họ cũng biến đổi theo. Từ Điều Tra Viên bốc ra cái mùi đắng nghét và mạnh như mùi cà phê, nhưng gây cảm giác ức chế hơn nhiều. Simon có thấy ngứa lợi, có nghĩa là răng cậu đang muốn chui ra, và thụt lại khi Điều Tra Viên đi qua cửa.

Đằng sau cánh cửa là hành lang trắng dài dằng dặc, gần giống một đường hầm, được đục trong lòng một ngọn núi đá trắng. Điều Tra Viên rảo bước đi, ngọn đèn phù thủy tạo nên những mảng sáng nhảy nhót trên tường. So với một người chân ngắn thì ông ta di chuyển nhanh nhẹn tới kỳ lạ, vừa đi lại vừa nhìn ngó nghiêng, mũi nhăn lại như đang đánh hơi. Simon phải rảo bước để đuổi kịp khi họ đi qua một cánh cửa đôi khổng lồ, mở toang như một đôi cánh giang rộng. Bên trong căn phòng được bày trí theo lối kiến trúc hình vòng với hết hàng ghế này tới hàng ghế khác, trên mỗi ghế là một Thợ Săn Bóng Tối. Tiếng nói âm âm giữa những bức tường, nhiều giọng lên cao giận dữ, và Simon nghe thấy vài mẩu trong cuộc tranh luận khi đi qua. Những lời nói chẳng rõ ràng được khi người này tranh người kia nói.

“Nhưng chúng ta không có bằng chứng về điều Valentine muốn. Hắn đâu có tâm sự tâm nguyện của hắn với ai đâu-”

“Hắn muốn cái gì thì quan trọng gì nào? Hắn là một quân phản trắc và dối trá; anh thực sự nghĩ chiêu dụ hắn sẽ có tác dụng sao?”

“Anh biết rằng nhóm tuần tra tìm thấy thi thể một đứa trẻ người sói chết bên ngoài Brocelind không? Bị rút kiệt máu. Có vẻ Valentine đã hoàn thành Nghi thức tại Idris rồi đấy.”

“Với hai món Bảo Bối Thiên Thần trong tay, hắn mạnh hơn bất cứ một Nephilim nào. Chúng ta không đâu còn lựa chọn-”

“Em họ tôi đã hy sinh trên con tàu tại New York! Chúng ta không thể để Valentine sống bình yên sau những gì hắn làm được! Hắn phải trả giá!”

Simon bước chậm lại, tò mò muốn nghe thêm, nhưng Điều Tra Viên đang lượn lờ chung quanh cậu như một con ong béo núc ních, khó chịu. “Đi nào, đi nào,” ông ta nói và vung vẩy ngọn đèn phù thủy. “Chúng ta không còn nhiều thời gian mà phí phạm đâu. Ta phải trở lại buổi họp trước khi nó kết thúc.”

Lưỡng lự, Simon để cho Điều Tra Viên đẩy cậu đi theo hành lang, từ “trả giá” ong ong trong màng nhĩ cậu. Ký ức về cái đêm trên con tàu đến giờ vẫn làm cậu lạnh người và khó chịu. Khi họ tới cánh cửa được khắc duy chỉ một chữ rune đen tuyền, Điều Tra Viên tra chìa mở khóa rồi mở rộng vòng tay chào đón Simon bước vào.

Căn phòng chẳng được trang trí gì nhiều, ngoài một tấm thảm thêu miêu tả cảnh thiên thần từ dưới hồ hiện lên, một tay cầm kiếm, một tay cầm cốc. Vì đã từng trông thấy cả Cốc và Kiếm Thánh nên cậu có chút lơ đãng. Chỉ tới khi cậu nghe tiếng khóa lách cách khóa lại cậu mới nhận ra Điều Tra Viên đã cài then cửa, nhốt cả hai ở bên trong.

Simon nhìn quanh. Không có đồ nội thất gì trong phòng ngoại trừ một băng ghế dài bên cạnh chiếc bàn thấp. Một chiếc thắt lưng chạm bạc được đặt trên bàn. “Cổng Dịch Chuyển- Nó ở đây sao? Cậu bối rối hỏi.

“Simon, Simon” Aldertree xoa tay vào nhau như thể háo hức đợi chờ một bữa tiệc sinh nhật hay một sự kiện hay ho nào đó. “Cháu thực sự muốn đi nhanh vậy sao? Trước hết, ta muốn hỏi cháu đã-”

“Được thôi.” Simon nhún vai một cách không thoải mái. “Vậy, cứ hỏi cháu bất cứ gì ông muốn.”

“Cháu thật biết hợp tác làm sao! Ta rất vui!” Aldertree cười toe toét. “Vậy, chính xác cháu đã làm ma cà rồng bao lâu rồi?”

“Khoảng hai tuần.”

“Vậy chuyện đó xảy ra thế nào? Cháu bị tấn công trên đường hay là trên giường ngủ? Cháu có biết ai đã Biến Đổi cháu không?”

“Ờ- không hẳn.”

“Nhưng, con trai ơi!” Aldertree kêu lên. “Sao cháu có thể không biết một chuyện như thế?” Vẻ mặt ông ta khi ông ta cúi nhìn Simon rất rộng lượng và tò mò. Ông ta có vẻ vô hại, Simon nghĩ. Giống như ông nội của một ai đó hoặc một ông bác già vui tính. Chắc cái mùi đắng ngắt kia là do Simon tưởng tượng ra mà thôi.

“Chuyện không phải đơn giản như thế,” Simon nói và bắt đầu kể về hai chuyến thăm viếng Dumort, một trong dạng chuột và một dưới sức hấp dẫn mạnh mẽ như thể hai càng cua cỡ bự giữ rịt lấy cậu và điều khiển cậu tới nơi chúng muốn. “Và vậy đấy,” cậu kết thúc câu chuyện, “khi cháu bước vào cánh cửa khách sạn, cháu bị tấn công – cháu không biết ai đã Biến Đổi cháu, rất có thể là tất cả bọn họ.”

Điều Tra Viên kêu lục khục trong họng. “Ôi cháu yêu, ôi cháu yêu. Thật không tốt chút nào. Chuyện quá tệ.”

“Cháu cũng thấy thế,” Simon đồng tình.

“Clave sẽ không hài lòng.”

“Sao ạ?” Simon bối rối. “Sao Clave lại quan tâm tới việc cháu trở thành ma cà rồng ra sao?”

“À, nếu cháu bị tấn công thì là một chuyện,” Aldertree ăn năn nói. “Nhưng cháu lại bước vào đó và, ừm, hiến thân cho lũ ma cà rồng, đúng không nào? Có vẻ như cháu muốn trở thành một trong số chúng.”

“Cháu không hề muốn! Đó không phải lý do cháu tới khách sạn!”

“Tất nhiên, tất nhiên.” Giọng Aldertree nghe mới mượt mà làm sao. “Chúng ta sẽ chuyển sang đề tài khác nhé?” Không đợi câu trả lời, ông ta tiếp tục. “Sao các ma cà rồng lại cho cháu sống sót để tái sinh hả, cậu bé Simon yêu quý? Vì cháu đã đột nhập vào lãnh thổ của chúng, theo thông lệ, chúng sẽ uống no máu cháu và để cháu chết, rồi thiêu xác cháu để cháu không sống lại được nữa.”

Simon mở miệng định trả lời, để nói cho Điều Tra Viên biết Raphael đã đưa cậu tới Học Viện như thế nào và Clary cùng Jace, Isabelle đã đưa cậu tới nghĩa địa và quan sát cậu chui khỏi nấm mồ ra sao. Cậu chỉ biết một chút xíu cơ bản nhất về Luật, nhưng không hiểu sao cậu nghi ngờ rằng thông lệ chuẩn mực của giới Thợ Săn Bóng Tối sẽ không có phần quan sát những ma cà rồng sống dậy, hoặc cung cấp máu cho họ trong bữa ăn đầu tiên. “Cháu không biết,” cậu đáp. “Cháu không hiểu vì sao họ chọn Biến Đổi cháu thay vì giết cháu.”

“Nhưng một trong số chúng đã phải cho cháu uống máu, nếu không cháu đã không- ừm, như cháu hiện nay. Cháu không biết ai là ma cà rồng bố mẹ của cháu sao?”

Ma cà rồng bố mẹ? Simon chưa bao giờ nghĩ theo cách đó. Cậu chỉ là vô tình uống phải máu Raphael. Và quả là khó để nghĩ rằng ma cà rồng mang gương mặt trẻ con đó là bố mẹ một ai. Raphael trông còn trẻ hơn Simon nữa kia. “Cháu e là không.”

“Ôi cháu yêu.” Điều Tra Viên thở dài thườn thược. “Quả đáng tiếc.”

“Cái gì đáng tiếc ạ?”

“Ờ, cháu nói dối ta, con trai ạ.” Aldertree lắc đầu. “Và ta đã vô cùng hy vọng cháu sẽ ngoan ngoãn hợp tác. Thật là tệ, quá tệ. Cháu không định nói thật cho ta biết sao? Coi như cho ta một ơn huệ đi?”

“Cháu đang nói thật!”

Điều Tra Viên rũ xuống như một đóa hoa thiếu nước tưới. “Thật đáng tiếc.” Ông ta lại thở dài. “Thật đáng tiếc.” Ông ta đi lại trong phòng rồi gõ mạnh vào cửa, vẫn lắc đầu quầy quậy.

“Chuyện gì đang xảy ra thế?” Sự hoảng hốt và bối rối vang lên trong giọng nói của Simon. “Cổng Dịch Chuyển sao rồi?”

“Cổng Dịch Chuyển?” Aldertree cười khúc khích. “Cháu không thực sự tin ta cứ thế mà thả cháu chứ?”

Trước khi Simon kịp nói lấy một từ để trả lời, cánh cửa bật mở và những Thợ Săn Bóng Tối mặc đồ đen ùa vào phòng, giữ chặt lấy cậu. Cậu cố chống cự khi những cánh tay to khỏe nắm giữ tay cậu rất chắc. Một cái mũ được trùm lên đầu cậu, che tầm nhìn của cậu. Cậu quẫy đạp trong bóng tối; chân cậu đá trúng đâu đó và cậu nghe thấy tiếng trả thù.

Cậu bị ai đó thô bạo giật ngửa đầu ra sau; một giọng nói phả hơi nóng gầm ghè bên tai cậu. “Thử làm lại xem, ma cà rồng, và tao sẽ đổ nước thánh vào họng mày rồi xem mày thổ huyết đến chết đấy.”

“Đủ rồi đó!” Cái giọng eo éo, lo lắng của Điều Tra Viên bay lên như khinh khí cầu. “Không cần thêm một lời đe dọa nào hết! Ta chỉ cố dạy vị khách của chúng ta đây một bài học ấy mà.” Hẳn ông ta đang tiến lên, vì Simon lại đánh hơi thấy cái mùi đăng ngắt, kỳ lạ, xộc vào trong mũ trùm. “Simon ơi là Simon,” Aldertree nói. “Ta đã rất mừng được gặp cháu. Ta hy vọng một đêm trong xà lim của Gard sẽ có ảnh hưởng thích hợp và vào sáng mai cháu sẽ hợp tác hơn. Ta thực sự nhìn thấy tương lai sáng lạn cho chúng ta, khi chúng ta vượt qua chút trục trặc nho nhỏ này.” Ông ta nắm lấy vai Simon. “Các Nephilim, đưa cậu bé đây xuống lầu.”

Simon hét lớn nhưng giọng hét bị nghẹt lại trong chiếc mũ. Những Thợ Săn Bóng Tối lôi cậu ra khỏi phòng và kéo cậu đi qua những hành lang dường như bất tận, vòng vèo như mê cung. Khi tới cầu thang, họ xô cậu xuống, chân cậu trượt đi trên các bậc thang. Cậu chẳng biết một chút gì về nơi họ đang ở – trừ những mùi hương rất gần, đặc quánh xung quanh họ, giống như mùi đá ướt, và không khí càng lúc càng lạnh theo từng bước chân họ đi xuống.

Cuối cùng họ dừng lại. Có những tiếng lạo xạo, giống tiếng xích sắt bị lôi trên đá, và Simon bị đẩy về phía trước. Cậu phải chống tay đỡ người và quỳ khuỵu xuống nền đất cứng. Có tiếng kim loại kêu lanh canh ầm ĩ, và tiếng những bước chân lùi đi, tiếng bước chân trên đá xa dần trong lúc Simon loạng choạng đứng dậy. Cậu kéo cái mũ trùm ra khỏi đầu và ném phịch xuống đất. Cảm giác bí bách, nóng nực và ngột ngạt xung quanh mặt đã biến mất và cậu cố kiềm chế cảm giác muốn hít thở – giờ cậu đâu cần thở chứ. Cậu biết đó chỉ là một phản xạ, nhưng ngực cậu đau như thể thực sự đang thiếu dưỡng khí vậy.

Cậu đang trong một căn phòng đá vuông vắn có song chắn, chỉ có độc nhất một ô cửa sổ cũng gắn chấn song ngay trên chiếc giường nhỏ có vẻ khá cứng. Qua cánh cửa thấp, Simon có thể thấy một buồng tắm nhỏ tí tẹo có bồn rửa mặt và toa lét. Bức tường phía tây cũng là song sắt – dày, hình như bằng sắt chạy dọc từ nền lên tới trần nhà, chôn sâu xuống sàn. Cánh cửa sắt bản lề, cũng là những chấn song ghép lại, được gắn vào tường; trên nắm đấm cửa bằng đồng có khắc một chữ rune đen đậm. Không những thế, tất cả những chấn song đều được chạm khắc những con chữ rune; thậm chí trên những song cửa sổ, những dòng chữ rune cũng chăng đầy như mạng nhện.

Dù cậu biết cửa xà lim phải được khóa, nhưng Simon không thể ngăn mình lại; cậu sải bước qua phòng và cầm nắm đấm. Cái cảm giác đau rát chạy khắp bàn tay cậu. Cậu hét và giằng tay lại, nhìn chằm chằm vào đó. Những làn khói mảnh bốc lên từ lòng bàn tay bị bỏng; giờ trên tay cậu có thêm một vết bỏng mang họa tiết khá phức tạp. Nó hơi giống Ngôi sao David bên trong vòng tròn, với những chữ rune tinh tế được chi chít ở mọi khoảng trống.

Sự đau đớn cho cậu cảm giác bị thiêu trong lửa đỏ. Simon nắm tay lại trong khi cảm giác muốn thở hổn hển dâng lên miệng. “Cái gì đây?” cậu thì thào, biết rằng không ai nghe thấy cậu.

“Đó là Phong ấn của Solomon,” một giọng nói vang lên. “Họ nói, trong đó chứa một trong những Tên Thật của Chúa. Chúng chống lại quỷ dữ – và ma cà rồng các cậu, vì các cậu không tin vào Chúa.”

Simon giật mình, nửa quên nửa nhớ vết thương trong tay. “Ai đó? Ai nói đó?”

Im lặng. Rồi, “Tôi ở xà lim bên cạnh, Ma Cà Rồng Ưa Sáng ạ,” giọng đó nói. Đó là giọng của một người đàn ông trưởng thành, hơi khàn. “Những lính canh đã nói suốt nửa ngày về cách nhốt cậu lại đây. Vậy nên, nếu tôi là cậu, tôi không cố mở cửa đâu. Tốt nhất cậu nên cố giữ sức cho tới khi biết rõ Clave muốn gì từ cậu.”

“Họ không thể nhốt tôi lại đây,” Simon phản đối. “Tôi không thuộc về thế giới này. Gia đình tôi sẽ nhận ra tôi đã mất tích – các giáo viên-”

“Họ sẽ lo liệu việc đó. Có những câu thần chú vô cùng đơn giản -ngay tới một pháp sư non tay cũng sử dụng được – sẽ tạo mẹ cậu ảo giác rằng có một lý do hoàn toàn hợp pháp cho sự vắng mặt của cậu. Một buổi đi thực tế chẳng hạn. Đi thăm họ hàng. Thế là xong.” Giọng nói đó không hề đe dọa, hay buồn; bạn tù của cậu chỉ đang nói lại một sự thật hiển nhiên mà thôi. “Cậu thực sự nghĩ họ chưa bao giờ thủ tiêu một cư dân Thế Giới Ngầm nào sao?”

“Chú là ai?” Giọng Simon nghe vụn vỡ. “Chú cũng là cư dân Thế Giới Ngầm sao? Đây là nơi họ giam cầm chúng ta?”

Lần này người kia không trả lời. Simon lại gọi, nhưng người hàng xóm rõ ràng đã quyết định mình nói thế là quá đủ. Chẳng có gì ngoài sự im lặng trả lời Simon.

Vết thương trên tay cậu dần bớt đau. Nhìn xuống, cậu thấy da cậu không còn bị bỏng nữa, nhưng dấu Niêm Phong in trong lòng bàn tay cậu như thể được vẽ bằng mực. Cậu lại nhìn những chấn song sắt. Giờ Simon đã nhận ra rằng không phải tất cả những chữ rune kia đều là chữ rune: khắc giữa chúng là những Ngôi Sao David và những dòng kinh Torah[4]. Những đường khắc còn khá mới.

[4] Sách Torah, hay còn gọi là Ngũ Thư Kinh hoặc Ngũ kinh Moses, bao gồm 613 điều răn dạy những tín đồ Do Thái Giáo. Trong đó, một số điều răn chỉ được áp dụng cho nam giới hoặc nữ giới, một số điều chỉ dành cho các thầy tế lễ thời xưa – thầy tư tế (kohen) và thầy Lêvi, một số điều răn dành riêng cho nông dân trong vùng đất Israel. Nhiều điều răn chỉ được áp dụng khi Đền thờ Jerusalem còn tồn tại, và ngày nay người ta chỉ phải tuân theo chưa tới 300 điều răn trong sách này.

Những lính canh đã nói suốt nửa ngày về cách nhốt cậu lại đây, giọng kia đã nói vậy.

Nhưng đáng buồn cười là, những chữ khắc kia không phải vì cậu là ma cà rồng; một phần, nó ở đó bởi vì cậu là người Do Thái. Họ đã dùng nửa ngày trời để khắc Phong Ấn Solomon lên nắm đấm cửa để nó có thể làm cậu bỏng khi chạm vào. Họ cũng phải mất từng đó thời gian để biến những tín điều của cậu chống lại cậu.

Không hiểu sao, ý thức được điều đó đã cướp đi sự tự chủ cuối cùng của Simon. Cậu ngồi sụp xuống giường và ôm lấy đầu.

Khi Alec trở về từ Gard thì Phố Princewater đã tối om, những cửa chớp những ô cửa sổ đã đóng và đèn đóm trong nhà đã tắt hết, chỉ có vài ngọn đèn đường-phù thủy tỏa những vùng ánh sáng trắng lên đoạn đường rải đá cuội. Nhà Penhallovv là ngôi nhà sáng nhất trong toàn bộ khu dân cư – những ánh nến rọi qua những ô cửa sổ, và cửa trước hơi khép hờ, để cho ánh sáng vàng lọt ra chiếu xuống lối đi.

Jace đang ngồi trên bức tường thấp sơn vàng bao quanh vườn trước nhà Penhallow, mái tóc của anh rất sáng dưới ánh đèn tỏa ra từ ngọn đèn đường gần nhất. Anh ngước lên nhìn khi Alec tới, và hơi run một chút. Alec nhận thấy Jace chỉ mặc độc một chiếc áo khoác mỏng mà trời thì càng lúc càng lạnh kể từ khi mặt trời lặn. Mùi của hoa hồng nở muộn phảng phất trong bầu không khí lành lạnh như mùi nước hoa thoang thoảng.

Alec nhảy lên tường ngồi cạnh Jace. “Cậu ra ngoài này đợi mình từ lúc đó sao?”

“Ai nói là tôi đợi cậu?”

“Mọi chuyện đều ổn, nếu đó là điều cậu lo lắng. Tớ đã để Simon lại với Điều Tra Viên.”

“Cậu để cậu ấy lại sao? Cậu không ở lại để đảm bảo mọi chuyện đều ổn thỏa sao?”

“Ổn mà,” Alec nhắc lại. “Điều Tra Viên nói ông ta sẽ tự đưa cậu ấy về-”

“Điều Tra Viên nói, Điều Tra Viên nói,” Jace ngắt lời. “Điều Tra Viên cuối cùng mà chúng ta gặp hoàn toàn đã làm quá phận sự – nếu bà ta không chết, Clave hẳn cũng đuổi cổ bà ta, thậm chí còn nguyền rủa bà ta. Ai dám chắc Điều Tra Viên này không khùng khùng điên điên như thế?”

“Ông ta có vẻ bình thường,” Alec nói. “Thậm chí còn tốt bụng là khác. Ông ta cực kỳ lịch sự với Simon. Nghe này Jace – đây là cách thức hành sự của Clave. Chúng ta không thể kiếm soát mọi việc xảy ra. Nhưng cậu phải tin họ, vì nếu không mọi thứ sẽ lộn xộn lên hết.”

“Nhưng gần đây chính họ đã gây ra vô số rắc rối – cậu phải thừa nhận đi.”

“Có lẽ,” Alec nói, “nhưng nếu cậu bắt đầu nghĩ rằng cậu giỏi hơn Clave và tốt hơn Luật, điều gì làm cậu nghĩ rằng cậu giỏi hơn Điều Tra Viên? Hay Valentine?”

Jace nhăn mặt. Trông Jace như thể vừa bị Alec đánh, hoặc tệ hơn.

Dạ dày Alec rớt xuống. “Mình xin lỗi.” Anh giơ tay ra. “Mình không hề cố ý –”

Một luồng sáng vàng rực đột ngột chiếu qua khu vườn. Alec ngước lên thấy Isabelle đứng trong ngưỡng cửa trước, ánh sáng ùa ra từ xung quanh cô em. Isabelle chỉ là một bóng đen, nhưng nhìn cách chống tay là anh biết em gái đang bực bội. “Hai người làm cái gì ngoài đó hả?” cô nàng gọi. “Mọi người đang hỏi hai anh ở đâu kia kìa.”

Alec quay lại về phía người bạn. “Jace-”

Nhưng Jace, đã đứng dậy, lờ đi bàn tay Alec đưa ra. “Tốt hơn cậu nên đúng về Clave,” là tất cả những gì cậu nói.

Alec quan sát trong khi Jace trở lại nhà. Tự động, giọng nói của Simon vang lên trong tâm trí anh. Giờ lúc nào tôi cũng tự hỏi liệu anh có thể cư xử bình thường như cũ sau những chuyện như thế không. Liệu chúng tôi có thể nào trở lại thành bạn hoặc hay chúng tôi sẽ chẳng còn là gì của nhau nữa. Không phải vì cô ấy, mà vì bản thân tôi đây này.

Cửa trước đóng lại, để lại Alec một mình ngồi trong khu vườn sáng mờ mờ. Anh nhắm mắt trong một lúc, hình ảnh một khuôn mặt ám ảnh trong đầu óc anh. Nhưng lạ thay, khuôn mặt đó không thuộc về Jace. Đôi mắt của người đó màu xanh, đồng tử dọc. Một đôi mắt mèo.

Mở mắt, anh cho tay vào cặp và lôi ra cây bút cùng mẩu giấy xé ra từ cuốn sổ lò xo thường dùng để viết nhật ký. Anh viết vài từ rồi, với thanh stele, vẽ chữ rune lửa ở cuối trang giấy. Nó cháy nhanh hơn anh tưởng; anh thả tờ giấy khi nó cháy; để nó bay lập lờ như đom đóm. Rồi tất cả chỉ là là ít tro tàn, rắc xuống như phấn trắng phủ lên khóm hồng.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.