Mỗi đêm, vầng trăng vẫn chầm chậm trôi qua bầu trời Thành phố Đá, và mỗi đêm Reynie vẫn ngước lên bầu trời qua ô cửa sổ của căn nhà cũ, hồi tưởng lại những cuộc gặp gỡ dưới ánh trăng của Hội Benedict Thần Bí. Có quá nhiều điều để nhớ về, quá nhiều chuyện để kể, nhưng mặt trăng sẽ mờ dần, lặn xuống phía xa, rồi lại tròn vành vạnh trở lại trước khi có thể kể hết được. Có quá nhiều việc phải làm, quá ít thời gian để kể chuyện.
Ngài Curtain đã trốn thoát ra ngoài hòn đảo kia, cùng với rất nhiều Tuyển dụng viên và một vài Điều hành viên thân tín. Với những thông tin này, ngài Benedict dễ dàng thuyết phục các quan chức chính phủ ủng hộ việc đột kích vào Học viện. Trước đó họ đã không tin, nhưng những nghi ngờ đó giờ đã vỡ vụn dưới sức nặng của những đổi thay. Đổi thay đầu tiên, đó là trí nhớ của chú Milligan đã trở về, cùng với nó là một số mật khẩu tối quan trọng của chính phủ. Chẳng biết vào lúc nào, Kate đã chôm được một cuốn sách nhỏ từ phòng báo của ngài Curtain, đó là còn chưa kể đến cuốn nhật ký của ngài Curtain mà cô bé túm được lúc chạy ra khỏi Phòng Thì Thầm. Nhưng quan trọng nhất, là việc Máy Thì Thầm không còn phát đi những thông điệp của ngài Curtain nữa. Cứ mỗi ngày trôi qua, tác động khó chịu của chúng lên não lại giảm đi một chút, vấn đề Khẩn cấp cũng biến mất dần, và những bộ óc chỉ gắn bó với sự thật đã phóng khoáng hơn, giống như những bông hoa thèm khát ánh sáng mặt trời.
Những ngày này, luôn có một tốp những đặc vụ, chuyên viên tụ tập trong phòng ngài Benedict, họ tổng hợp thông tin rồi vội vàng ghi ghi chép chép vào những cuốn sổ tay (và thường là sẽ bị mất phương hướng trong mê cung thông tin của ngài Benedict). Họ muốn tóm ngài Curtain, dù ngài Benedict không mấy hi vọng vào việc này. Ông nói ngài Curtain quá láu cá nên sẽ chẳng dễ chịu thua trước những người trưởng thành như chúng ta đâu. May ra chỉ bọn trẻ con mới có thể làm được điều đó.
Tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề quan trọng với tất cả những ai đã bị cướp mất ký ức, bao gồm: những đứa trẻ được “tuyển dụng”; những đặc vụ bí mật đã bị đào tạo để trở thành những người giúp việc; chú Bloomburg nhất định rồi; và khá lớn những Điều hành viên, những người mà trước đó không lâu vốn là những đứa trẻ mồ côi đáng thương. Nhiệm vụ của chú Milligan là điều hành cuộc tìm kiếm tất cả những người không may mắn đã từng đặt chân đến Đảo Nomansan; còn ngài Benedict có trách nhiệm thay đổi sáng chế của người em sinh đôi với mình, đảo ngược tính năng tẩy não của nó – thay vì gói kín vào đâu đó, cái máy sẽ dụ những ký ức cũ trở về. Những lúc bị hối thúc, ngài Benedict liền thừa nhận về cơ hội thành công của mình. Nhưng với những ai hiểu ông ấy, họ hiểu chính ngài Benedict cũng chẳng chắc chắn về khả năng đó.
Tuy thế, ngài Benedict vẫn khăng khăng rằng, không phải do khiêm tốn mà ông nghĩ rằng bọn trẻ mới là những anh hùng thực sự trong cuộc phiêu lưu này. Chính chúng đã khám phá ra những bí mật đen tối của ngài Curtain; chúng hạ gục Curtain trong Phòng Thì Thầm; là người khiến cái Máy Thì Thầm ngừng hoạt động; và chính chúng tìm ra cách mở cánh cửa bí mật – một việc chỉ có thể làm từ phía trong phòng thôi.
“Sao ngài biết được cái cửa bí mật đó ạ?” Kate đã hỏi ngài Benedict như thế vào một buổi tối vài tuần sau khi họ trở về. Mặc dù mọi người trong nhà nói luôn miệng, nhưng không phải là nói với nhau mà là với những đặc vụ của chính phủ, nên sự tò mò của mỗi người vẫn chưa được thỏa mãn. Tối nay tình cờ lại là buổi tối đầu tiên họ được ngồi bên nhau mà không sợ bị ai quấy rầy cả. Quây quần trong phòng ăn, áp hai bàn tay vào cốc chocolate ấm nóng, vì mùa thu đã nhường chỗ cho mùa đông, tất cả mọi người – kể cả Constance Constraire – đều mang một vẻ nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng có thời gian dành cho nhau.
“Một lần nữa, ta lại phải chối bỏ danh dự này thôi,” ngài Beneđict nói. “Là Milligan tìm ra nó.”
Mọi người quay sang nhìn Milligan, lúc đó đang ngồi cạnh Kate.
“Chú đã nghĩ là chắc chắn ngài Curtain sẽ phải chuẩn bị một lối thoát bí mật cho riêng mình,” chú Milligan giải thích. “Do đó, sau khi gặp các cháu trên đảo, tối nào chú cũng tìm hết, may mà có bóng đêm che chắn đấy. Cuối cùng, hóa ra chú cũng may mắn – chú tìm thấy lối đi đó ngay buổi tối trước khi bị bắt.”
“Lúc nào cũng là lối vào, lối ra, phải không ạ?” Kate hỏi.
Milligan cười – một tràng cười vui vẻ, phóng khoáng – mọi người giật nảy mình, vì trước nay đã quá quen với điệu cười của chú Milligan rồi. Sau những năm tháng đóng giả là một người đàn ông sầu khổ nhất trên trái đất, giờ đây chú Milligan lại là người hạnh phúc nhất – có lẽ thực sự đúng như thế. Bước ra khỏi cuộc sống dưới vai trò là một người cha đã quá lâu, giờ đây, cuối cùng chú Milligan cũng tìm lại được nó.
Chú Milligan nhoài người sang búng ngón tay lên cằm Kate, đây cũng là ngày đầu tiên cái cằm ấy không còn bóng thuốc mỡ nữa (những vết trầy xước thực ra đã khỏi từ lâu rồi, nhưng không chỉ chú Milligan mà tất cả những người khác trong nhà đều quan tâm hơi thái quá đến nó). Kate cười rạng rỡ, đùa đùa đánh vào tay chú Milligan. Khoảnh khắc sau đó, cô bé phát hiện ra là viên kẹo dẻo trong cốc sô cô la nóng của mình đã biến mất. Kate nhìn lên đúng lúc chú Milligan ném vội viên kẹo vào miệng.
“Bố ăn trộm!” Kate nói, cười khúc khích.
Milligan nháy mắt và trả lại cho cô bé một viên kẹo mới tinh.
Ở phía kia của bàn ăn, Reynie đang quanh quẩn với một thắc mắc: Mình nên gọi người đang ngồi cạnh mình là gì? Đó là cô Perumal – tất nhiên rồi. Cuối cùng thì hai cô trò cũng được gặp nhau – phải mất khá nhiều nước mắt, và cũng nhiều những cái ôm nữa – và giờ thì cô Perumal đang ngồi cạnh Reynie, một tay đặt lên vai cậu. Nhưng cậu có nên tiếp tục gọi là cô Perumal không? Nên gọi cô là gì? Đây là một câu hỏi cần kíp cho bất kỳ đứa trẻ nào vừa có bố mẹ mới. Với Reynie cũng thế, sự vắng mặt của cậu bé khiến cô Perumal nhận ra Reynie thân thương với mình đến nhường nào: Khoảnh khắc gặp lại cậu học trò bé nhỏ, cô đã không chần chừ hỏi Reynie về việc mình muốn nhận nuôi cậu bé.
Ban đầu, Reynie đã chẳng thể nói gì, chỉ chạy tới ôm chầm lấy cô giáo của mình, dụi đầu vào người cô.
“Ôi Reynie,” cô Perumal nói và bật khóc, “Reynie, cô hy vọng hành động này có nghĩa là đồng ý.”
Tất nhiên là như thế rồi, và giờ cả hai ngồi đây miên man suy nghĩ – rất giống với cảm giác của Milligan và Kate lúc này – về việc cảm thấy như đã là một gia đình từ lâu, nhưng vì một số lí do nào đấy nên giờ mới được đoàn tụ. Một suy nghĩ vẩn vơ, nhưng thú vị lóe ra trong đầu Reynie.
“Mẹ” có vẻ không đúng lắm, Reynie quyết định. Sao không đùng từ trong tiếng Tamil nhỉ? Cậu đã từng nghe thấy cô Perumal gọi mẹ mình là “Amma”, nhưng không chắc chắn lắm. Reynie thấy bị kích động bởi một tương lai hạnh phúc. Cậu sẽ hỏi Sticky.
Lúc này, Sticky là người duy nhất trong cả nhóm không có được cảm giác hạnh phúc, nhưng kiên quyết che giấu điều này. Cậu quay sang hỏi ngài Benedict, “Nhưng cuối cùng thì làm thế nào ngài vô hiệu hóa được Máy Thì Thầm thế ạ?”
“Ta chỉ kết thúc công việc mà các cháu đang làm dang dở thôi,” ngài Benedict trả lời. “Ta đã thuyết phục cái máy đó mình chính là Curtain, rồi đưa ra các yêu cầu khiến hoạt động của nó không bình thường được. Nhưng nếu như trước đó Constance không làm nó hoàn toàn lúng túng, và nếu như ta không có một bộ óc giống hệt đứa em sinh đôi của mình, thì ta đã chẳng thể nào thành công.”
“Cùng chúc mừng bộ óc của ngài Benedict nào!” Kate reo lên. Mọi người cười vang.
“Và chúc mừng Constance nào,” ngài Benedict nói, sau đó bỗng trầm ngâm nhìn mọi người hò reo và Constance đang đỏ mặt thẹn thùng. “Giờ ta mới nhớ. Constance, cháu yêu quý, cháu có thể vào bếp và mang cho ta cái hộp nhỏ đang để ở trên bàn được không?”
Constance gật đầu và đi vào bếp.
“Chẳng thể tin được.” Sticky nói. “Cậu ấy không hề kêu ca nửa lời. Giống như là đã lớn rồi ấy.”
“Chính xác là như thế đấy Sticky,” ngài Benedict nói, gật đầu với Rhonda Kazembe, người sau đó tiến về một chiếc tủ và lôi ra một chiếc bánh sinh nhật to đùng đã được giấu ở đó từ trước.
“Cảm ơn chúa.” Số Hai nói. “Em đói meo rồi đây này.”
Constance quay lại, thấy mọi người mỉm cười nhìn mình và chỉ chiếc bánh. Mặt cô bé lại đỏ lựng. “Nhưng sinh nhật của cháu phải vào tháng sau kia ạ.”
“Có ai biết tháng sau sẽ có những chuyện gì nữa xảy ra không?” ngài Benedict hỏi. “Cho nên hãy cùng ăn bánh ngay bây giờ đi!”
Constance lắc đầu, dù rõ ràng là đang rất hào hứng. Trèo lên được chiếc ghế; cô bé đưa cái hộp nhỏ cho ngài Benedict.
“Mấy vụ chúc mừng của mọi người làm ta nhớ ra đấy,” ngài Benedict nói và lôi từ trong hộp ra ba cây nến nhỏ. “Ta súyt quên cắm nến lên trên bánh đấy.”
“Ba ngọn nến thôi ạ?” Reynie nói. “Ba ngọn nến, vậy là Constance mới chỉ có hai tuổi.”
“Hai tuổi và mười một tháng,” cô bé cãi lại.
Hai đứa trẻ còn lại tròn mắt ngạc nhiên.
“Nhưng… nhưng…” Sticky định nói, nhưng sau dừng lại và lắc lắc đầu.
“Hiểu rồi, hiểu rồi, lời giải thích cho tất cả mọi việc.” Kate nói, cảm thấy thực sự nhẹ nhõm, cứ như là một câu hỏi dai dẳng cuối cùng cũng đã được giải đáp, mặc dù trước đó chính cô bé cũng chẳng hề biết mình có câu hỏi này trong đầu.
Reynie nhe răng ra cười khoái trí. “Đó là lý do vì sao ngài Benedict bảo em thông minh hơn rất nhiều so với những gì mọi người có thể nhìn thấy. Anh đã nghĩ là ngài ấy đang ám chỉ đến cái sự bướng bỉnh khó tin của em đấy.”
“Ai bướng bỉnh kia?” Constance cau mày nói.
“Một đứa bé mới chập chững biết đi,” Sticky lầm bầm. “Thảo nào lúc nào cũng buồn ngủ, rồi ốm yếu, bướng bỉnh đến vậy. Nó mới có hai tuổi!”
“Em không bướng bỉnh.” Constance khăng khăng. Cô bé đã nghe được những gì Sticky đang lầm rầm nãy giờ. “Em gần ba tuổi rồi đấy ạ!”
Ngày hôm sau, như thường lệ, căn nhà lại đầy ắp những đặc vụ của chính phủ, và rung lên vì hàng nghìn các cuộc điện thoại. Ngài Benedict cảm thấy mình cần phải gạt các dự án ra một bên một lúc để giải quyết một vấn đề quan trọng hơn. Ông tìm thấy Sticky tại một hành lang ở trên gác cùng với Số Hai, người đang xoa xoa vào cái đầu trọc của Sticky và gật đầu lia lịa.
“Ừ, cô khẳng định.” Số Hai nói. “Tóc của em chắc chắn sẽ mọc lại.”
“Dứt khoát rồi,” Sticky nói.
Nhìn thấy ngài Benedict, Số Hai nhíu mày. “Ngài đang làm gì mà không ngồi trên ghế thế? Tại sao ngài không gọi một trong số bọn em?”
“Ta xin lỗi, Số Hai. Ta đang phải giải quyết một việc khẩn cấp, rồi sẽ quay lại đó ngay thôi. Sticky, đi theo ta nào. Ta có việc cần bàn bạc với cháu đây.”
“Nhớ bắt ngài ấy ngồi nhé Sticky,” Số Hai nói với theo.
Cả hai đi vào thư phòng của ngài Benedict. Sau khi chịu ngoan ngoãn ngồi vào bàn, ông nói, “Sticky, ta sẽ không vòng vo nữa. Bố mẹ cháu đang ở đây.”
“Bố …. Bố mẹ cháu? Ở đây?” Sticky nói, cậu vừa nhìn xung quanh vừa mong sẽ nhìn thấy họ đang trốn ở phía sau đống đồ đạc kia. Đó chỉ là biểu hiện của sự căng thẳng, chính bản thân Sticky cũng không chắc cảm giác của mình như thế nào khi nghe tin đó.
“Ta sẽ giải thích ngay bây giờ,” ngài Benedict nói. “Cùng bắt đầu từ những gì cháu đã biết nhé. Sau khi cháu bỏ trốn, bố mẹ cháu đã bị cuốn vào dòng xoáy của sự giàu có. Họ kiếm được nhiều tiền đến mức hầu như rất ít người có thể làm được như thế, và giàu hơn gấp nhiều lần trước đây. Mặc dù họ có tìm kiếm cháu, nhưng đó chỉ là những cố gắng miễn cưỡng…”
“Ngài nói đúng,” Sticky đau khổ thừa nhận. “Cháu biết việc này.”
“Không hoàn toàn như vậy đâu, bạn của ta. Đúng là họ miễn cưỡng tìm kiếm cháu. Nhưng đó là vì họ sợ cháu.”
“Sợ ư? Sợ cháu?”
“Thực ra là họ sợ mình không thể cho cháu một gia đình đúng nghĩa. Khi cháu chạy trốn, bố mẹ cháu đã dằn vặt lắm. Cháu thông minh hơn họ nhiều, và họ thì đã làm cho mọi thứ rối tung lên. Nếu cháu muốn chạy trốn, vậy thì có thể là trong đau đớn họ đã tưởng tượng ra đó là cách tốt nhất cho cháu. Có lẽ không có họ cháu sẽ sống tốt hơn.”
“Sống tốt hơn?” Sticky nhắc lại, nhớ ra rằng mình trước đây rất lâu cũng đã từng nghe thấy cụm này từ chính miệng của bố. Lúc đó, cậu bé nghĩ bố mình ám chỉ không có cậu họ sẽ sống tốt hơn.
“Đó là suy nghĩ của họ lúc đó. Cháu cũng phải biết rằng bố mẹ mình cũng bị những thông điệp của Curtain tác động chứ. ‘Những người bị mất tích không phải là bị mất tích, họ chỉ bị chia cách’, cháu nhớ chứ? Đó thực sự là một thông điệp độc hại nhất. Và, ngay cả điều đó diễn ra, Sticky ạ, thì bố mẹ cháu cũng đã cực kỳ đau khổ. Dù cho họ thiết tha hi vọng rằng sự giàu có sẽ khiến mình quên được cháu, họ vẫn cảm nhận được khoảng trống quá lớn cháu để lại. Họ nhận ra là họ cần có cháu, ngay cả khi cháu không cần họ. Vì thế, bố mẹ cháu đã dành toàn bộ của cải để tìm cháu, thực ra giờ họ khá nghèo và nợ nần chồng chất.”
“Có thể cháu sẽ vui khi biết rằng,” ngài Benedict tiếp tục, “bố mẹ cháu bắt đầu tìm kiếm cháu từ trước khi ta vô hiệu hóa Máy Thì Thầm. Quyết tâm đưa cháu trở về phải lớn lắm thì họ mới kháng cự lại những thông điệp đó như thế. Chỉ có tình yêu thương vô bờ bến mới giúp họ làm được điều đó thôi Sticky ạ.”
Sticky cảm thấy bối rối. “Và họ tìm thấy cháu? Chứ không phải do ngài báo cho họ trước?”
“Họ tìm thấy cháu. Ta có thể đã giấu cháu đi. Nhưng ta bị thuyết phục bởi sự chân thành của bố mẹ cháu, ta cho phép họ tìm thấy cháu.”
“Vậy ngài nghĩ là cháu nên đi cùng bố mẹ mình?”
“Đó là điều mà cháu phân vân, Sticky.”
“Vâng, nhưng ngài cảm nhận thế nào về bố mẹ cháu ạ?”
“Đáng thương. Và ốm yếu do thương nhớ đứa con trai bị mất tích của mình. Họ đã phạm một sai lầm khủng khiếp và sẽ luôn luôn hối hận vì điều đó. Khi ta cho bố mẹ cháu biết là cháu an toàn, cảm giác nhẹ nhõm hiện rõ trên khuôn mặt họ. Họ cứ khóc mãi. Lúc ta rời khỏi đó, họ vẫn còn đang khóc. Ta tin là giờ bố mẹ cháu vẫn chưa thôi khóc đâu – ta vừa nhìn thấy Rhonda mang thêm khăn giấy vào mà.”
Sticky bật khóc. “Có đúng là bố mẹ cháu đã nói họ cần cháu nhiều hơn là cháu cần họ không?”
“Đúng như thế. Cháu nghĩ sao về điều này?”
Hai hàng nước mắt chảy dài trên gò má Sticky. “Cháu gặp họ được không?”
“Chỉ cần cháu muốn, bạn của ta,” ngài Benedict cam đoan, nắm chặt tay Sticky. Hai mắt đong đẩy sự xúc động. “Họ đang đợi cháu trong phòng ăn.”
Sticky lao ra khỏi phòng, hướng nhanh về phía cuộc đoàn tụ sắp diễn ra, cuộc đoàn tụ của niềm hạnh phúc, nhưng cũng đầy nước mắt, để cuối cùng chỉ còn những nụ cười rạng rỡ. Rất nhanh sau đó, cả phòng ăn đông kín với những người bạn của Sticky, rồi cả chú Milligan, cô Số Hai, Rhonda, và thậm chí là cả một vài chuyên viên không quen biết nữa, họ bị hấp dẫn bởi không khí xôn xao vui vẻ ở đây. Đó là một lễ kỷ niệm náo nhiệt, rực rỡ, xóa nhòa mọi khoảng cách, với những cái ôm, những cái xiết tay và những nụ hôn. Chú Milligan mang ra phần còn lại của chiếc bánh sinh nhật tối qua, còn Rhonda thì mang tới ít rượu trái cây vẫn còn đang sủi bọt. Ngay cả các chuyên viên, dù cho ban đầu có đôi chút tức giận vì công việc điều tra bị gián đoạn, cũng bị cuốn vào sự náo nhiệt đang bao trùm khắp căn phòng, cho nên trước đó rất lâu đã kịp cởi bỏ áo khoác, nới lỏng cà vạt, một người còn bật một đĩa hát, rồi các màn khiêu vũ bắt đầu diễn ra sôi nổi.
Bữa tiệc diễn ra được một lúc Số Hai mới bất chợt nhìn quanh tìm ngài Benedict. “Xin lỗi!”, cô nói to và lao ra khỏi phòng. Số Hai tìm thấy ngài Benedict ngay chỗ Sticky vừa mới rời đi sau cái xiết tay thật chặt, chỉ có khác là giờ ông ấy nằm úp mặt lên trên bàn, giấy tờ vương vãi xung quanh, và ngáy như một cái tàu chở hàng nhưng vẻ mặt vô cùng hạnh phúc.
“Ngài Benedict sẽ nhận nuôi Constance?” Kate nói với Reynie. “Đó là một tin tốt. Và cũng phù hợp nữa. Chắc chắn ngài ấy sẽ thích mấy câu chuyện vui không đầu không cuối của con bé đấy.”
Cả hai vừa mới hoàn thành pháo đài bằng tuyết và đang chuẩn bị sẵn những quả cầu tuyết cho trận đánh sắp tới. Phía bên kia sân, Rhonda, Constance, và Sticky đang mải mê cũng với công việc này. Rướn người quan sát tiến độ của bên kia, Reynie nói, “Đúng thế, tất cả mọi người đều tìm thấy gia đình của mình, có vẻ như vậy. Cậu có chú Milligan. Tớ sắp có mẹ và bà ngoại. Constance có hai chị gái và một người cha…”
“Hai chị gái?”
“Ừ, đúng thế. Hóa ra ngài Benedict đã nhận nuôi Số Hai và Rhonda từ lâu rồi, dù Rhonda cứ khăng khăng phải là hai người họ nhận nuôi ông ấy mới đúng. Mà tớ đoán là chắc ngài Benedict đã đặt vấn đề với Constance bằng câu: ‘Cháu có muốn nhận chúng ta là gia đình của cháu không?’ Constance đã nói cô bé cần phải xem xét v ề việc đó, nhưng có vẻ sẵn sàng chấp nhận.”
Kate cười khúc khích. “Có vẻ sẵn sàng chấp nhận. Thật là có óc thực tế đấy. Này, cái đó quá to rồi. Cố gắng làm bằng khoảng thế này thôi này.” Cô bé chìa ra một quả cầu với kích cỡ chuẩn mình vừa làm, rồi múc thêm một ít tuyết bằng cái giỏ mới (một món quà của chú Milligan và giống hệt cái giỏ cũ của Kate).
“Kate! Reynie! Sẵn sàng cho thất bại đáng hổ thẹn chưa đấy?” Constance hét lên từ phía kia của khoảng sân.
“Thất bại á? Bọn tớ không biết từ ấy đâu nhé!” Kate hét lên, đáp lại Constance, rồi thì thầm với Reynie, “Thật ra, ‘đáng hổ thẹn’ mới là từ mà tớ không biết.”
“Nhục nhã.” Reynie nói.
“Này, không phải là từ nào tớ cũng biết mà, ngài Thông minh.”
“Không, ‘đáng hổ thẹn’ có nghĩa là nhục nhã.”
“Thật thế hả?” Kate nói. Cô bé nhún vai vẻ bất cần. Kate đang hạnh phúc. “Này, cậu có nhớ chiến lược của bọn mình không đấy?”
Reynie nháy mắt. “Sao mà tớ quên được chứ? Cậu chặn họ lại bằng những quả cầu tuyết trong khi tớ chạy ra và thu nhặt tất cả những quả mà bên đó mới ném ra, để cho cái đống “đạn” của bọn mình lâu hết ấy mà.”
“Đúng thế, tớ sẽ chỉnh mấy quả cậu nhặt được về đúng kích cỡ,” Kate nói.
“Thỉnh thoảng tớ tự ném vài quả có được không? Việc đó cũng thú vị mà, cậu biết đấy.”
Kate thở dài. “Tớ không thích mình lãng phí “đạn” đâu, nhưng cũng có thể là cậu sẽ ném trúng cái gì đó đấy. Được rồi, cậu đó quyền ném vài quả.”
“Rất là biết ơn đấy,” Reynie nói.
Vài giây sau đó, tại khoảng sân diễn ra một trận chiến giữa những quả cầu tuyết được quăng đi quăng lại, những đứa trẻ nhốn nháo, và cả những tràng cười không dứt. Nhưng, còn có những nụ cười hạnh phúc hơn từ phía bên trong khung cửa sổ, nơi tất cả những người lớn, có cả cô Perumal, hai vợ chồng nhà Washingtons, đang vừa nhấm nháp rượu táo, vừa quan sát trận chiến hoan hỉ ở bên dưới. Ngài Benedict cười có vẻ khó khăn – từng tràng dài và to, nghe như cả đàn cá heo đang ca hát – đến mức Số Hai phải vội vàng chạy đến giật vội cái cốc rượu táo trước khi ông ấy lăn ra ngủ. Vài phút sau ngài Benedict tỉnh dậy chỉ để tiếp tục cười rồi lại rơi vào một giấc ngủ mới. Cứ như thế, ngài Benedict quanh đi quấn lại với một chu trình của ngủ, tỉnh dậy, cười, rồi lại ngủ cho đến hết cả buổi chiều, cho đến khi cuối cùng cũng có một giấc ngủ ngon lành trong một lúc khá lâu. Tỉnh dậy khi Số Hai nhẹ nhàng lay lay vào vai, ngài Benedict thấy trời đã khá tối.
“Trời nhá nhem tối rồi, và chúng con đã gọi chúng vào hai lần rồi đấy ạ,” Số Hai nói. “Ngài giục chúng vào ngay đi, bữa tối sắp nguội hết cả rồi.”
“Ngay thôi mà,” ngài Benedict nói và âu yếm nhìn Số Hai, rồi quay sang ngắm nhìn những đứa trẻ sắp mệt lử bên dưới cửa sổ kia. “Ăn qua chút gì đó đi, một bát hầm chẳng hạn, ta sẽ không nói với ai đâu, nhưng cho bọn trẻ thêm vài phút nữa nhé. Chúng sẽ lạnh đến mức cảm thấy thức ăn nóng sôi sùng sục mặc dù thực chất chỉ hơi âm ấm thôi. Cho chơi thêm vài phút nữa đi, dù sao chúng cũng vẫn là trẻ con mà.”
Và chắc chắn là như thế rồi
***
Độc giả nhí yêu quý,
Ta mới để ý thấy một điều rằng có một số cháu rất muốn biết họ của ta. Nếu cháu là một trong số đó, và nếu cháu cũng biết về mật mã, vậy thì ta đảm bảo rằng câu trả lời nằm trong tầm tay của cháu thôi.
Thân mến,
Ngài Benedict