Ngày nào rồi cũng phải tàn, ngày cuối cùng đang đến Montaigne[1]
– Tôi thấy rõ là cậu đã làm quen với Cujo[2].
Garrett Goodrich đứng nơi ngưỡng cửa mà quan sát bên chân bị thương của Nathan với niềm hứng thú rất nhà nghề.
– Ông làm gì ở đây vậy, Garrett? Luật sư vừa hỏi vừa khép cuốn nhật kí lại như một đứa trẻ bị bắt gặp đang phạm lỗi.
Mỉm cười ra điều thú vị, Goodrich vặn lại bằng giọng ranh mãnh:
– Cậu không nghĩ chính tôi mới là người nên hỏi cậu câu này sao?
Giận run người, Nathan bỗng chốc bùng nổ:
– Tại sao ông không nhắc để tôi nhớ? Sao lại giấu nhẹm chuyện ông đã chữa bệnh cho tôi cách đây ba chục năm?
Bác sĩ nhún vai.
– Tôi không nghĩ cậu lại quên người đã cứu mạng cậu. Nói cho đúng ra, thậm chí tôi đã hơi phật ý…
– Vậy thì xéo đi!
– Được thôi, trong lúc chờ đợi, tôi lại muốn khử trùng cho vết thương của cậu.
– Tôi không cần đến ông. Nathan vặc lại và tiến ra phía cầu thang.
– Cậu nhầm rồi: một vết chó cắn luôn mang theo vi trùng.
Đã xuống đến những bậc cuối cùng, luật sư quay lại.
– Dẫu sao thì tôi cũng chẳng còn giữ lại vi trùng đó trong người được lâu nữa đâu, vậy nên…
– Đó không phải là cái cớ để làm rối tung mọi việc, Goodrich gào lên với anh.
Một ngọn lửa cháy đượm nổ lép bép trong lò sưởi.
Bên ngoài, người ta nghe thấy tiếng gió rít gào khiến các ô cửa kính rung bần bật. Phía trước nhà, tuyết quay cuồng mang vũ điệu lốc xoáy. Đây thực sự là một đêm giông bão, một đêm vừa huy hoàng vừa ghê rợn.
Ngồi trên ghế bành, Nathan gác chân lên một cái ghế đẩu, tay cầm cốc rượu grog[3] bốc hơi nghi ngút. Trông anh rõ ràng là đã dịu lại và bớt đi vẻ thù địch.
Goodrich đã đeo kính để rửa vết thương của anh với nước và xà phòng.
-Áiiiii!
– Hừm… rất tiếc.
– Chính số phận đã cử con cẩu chết tiệt của ông tới để tôi chết nhanh hơn chứ gì? Nathan mỉa mai.
– Đừng nói vậy, bác sĩ vừa trả lời vừa giữ sạch miếng gạc, người ta hiếm khi chết chỉ vì một vết chó cắn.
– Thế còn bệnh dại và uốn ván?
– Tôi sẵn sàng trình cho cậu xem sổ tiêm vắc xin phòng dại của nó, nhưng cậu sẽ khỏe thôi, dĩ nhiên là thế, sau một mũi tiêm nhắc phòng uốn ván.
Ông ta rửa vết thương với thuốc sát trùng.
– Ái!
– Hơi tí đã kêu đau! Mà đúng đấy, tôi công nhận rằng vết thương khá sâu. Phạm vào gân của cậu rồi. Tôi nghĩ mai phải đưa cậu đi viện thôi.
Nathan nhấp một ngụm rượu và để cái nhìn của mình lang thang trong khoảng không vô định trước khi đặt câu hỏi:
– Giải thích tôi nghe nào, Garrett. Làm sao tôi có thể sống sót qua vụ đó?
– Hiện tượng ấy tự nó chẳng có gì đặc biệt: người ta vẫn thường hồi tỉnh những trẻ con bị ngã xuống sông hồ.
– Làm sao lại thế được?
Goodrich hít một hơi dài, như thể lão đang tìm kiếm một câu trả lời đơn giản cho một câu hỏi khó.
– Trong phần lớn các trường hợp những người chết đuối thường chết vì ngại thở: họ hoảng loạn vì cố gắng ngăn không cho phổi mình ngập nước. Vậy là họ không còn ôxy để thở và đành chịu chết ngạt.
– Và trường hợp của tôi cũng đã diễn ra như vậy?
– Chắc chắn cậu đã để nước tràn vào phổi, điều này gây nên hiện tượng nhiệt độ cơ thể sụt giảm đột ngột. Tim cậu liền đập chậm lại đến độ hầu như ngừng đập hoàn toàn.
– Và tất cả những hình ảnh ấy chỉ là một Near Death Experience[4] thôi, phải không?
– Hoàn toàn đúng, nhưng vào đầu thập niên 70 chưa ai nhắc đến NDE. Ngày nay, hiện tượng này đã được biết đến nhiều hơn: hàng nghìn người trên khắp thế giới đã có những trải nghiệm giống cậu. Tất cả các câu chuyện của họ đã được cộng đồng khoa học thu thập và phân tích kỹ lưỡng.
– Và họ đã tìm ra những điểm trùng hợp với câu chuyện của riêng tôi?
– Đúng vậy, nhiều người đã nhắc đến cùng một đường hầm, cùng một luồng sáng dữ dội ấy và cái cảm giác được ngụp lặn trong một tình yêu vô hạn.
– Nhưng tại sao tôi lại không chết?
– Vì cậu chưa tới số, thế thôi.
– Ái!!! Không thể thế được, ông cố ý làm vậy đấy à?
– Xin lỗi, tôi lỡ tay.
– Thế đấy… Cứ coi tôi là một thằng ngốc đi.
Bác sĩ xin lỗi lần nữa rồi tẩm chút thuốc mỡ sát trùng lên tấm gạc dày. Nhưng cơn tò mò của Nathan vẫn chưa thoả và anh vẫn gặng hỏi:
– Người ta không thể diễn giải những ca NDE như bằng chứng về sự sống sau khi chết được sao? – Tất nhiên là không, bác sĩ trả lời giọng dứt khoát. Nếu cậu vẫn còn sống nhăn ra đó thì cậu vẫn chưa thể chết được.
– Vậy thì tôi đã ở đâu kia chưa?
– Đâu đó giữa Sống và Chết. Nhưng chưa sang đến thế giới bên kia. Chúng ta chỉ có thể nói rằng rất có khả năng tồn tại một trạng thái có ý thức bên ngoài sự hoạt động bình thường của não bộ.
– Nhưng không gì chứng minh được rằng trạng thái đó sẽ kéo dài.
– Đúng thế, bác sĩ thừa nhận.
Rồi, giống như những gì đã từng làm trong quá khứ, lão cố thu thập những bí mật của luật sư.
– Nói tôi nghe đi, hình ảnh đó là gì vậy, Nathan?
Nét mặt luật sư chợt sa sầm.
– Chính tôi cũng đâu còn nhớ nữa.
– Thôi nào, đừng giở trò trẻ con ấy nữa. Tôi cần phải biết, cậu không hiểu à?
Nhưng Nathan lại lần nữa quyết định im lặng.
– Đã bảo là tôi không nhớ được gì nữa rồi cơ mà!
Goodrich hiểu sẽ không thể khai thác được gì ở anh. Nói cho cùng, thái độ che giấu của cậu ta cũng là điều dễ hiểu. Cậu ta đã lướt qua cái chết quá gần sau vụ tai nạn, trải nghiệm ấy phi thường đến nỗi bản thân cậu ta có muốn giữ lại cho riêng mình một phần của bí mật này, của sự sống sót kỳ diệu này âu cũng là lẽ thường tình.
Như để phá vỡ bầu không khí im lặng nặng nề bắt đầu hình thành giữa họ, Goodrich xoa xoa bụng và thốt lên với giọng gần như vui vẻ:
– Tốt rồi, cậu thấy sao với một bữa lót dạ?
Ngồi vào bàn trong phòng bếp, hai người đàn ông kết thúc bữa ăn. Garrett tự tiếp cho mình rất nhiều đồ ăn, trong khi Nathan hầu như không động đến miếng nào.
Hai mươi phút trước, một cú chập điện đã khiến căn phòng chìm trong bóng tối. Goodrich đã mò mẫm thứ gì đó trong công tơ điện nhưng rồi lão trở lại, xin lỗi vì đã hết nhẵn dây cầu chì. Lão đi thắp hai cây đèn bão cũ, ánh sáng toả sáng chập chờn trong gian phòng.
Luật sư quay đầu nhìn ra phía cửa sổ. Rõ ràng là thời tiết chưa muốn dịu đi. Gió đổi hướng liên tục và dữ dội, có vẻ như cùng lúc gió thổi đến từ mọi phía. Tuyết rơi dày đặc đến nỗi người ta hầu như không nhìn thấy gì qua cửa kính. Thậm chí, có nghĩ đến chuyện ra ngoài lúc này cũng vô ích.
Nathan lắc đầu và thì thầm như nói với chính mình:
– Những Sứ giả…
Goodrich ngập ngừng. Lão hoàn toàn ý thức được cú sốc tinh thần luật sư đã phải trải qua.
– Cậu không còn nghi ngờ nữa sao? Lão thận trọng hỏi.
– Tôi đã quá đỗi kinh ngạc. Ông nghĩ thế nào? Rằng rôi phải nhảy cẫng lên bởi vì tôi là người tiếp theo trong danh sách sao?
Goodrich không đáp. Cậu ta còn có thể trả lời thế nào nữa đây?
– Tôi còn quá trẻ để chết! Nathan khẳng định, nhưng ngay lập tức nhận thấy lý lẽ mình đưa ra rất vô căn cứ.
– Không ai là quá trẻ để chết cả, Garrett nghiêm khắc bác lại. Chúng ta chết đúng giờ đã định, có vậy thôi.
– Tôi còn chưa sẵn sàng, Garrett ạ.
Bác sĩ thở dài.
– Người ta hiếm khi thấy sẵn sàng lắm, cậu biết mà.
– Tôi cần có thêm thời gian, Nathan kêu lên, vụt đứng dậy rời khỏi bàn.
Bác sĩ tìm cách ngăn anh lại.
– Cậu đi đâu?
– Tôi đang đóng băng lại đây này. Tôi quay lại phòng khách để sưởi cho ấm đây.
Anh vớ lấy chiếc chăn len mỏng đang vắt ngang tràng kỷ, choàng lên người và khập khiễng tiến đến bên lò sưởi, ngồi bết xuống đất.
Hai phút sau đã thấy bác sĩ đến ngồi cạnh.
– Cậu cần được lên dây cót tinh thần một chút, lão vừa nói vừa đưa anh một ly vang trắng. Nathan uống cạn một hơi. Rượu vang có vị sáp ong và quả hạnh nướng.
– Hy vọng ông không tìm cách đầu độc tôi.
– Cậu cứ đùa, đây là loại vang Sauternes[5] có niên hiệu đấy!
Lão nâng chai rượu trên tay, tự rót cho mình một ly rồi đến ngồi bên cạnh luật sư.
Những ngọn lửa bốc ngùn ngụt của lò sưởi rọi căn phòng bằng một thứ ánh sáng đỏ sẫm. Những cái bóng méo mó của hai người đàn ông lay động một cách kì quái trên bốn bức tường.
– Không thương lượng gì được sao? Nathan hỏi với một tia hy vọng mong manh.
– Chớ nên nghĩ đến chuyện đó.
– Ngay cả đối với những người sẽ cư xử tốt hơn sao?
– Nào, đừng có nực cười như thế chứ?
Luật sư châm điếu thuốc và rít một hơi dài.
– Vậy thì hãy kể tôi nghe nào, Garrett. Nói tôi nghe tất cả những gì ông biết về những Sứ giả. Tôi có quyền được biết, tôi nghĩ vậy.
– Tôi đã giải thích với cậu điểm mấu chốt rồi. Tôi có thể biết trước ai sắp chết nhưng tôi không có những quyền năng khác: không thấu hiểu mọi chuyện và cũng chẳng có sức mạnh đặc biệt nào hết.
– Ông không phải là người duy nhất có được khả năng đó, đúng không?
– Chính xác, kinh nghiệm của riêng tôi cho thấy còn có những Sứ giả khác.
– Một dạng phường hội chăng?
– Cậu gọi thế cũng được. Thế giới đầy rẫy những Sứ giả nhưng rất ít người biết về sự tồn tại của họ.
– Tôi còn thấy khó tin nữa là.
– Tôi hiểu cảm giác của cậu.
– Rồi làm thế nào để các vị nhận ra nhau? Ý tôi muốn nói là giữa các Sứ giả với nhau ấy…
– Không có dấu hiệu bên ngoài để nhận biết. Thường là chẳng cần dấu hiệu nào cả. Vài câu qua lại, một ánh nhìn và… cậu biết đấy.
– Các vị không phải là những người bất tử đấy chứ?
Gương mặt của Goodrich lộ vẻ hốt hoảng giả tạo.
– Tất nhiên là không, các Sứ giả cũng sinh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi người. Đừng nhìn tôi như thế. Tôi không phải bậc thánh thần. Tôi chỉ là một con người, hệt như cậu.
Nathan để mặc cho mình bị cuốn theo sự tò mò.
– Nhưng không phải sinh ra ông đã có năng lực này, phải không nào? Thời điểm điều trị cho tôi, năm 1972, ông vẫn chưa có nó.
– Đúng vậy, nhưng cuộc gặp gỡ với cậu đã khơi dậy trong tôi mối quan tâm với những ca NDE và công việc điều trị tạm thời.
– Và chuyện ấy đã bắt đầu như thế nào? Có phải một sáng thức giấc người ta tự nhủ: “Thế là xong, mình là một Sứ giả”?
Garrett vẫn trả lời nước đôi:
– Khi nó xảy ra, cậu sẽ hiểu thôi mà.
– Những ai được biết chuyện này? Ông kết hôn rồi kia mà, Garrett. Người nhà ông có biết không? – Chẳng ai nên biết cả. Không đời nào. Cậu sẽ muốn sống với ai đó có loại khả năng này không?
– Nó thuộc loại vấn đề người ta được phép được chọn lựa sao?
– Có những điều rất khó từ chối. Nếu nói người ta chọn lựa thì…
– Nhưng làm sao để tuyển lựa các Sứ giả. Đó là phần thưởng hay hình phạt?
Gương mặt của Goodrich sa sầm và lão ngập ngừng khá lâu.
– Tôi không thể trả lời cậu được, Nathan ạ.
– Ít ra tôi cũng có thể biết vì sao một vài người nào đó lại có quyền trở thành Sứ giả chứ?
– Nói cho đúng ra, chính tôi cũng không rõ về việc này. Chúng tôi là những người thuộc diện lao động công ích cho xã hội, cậu biết đấy. Chúng tôi không chọn đối tác trong công việc của mình.
– Và… liệu có tồn tại… cái gì đó sau cái chết không?
Goodrich vừa đứng lên để tiếp thêm củi vào lò sưởi. Lão nhìn Nathan chăm chú và thấy ở anh một điều gì đó khiến người đối diện phải cảm động. Trong một vài giây, lão chợt nhớ đến cậu nhóc mình đã điều trị ba mươi năm về trước. Lại một lần nữa, lão muốn cứu giúp anh.
– Giúp tôi đi, Garrett.
– Tôi cũng không biết nhiều hơn cậu về cuộc sống sau cái chết. Chuyện này hoàn toàn là vấn đề niềm tin.
– Tại sao ông không nói cho rõ ra? Hãy nói tôi biết chí ít tôi cũng có lý. Thời gian gấp lắm rồi, phải không nào?
– Đúng vậy, Goodrich công nhận, thời gian gấp lắm rồi.
– Vậy ông khuyên tôi nên làm gì?
Goodrich khoác tay tỏ vẻ bất lực.
– Mọi biểu hiện đều cho thấy cậu vẫn còn yêu vợ say đắm. Hãy làm sao đó để vợ cậu biết được điều ấy.
Nhưng Nathan lắc đầu có ý không đồng tình.
– Tôi nghĩ chưa phải lúc. Tôi nghĩ chúng tôi vẫn còn chưa sẵn sàng.
– Chưa sẵn sàng ư? Nhưng cậu phải nhanh lên, khỉ thật! Như cậu đã từng tự nhủ mình rồi đấy, thời gian chẳng còn mấy nữa đâu.
– Tôi tin thế là hết rồi, Garrett ạ. Cô ấy đã có một người đàn ông khác được một thời gian.
– Tôi không cho rằng đó là một thử thách không thể vượt qua đối với một người như cậu.
– Tôi không phải siêu nhân.
– Đúng thế, bác sĩ thừa nhận với một nụ cười độ lượng. Rồi, nhíu mày như thể đang cố lục tìm trong trí nhớ, lão nói thêm:
– Tôi còn nhớ… điều gì đó.
– Tôi nghe ông nói đây, Nathan nói, vẻ chăm chú.
– Chuyện xảy ra từ thời cậu gặp nạn. Hôm đó là ngày thứ hai hay thứ ba cậu nằm viện thì phải Mallory đến thăm cậu vào buổi chiều. Cậu đang ngủ say và tôi cấm cô ấy không được đánh thức cậu dậy. Thế mà cô bé đã ngồi lại cả tiếng đồng hồ để ngắm cậu ngủ. Trước khi ra về, cô ấy còn hôn cậu nữa.
– Làm thế nào mà ông nhớ cả những chuyện đó?
Lão nhìn thấy mắt anh sáng rỡ trong ánh sáng của cây đèn bão.
– Bởi vì hành động ấy quá mãnh liệt. Ngày nào cô bé cũng đến thăm cậu, lão xúc động nói thêm.
Nathan, ban nãy đã bị mủi lòng bởi lời kể của Garrett, dường như đang trở lại với một thực tế đáng buồn hơn.
– Người ta không xây dựng cuộc đời dựa vào vài kỷ niệm tuổi thơ, ông thừa biết điều ấy còn gì. Huống chi quan hệ giữa tôi và Mallory trước nay vẫn luôn phức tạp.
Goodrich đứng dậy:
– Rất nhiều cặp vợ chồng gặp phải cảnh đó, lão vừa nói vừa khoác thêm áo măng tô.
– Ơ này, ông đi đâu vậy?
– Tôi quay lại New York.
– Giữa đêm hôm khuya khoắt thế này sao? Trời thì đang gió bão như thế?
– Chưa quá khuya, với lại lúc này có lẽ đường còn sáng, chứ đợi đến sáng mai thì chẳng được thế nữa đâu. Vả lại, tôi cũng khuyên cậu nên đi luôn nếu không muốn tắc lại ở đây cả tuần.
Chỉ trong nháy mắt, lão đã ra đến cửa.
– Đừng quên để lại chìa khoá trong hộp thư báo nhé.
Lão quay lại phía luật sư và nói thêm:
– Tôi đã nhốt Cujo vào nhà để xe rồi, vậy nên chớ có lai vãng tới đó.
Còn lại một mình, Nathan lặng ngắm hồi lâu ngọn lửa đang lụi dần trong lò sưởi vừa tự hỏi Goodrich làm sao để có thể đắm chìm trong bầu không khí tang tóc thường nhật mà vẫn giữ được nụ cười.
Tuy vẫn còn ngạc nhiên, anh cũng tự nhủ rằng bản thân mình cũng đang phải đối mặt với tình cảnh đó chứ nói đâu xa. Anh đã luôn đấu tranh. Anh vẫn còn chưa rõ phải tiến hành ra sao, nhưng anh sẽ không bó gối ngồi yên.
Bởi anh bắt đầu cảm thấy gấp gáp.
Gấp gáp trong mọi chuyện.
Vẫn chưa có điện. Nathan cầm một trong hai cây đèn bão, khập khiễng leo thang gác để tìm lại phòng làm việc có lưu trữ các bệnh án.
Căn phòng lạnh lẽo khiến anh nổi da gà.
Nathan đặt cây đèn xuống sàn nhà. Anh có cảm giác vừa lọt vào giữa một nhà xác, bị vây quanh bởi những dự mưu đầy đe doạ của hàng chục thây ma.
Anh lấy cuộn băng ghi âm và cuốn nhật kí Goodrich ghi lại về ca bệnh của mình bỏ vào trong túi.
Trước khi rời khỏi phòng, anh không ngần ngại lục tung những thứ còn sót lại trên các giá mà không rõ mình đang tìm cái gì. Anh nhận thấy ngoài những hồ sơ bệnh án được sắp xếp theo trình tự thời gian, còn có một số lượng lớn các thùng các tông dành riêng cho một số bệnh nhân. Hai trong số chúng có nhãn ghi:
Emily Goodrich (1947 – 1976)
Anh mở cái hộp đầu tiên ra và vớ lấy tập hồ sơ xếp ngay trên cùng.
Đó là hồ sơ bệnh án của người vợ đầu tiên của Garrett.
Anh ngồi xếp bằng trên sàn để đọc lướt qua.
Hồ sơ tư liệu mô tả chi tiết về căn bệnh Hodgkin mà Emily mắc phải, một dạng tăng sinh ác tính của hệ miễn dịch.
Những tài liệu khác tóm lược cuộc chiến đấu mà người phụ nữ này đã theo đuổi để chống lại căn bệnh, từ khi được phát hiện vào năm 1974 đến khi chết vào hai năm sau đó; những phân tích y khoa, những kết quả hội chẩn trong các bệnh viện khác nhau, những đợt hoá trị…
Mở đến hộp bìa thứ hai, anh đặt tay lên một cuốn tập dày.
Anh rọi đèn lại gần. Đó là một cuốn sổ bọc bìa da thú. Một cuốn nhật kí cá nhân dưới dạng biên niên về hai năm cuối đời của vợ Garrett phủ kín bằng nét chữ tròn trịa của bà ta.
Anh sắp sửa thâm nhập khu vườn bí mật của Emily Goodrich. Anh có quyền xâm phạm nó không nhỉ? Không gì tệ hơn ý muốn xâm phạm vào chốn riêng tư của người khác, anh tự nhủ như vậy. Lục lọi đống hồ sơ lưu trữ của Goodrich là một chuyện nhưng đọc trộm cuốn nhật kí của người phụ nữ này lại là một chuyện khác. Anh gấp cuốn sổ lại.
Tuy thế, khao khát được tỏ tường sự việc giày vò anh. Đó không phải là một thói tò mò bệnh hoạn, nhưng Emily đã viết về những ngày cuối cùng của đời mình và bà cũng từng rơi vào tình cảnh tương tự như anh bây giờ. Có lẽ anh sẽ học hỏi được ở bà đôi điều chăng?
Cuối cùng, anh lại mở cuốn sổ ra và lướt qua nội dung.
Qua từng trang giấy, anh được xem những bức ảnh, những hình vẽ, những bài báo, những nhành hoa ép khô…
Không có gì là bi thương ủ dột trong đó. Nói đúng hơn, đây là một cuốn nhật kí chất chứa tâm hồn nghệ sĩ vô cùng nhạy cảm. Anh đọc chăm chú một vài ghi chép chủ yếu xung quanh một ý nghĩ duy nhất: ý thức về cái chết đang đến gần xui khiến con người ta phải sống khác, tận hưởng trọn vẹn những giây phút thư giãn quý giá còn lại, sẵn sàng chấp nhận trả giá đắt để sống thêm chút nữa.
Ngay dưới một tấm ảnh bà đang chạy bộ thể dục, vợ Goodrich đã ghi lời bình: “Mình chạy nhanh đến nỗi Thần Chết không bao giờ có thể bắt kịp.”
Trên một trang khác, bà đã dán một món tóc bằng băng dính trong, ngay thời điểm bắt đầu đợt hoá trị.
Có cả những câu hỏi. Đặc biệt có một câu lặp đi lặp lại ở nhiều trang: “Có chốn nào là nơi rồi tất cả chúng ta sẽ đến?”
Cuốn nhật kí khép lại bằng ghi chép về một chuyến du lịch đến miền Nam nước Pháp. Emily đã giữ lại hoá đơn khách sạn và một tấm bưu thiếp chụp cảnh rừng thông, núi đá và mặt trời. Tấm bưu thiếp đề tháng Sáu 1976, chỉ vài tháng trước khi bà qua đời.
Phía dưới bên phải, bà còn dán kèm hai chiếc phong bì nhỏ: chiếc đầu tiên chứa cát vàng bên trong, chiếc thứ hai đựng những thứ cây thân mềm ép khô.
Anh ghé mũi sát vào chiếc phong bì và thoáng ngửi thấy mùi hoa oải hưong, nhưng cũng có thể chỉ là mùi tưởng tượng mà thôi.
Trang cuối cùng có một bức thư được gài lại. Nathan lập tức nhận ra nét chữ của Goodrich. Lão ta đã viết bức thư, có vẻ như để gửi cho người vợ nhưng lá thư đề ngày viết… năm 1977. Một năm sau cái chết của bà ta!
Hãy giải thích cho anh hiểu, Emily.
Chúng ta đã làm thế nào để sống qua một tháng hạnh phúc ở mũi Antibes khi mà em đã biết mình sắp chết?
Em đã làm thế nào để tiếp tục xinh đẹp và vui tươi đến vậy? Và anh đã tìm đâu ra lòng can đảm để không gục ngã?
Chúng ta vẫn cùng nhau có được những giây phút thảnh thơi. Chúng ta bơi, câu cá và cùng nhau nướng cá. Chúng ta vẫn đi dạo trên bờ biển, trong không khí mát mẻ buổi chiều tà.
Nhìn em chạy trên bờ cát, mặc trên người chiếc váy hè mỏng manh anh vẫn thầm mong cái chết sẽ buông tha em, mong em sẽ trở thành một người được truyền phép lạ, nữ thánh Emily, mong ca bệnh của em sẽ khiến các bác sĩ trên toàn thế giới phải lúng túng.
Một ngày nọ, khi đang ngồi trước thềm nhà, anh đã tăng âm lượng đến mức cực đại: những Biến tấu Goldberg của Bach mà chúng ta vẫn thường nghe. Anh nhìn thấy em từ xa và anh đã muốn khóc. Nhưng thay vì khóc, anh mỉm cười với em và em bắt đầu khiêu vũ trong ánh nắng. Em vẫy tay ra hiệu cho anh đến với em và em muốn chúng ta cùng bơi.
Ngày hôm đó, miệng em ẩm ướt và mằn mặn vị biển khơi và vừa bao bọc lấy anh bằng những nụ hôn, em vừa cắt nghĩa cho anh nghe lần nữa về bầu trời, mặt biển và cơn run rẩy ấm nồng của những thân thể khô đi dưới mặt trời.
Đã gần một năm rồi em bỏ anh mà đi…
Anh nhớ em biết mấy…
Hôm qua là sinh nhật anh, nhưng anh cứ cảm giác mình không còn tuổi tác gì nữa.
Nathan lật thêm vài trang. Một lần nữa, anh lại giở đúng một trang viết tay của Goodrich.
Đó là những dòng chữ chất chứa đau đớn gợi lại phút hấp hối của Emily.
Giờ đã là tháng Mười. Thế là hết.
Emily không dậy nữa.
Cách đây ba ngày, trong một phút tỉnh táo, nàng đã chơi dương cầm lần cuối cùng. Một bản xô nát của Scarlatti với những cú đổi ngón lặp đi lặp lại của tay phải và những hợp âm rải cho tay trái.
Tốc độ chơi của nàng một lần nữa khiến tôi phải kinh ngạc. Nàng được học bản xô nát này từ hồi bé tí xíu.
Khi tôi bế nàng về giường, nàng bảo:
– Em chơi bản nhạc này để tặng riêng anh đấy.
Giông bão hoành hành từ nhiều ngày qua. Biển đã cuốn phăng nhiều thân gỗ to rồi quăng trả vào bờ.
Emily không dậy nữa.
Tôi đã chuyển giường nàng ra phòng khách, căn phòng đón được nhiều ánh sáng nhất.
Nàng khăng khăng không muốn nhập viện và như thế cũng tốt. Ngày nào bác sĩ cũng đến khám cho nàng. Tôi sợ những đánh giá, những phán đoán chuyên môn của chính mình.
Nàng thở ngày càng khó khăn. Nàng sốt liên miên, người run bần bật, bảo rằng nàng lúc nào cũng thấy lạnh trong khi cơ thể nàng nóng ran.
Máy điều hoà vẫn không đủ, tôi phải nhóm lửa trong lò sưởi.
Không kể đến Emily và bác sĩ, tôi đã không trò chuyện cùng ai từ một tháng nay.
Tôi nhìn bầu trời và đại dương. Tôi uống nhiều quá mức. Thật đáng thương hại. Tôi cứ ngỡ mình không tổn thương như kẻ khác và nay, tôi lại đắm chìm trong men rượu như bất cứ ai. Tôi nghĩ rượu sẽ làm vơi bớt nỗi đau và giúp tôi quên đi địa ngục này. Nhưng sự thật hoàn toàn trái ngược. Rượu kích thích các giác quan và càng khiến tôi đau đớn thêm. Có làm vậy tôi cũng không giúp gì được cho Emily.
Nàng không trò chuyện cùng tôi nữa. Nàng không thể trò chuyện nữa rồi.
Nàng vừa rụng mất hai cái răng.
Thật kinh khủng.
Tôi không ngờ chuyện đó lại xảy ra. Tôi chưa được chuẩn bị tinh thần để đón nhận. Tôi đã chứng kiến nhiều người lìa bỏ cõi đời này. Cái chết là một phần nghề nghiệp của tôi. Nhưng kinh nghiệm ấy không giúp được gì khi tôi phải chứng kiến cảnh tượng này.
Tôi đã khui một chai khác, một chai rượu vang có tiếng mà tôi đã tu ừng ực như một thứ rượu tầm thường dở ẹc.
Hôm nay, trong một phút tỉnh táo minh mẫn, nàng đã yêu cầu tôi tiêm cho nàng một liều moóc phin. Điều tôi lo ngại bấy lâu nay, dẫu nếu biết rằng sớm hay muộn nàng sẽ yêu cầu tôi làm thế.
Tôi nói chuyện với bác sĩ về nguyện vọng của nàng. Ông ấy không phản đối lấy một lời.
Nathan gấp cuốn sổ lại, tâm trạng rối bời vì những gì vừa được đọc.
Anh xuống phòng khách, thổi tắt hai ngọn đèn, đóng cửa lại và bước ra màn đêm.
Có chốn nào là nơi rồi tất cả chúng ta sẽ đến?
[1] Nhà tư tưởng, nhà luân lý người Pháp, sống vào thời Phục Hưng
[2] Nhan đề một cuốn tiểu thuyết của Stephan King kể về hành trình giết chóc của của một con chó giống Saint-Bermard khổng lồ phát bênh dại
[3] Hỗn hợp gồm rượu trắng pha nước nóng, chanh, đường
[4] Trải nghiệm lúc sắp chết
[5] Một nhãn hiệu rượu vang Bordeaux nổi tiếng