Rồi Sau Đó... (Afterwards...)

Chương 14



Những người quá cố chỉ biết duy có một điều: còn sống sẽ tốt hơn.

Lời thoại trong phim Full metal jacket của Stanley Kubrick

Ngày 15 tháng Chạp

Khung cửa kính rộng hình vòng cung để nắng ùa vào phòng khách rộng rãi của căn hộ trên tầng cao.

Những bức tường trắng một màu lân quang tràn ngập ánh sáng, chẳng khác nào đang giữa mùa hè. Trời nóng bức. Hệ thống ròng rọc tự động âm thầm hối hả hạ tấm mành sáo.

Nathan nằm rũ trên tràng kỷ thấp bộc vải tuýt sáng màu.

Anh đặt một chai Corona rỗng lên sàn gỗ màu vàng nhạt. Đó là chai thứ tư anh uống cạn và vì không quen uống, anh cảm thấy hơi buồn nôn.

Từ sáng tới giờ, anh đi tới đi lui trong căn hộ của mình, không mục đích. Candice chết rồi. Đúng là Garrett có cái khả năng khốn khiếp là dự báo cái chết.

Đối với anh, điều này có nghĩa là thời điểm kết thúc chuyến đi đã đến gần. Bây giờ thì anh không còn nghi ngờ chuyện ấy nữa. Goodrich đã dự đoán cái chết của Kevin, Candice và bây giờ đến lượt anh. Đó là một chuyện khó chấp nhận, nhưng anh buộc phải chấp nhận.

Giờ anh phải làm gì khi biết mình sắp chết? Làm sao đối diện với cú sốc này?

Anh đang sống trong một thế giới nơi óc ganh đua thống trị. Một thế giới không có chỗ dành cho kẻ yếu. Cố gắng chứng tỏ mình vượt trội, anh đã hầu như quên mất mình cũng là con người, rồi cũng có ngày phải đối mặt với cái chết.

Khi xưa đã xảy ra sự cố ở Nantucket, nhưng hóa ra anh chẳng rút ra được bài học nào từ chuyện đó.

Anh đứng lên và đến trước khung kính rộng vốn đem lại một quang cảnh công viên huyền ảo. Rượu khiến đầu anh nhức như búa bổ. Những hình ảnh ghê rợn về ly biệt, về tang tóc và đau khổ một lần nữa chen chúc trong tâm trí anh. Anh nghĩ đến Josh. Ruột gan anh đau xé khi nhân viên bảo trọ xã hội đến gỡ thằng bé khỏi tay anh, chỉ vài phút sau vụ nổ súng.

Mồ côi khi chưa đầy năm tuổi, tuổi thơ của thằng bé rồi sẽ ra sao? Nó có thể sẽ bị đẩy từ nhà này sang nhà khác, những gia đình không cho nó đủ tình yêu thương và sự đùm bọc chở che cần thiết.

Nathan cảm thấy kiệt sức. Không, anh không phải người mạnh mẽ. Không ai thực sự mạnh mẽ hết. Tất cả đều do sợi dây số mệnh định đoạt: đời anh cũng như đời Sean.

Mà trước nay anh luôn muốn dự liệu mọi việc!

Anh đã kí những hợp đồng bảo hiểu để tự phòng vệ chống lại những bất trắc thường gặp – trộm cướp, hỏa hoạn, lũ lụt, sét đánh, khủng bố ngay cả khi anh biết rõ điều ấy sẽ khiến Mallory phẫn nộ, nhưng chưa bao giờ anh thử cố gắng chút xíu xiu để sửa soạn cho cái kì hạn khốn khiếp này.

Khi được hỏi, đương nhiên anh vẫn nói mình tin vào Chúa. Anh còn có thể trả lời gì khác đây? Chúng ta đang ở Mỹ kia mà, quỷ tha ma bắt! Một đất nước mà ngay cả Tổng thống khi nhậm chức cũng phải tuyên thệ trên Kinh Thánh!

Thế nhưng, tự đáy lòng anh không bao giờ tin vào sự tồ tại của cái được gọi là thế giới bên kia hay linh hồn siêu thoát.

Anh nhìn ra xung quanh. Cách bài trí trong căn hộ của anh không có gì là phô trương, thậm chí còn có nét tinh tế toát lên từ sự đơn giản và hiện đại. Tất cả chỉ là hình khối, ánh sáng và trong suốt. Anh yêu nơi này. Anh đã dọn đến đây ngay sau khi ly hôn, bởi lẽ Mallory không bao giờ chấp nhận sống trong căn hộ đã từng thuộc về cha mình. Anh thường có được cảm giác an toàn trong không gian này, giữa gỗ và đá cẩm thạch, những chất liệu đến từ tự nhiên có vẻ bền vững theo thời gian.

Anh đã treo những bức vẽ Mallory bằng chì than trên một mặt tường lát gỗ. Những bức phác họa là chứng nhân cho những năm tháng hạnh phúc.

Anh đờ người vì sợ và cùng lúc một cơn giận điên cuồng bùng lên trong anh.

Tại sao lại là anh? Và tại sao lại như vậy?

Anh không muốn chết sớm như thế. Anh còn hàng đống việc phải làm: một cô con gái nhỏ phải dõi theo từng bước trưởng thành và một người vợ phải chinh phục lại.

Còn bao nhiêu người đáng để Thần Chết mang đi trước mình!

Đời mình chưa làm được gì lớn lao nhưng cũng chưa làm gì thực sự xấu.

Nếu các Sứ giả mang tin bất hạnh là có thật trên đời, chẳng phải nên có thêm một sự tuần tự hay một mối liên hệ trong cái chết sao?

Tất nhiên là không rồi! Mỗi giây trôi qua vẫn có trẻ em và những người vô tội chết đấy thôi. Cái chết không ưa những tình cảm tốt đẹp, con người đanh cam chịu và tự nhủ rằng Chúa Trời cho triệu về bên Người những kẻ được Người ân sủng.

Anh không muốn bị triệu đi đâu cả. Anh muốn sống. Ở đây và ngay bây giờ. Giữa những người anh yêu thương.

Làm gì đây?

Bản tính anh không cho phép anh ngồi đợi mọi việc xảy ra.

Đối diện với một tình thế đặc biệt, anh nhất định phải bấu víu vào thứ gì đó, anh phải làm điều ấy thật nhanh khi mà giờ đây thời gian còn lại chẳng đáng là bao.

Anh tiến đến bên giá sách, trên đó có mẫu khuôn đúc thạch cao bàn tay của Bonnie.

Anh đặt tay mình lên tay con và lại một lần nữa nhớ về tuổi thơ của mình.

Quãng thời gian đó đọng lại trong tâm trí anh chẳng khác nào một đám hỗn độn và anh không giữ lại bất cứ món đồ chơi hay tập album ảnh nào nhắc nhớ về nó. Dẫu sao thì anh cũng chẳng mấy khi được chụp ảnh…

Nathan nhìn quanh phòng. Gần cầu thang, một thiên sứ vùng Toscane bằng đất nung đứng gác dưới ánh mắt lạnh lùng của con báo bằng đá Jordan đã mang từ Rajasthan[1] về tặng anh…

Anh trở nên giàu có cũng uổng công, anh biết không gì và không bao giờ có thể chuộc lại cảnh túng thiếu của những năm tháng ấu thơ.

Nathan không trách giận ai cả. Ngược lại, anh thừa biết chính trong những năm tháng cực khổ ấy, anh đã tìm thấy nguồn sức mạng để tự phấn đấu vươn lên.

Bởi sau đó, khi anh vào học đại học, mọi chuyện đã thay đổi. Anh đã biết cách nắm lấy cơ hội. Anh muốn thành công và đã học ngày học đêm, không ngần ngại ở trọn vài ngày trong những phòng đọc mênh mông của thư viện trường đại học, miệt mài với những cuốn giáo trình luật và những nghiên cứu thực chứng.

Anh cũng hăng hái tham gia các hoạt động thể thao. Anh không phải một vận động viên điền kinh tuyệt vời nhưng lại trở thành một trong những người được các cô gái trong đội cổ vũ hâm mộ nhất – tóc xõa tung trong gió, các cô không bỏ lỡ bất cứ dịp nào để cổ vũ anh, một điều không ai ngờ tới.

Kể từ thời đó, người ta không còn nhìn anh như con trai của một người giúp việc sống ở Queens nữa mà như một luật sư giỏi, đầy triển vọng trong tương lai.

Để bù lại, anh đã lưu giữ rất nhiều kỷ niệm về quãng thời gian ấy.

Anh đi ngang phòng, nắm lấy tay vịn của cầu thang sắt uốn và gần như chạy trên các bậc thang bằng dung nham La Mã dẫn lên phòng ngủ và phòng làm việc của anh.

Lên đến nơi, anh vòng ra đằng sau bức vách phối giữa thủy tinh mờ và kim loại của góc thư giãn do tự tay anh sắp đặt. Một dạng phòng khách kiêm thư viện đĩa CD và đĩa than bố trí theo kiểu phòng áp mái.

Trên tường có treo một bộ sưu tập áo thi đấu và mũ lưỡi trai có biểu trưng của đội Yankees. Một trái bóng chày đặt cạnh những huy chương thể thao cóp nhặt được từ thời sinh viên, kế đến là một bức ảnh chụp anh cùng chiếc ôtô đầu tiên trong đời, chiếc Mustang đã chạy được vài trăm nghìn kilomet anh tậu được trong dịp đại hạ giá.

Lần đầu tiên sau một thời gian dài, anh mới có dịp điểm lại bộ sưu tập đĩa than cổ có từ đầu những năm 80. Xét trong lĩnh vực âm nhạc mà nói thì đó quả là thời kì nở rộ của các tài năng: Pink Floyd, Dire Straits, anh em nhà Bee Gees, Madona – trước khi người phụ nữ này trở thành một biểu tượng trong âm nhạc…

Có cả một chiếc đĩa có từ thời trước đó.

Ồ, mình không nhớ cái đĩa này. Chắc là của Mallory.

Anh rút cái đĩa 33 vòng trên giá.

Đó là Imagine, album nhạc tuyệt vời của John Lennon.

Trên bìa đĩa là cái đầu của cựu thành viên ban nhạc The Beatles, với đôi mắt trống rỗng mở ra trông giống một ô cửa sổ trên nền trời bồng bềnh mây. Với cặp kính tròn nhỏ của mình, Lennon nom chẳng khác bóng ma lẩn quất trên trời.

Anh thực sự không còn nhớ về đĩa nhạc này. Dĩ nhiên là anh thuộc bài hát – ca khúc ca ngợi hòa bình trên toàn thế giới mà anh vẫn cho là hơi có phần ủy mị và nhạt nhẽo – thế nhưng chủ nghĩa hòa bình không tưởng của người ca sĩ lại là lý tưởng mà thế hệ trước anh đã dày công theo đuổi. Nathan lật xem phía sau bìa đĩa. Album ra hồi tháng Chín năm 1979. Anh thấy lời đề tặng ghi bằng bút máy:

Tặng Nathan

Cháu đã rất dũng cảm, nhà vô địch ạ.

Đừng sợ gì cả và hãy chăm lo cho bản thân thật tốt nhé!

Nhà vô địch” ư? Anh không nhớ ai đã gọi anh là nhà vô địch.

Lời đề tặng kết thúc bằng một chữ kí loằng ngoằng không nhận nổi.

Anh rút đĩa ra khỏi bao giấy rồi đặt vào máy.

Theo bản năng, anh đặt kim đọc lên đầu đường rãnh thứ ba. Ca khúc có tên Jealous Guy. Những hợp âm dương cầm đầu tiên vang lên, rồi bỗng nhiên, tất cả lại hiện lên trước mắt.

Hồi ấy vào năm 1972.

Vào mùa thu.

Trong một phòng của bệnh viện đảo Nantucket

[1] Một bang nằm ở Tây Ấn Độ


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.