Báo
NEW YORK STAR
Ngày 6 tháng Mười một, 1991
RƠI TÕM !
“Tổng thống Mỹ ở một máy,” Heather nói, “và máy kia là một ông Austin Pierson nào đó gọi từ Cleveland, Ohio. Ông sẽ nói chuyện với ai đầu tiên?”
Townsend bảo Heather cuộc gọi mà ông muốn nhận. Ông căng thẳng nhấc máy và nghe thấy một giọng nói xa lạ.
“Chào ngài Pierson, ngài thật tốt là đã gọi cho tôi,” Townsend nói. Ông chăm chú lắng nghe.
“Vâng, thưa ngài Pierson,” cuối cùng ông nói. “Tất nhiên, tôi hoàn toàn hiểu tình thế của ngài. Tôi dám chắc là tôi sẽ đáp lại đúng như thế, nếu có cơ hội.” Townsend lắng nghe một cách cẩn thận những lý do khiến Pierson đi tới quyết định của mình.
“Tôi hiểu thế tiến thoái lưỡng nan của ngài, và tôi cảm kích về việc ngài đã quá bộ gọi điện riêng cho tôi. Tạm biệt, ngài Pierson.” Ông đặt ống nghe xuống và đưa tay ôm lấy đầu. Đột nhiên ông cảm thấy rất bình tĩnh.
Khi Heather nghe thấy tiếng kêu cô ngừng đánh máy, đứng phắt dậy và chạy bổ về phía văn phòng của Townsend. Cô thấy ông vừa nhảy nhót vừa hét, “Ông ấy đã đồng ý! Ông ấy đã đồng ý!”
“Điều đó có nghĩa là cuối cùng tôi có thể đặt mua một chiếc áo vét dự tiệc tối khác cho ông?” Heather hỏi.
“Nửa tá, nếu cô muốn,” ông vừa nói vừa ôm choàng lấy cô. “Nhưng trước tiên cô phải lấy lại các thẻ tín dụng của tôi đã.” Heather cười phá lên, và cả hai bắt đầu cùng nhảy nhót.
Chẳng ai trong số họ để ý thấy Elizabeth Beresford đang bước vào phòng.
“Tôi cho rằng đây là một loại nghi lễ tôn giáo được tiến hành ở những vùng hẻo lánh hơn của Antipodes?” E.B hỏi. “Hoặc có một cách giải thích đơn giản hơn nhiều, liên quan đến quyết định của một chủ ngân hàng tại một bang miền tây?”
Họ đột ngột dừng lại và nhìn về phía bà ta. “Đây là một nghi lễ thờ thần,” Townsend nói. “Và bà chính là vị thần được thờ.”
E.B. mỉm cười. “Tôi hài lòng được nghe điều ấy,” bà ta bình tĩnh nói. “Thưa cô Heather, có lẽ tôi phải nói riêng vài điều với ông Townsend.”
“Tất nhiên,” Heather nói. Cô xỏ lại giày và đi ra khỏi phòng, nhẹ nhàng khép cánh cửa lại.
Townsend vuốt lại tóc và nhanh chóng trở về ghế. Khi đã ngồi xuống, ông cố tự trấn tĩnh lại.
“Bây giờ tôi muốn ông lắng nghe, và lắng nghe thật cẩn thận,” E.B. bắt đầu “Ông đã gặp may một cách đáng kinh ngac. Nhưng ông có thể đánh mất tất cả chỉ trong chớp mắt.”
“Tôi biết điều đó,” Townsend nói khẽ.
“Tôi muốn ông hứa với tôi là ông sẽ không bao giờ tiến hành một vụ mua bán bất kỳ cái gì mà không hỏi ý kiến ngân hàng – và ngân hàng ở đây có nghĩa là tôi.”
“Tôi xin long trọng thề với cô.”
“Tốt. Vì bây giờ chúng ta có mười năm để chăm sóc Global và biến nó thành một trong những tổ chức ổn định và đáng kính nhất trong lĩnh vực của nó. Đừng quên đó là giai đoạn Năm trong thỏa thuận ban đầu của chúng ta.”
“Tôi sẽ không bao giờ quên,” Townsend nói. “Và tôi sẽ đời đời biết ơn bà, Elizabeth, không chỉ vì bà đã giữ đuợc công ty cho tôi, mà vì bà đã giữ được cả tôi nữa.”
“Tôi rất vui được giúp ông,” E.B. nói, “Nhưng tôi cảm thấy công việc của tôi chưa hoàn thành chừng nào tôi chưa được nghe thấy người ta, nhất là những người hay gièm pha, mô tả công ty ông là một tờ xanh.”
Ông gật đầu trang trọng khi bà cúi xuống, mở cặp và lấy ra tập thẻ tín dụng. Bà đưa chúng cho ông.
“Cảm ơn,” ông nói.
Một nụ cười thoáng hiện trên đôi môi E.B. Bà đứng dậy và chìa tay qua bàn. Townsend nắm lấy nó. “Tôi hy vọng chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau,” ông nói khi tiễn bà ta ra cửa.
“Tôi hy vọng là không,” E.B. nói. “Tôi không nghĩ là tôi muốn bị đặt vào chiếc máy ép đặc biệt ấy một lần nữa.”
Khi họ ra tới phòng Heather, E.B. quay mặt sang phía ông. Trong một khoảnh khắc Townsend lưỡng lự không biết có nên hôn vào má bà không. Ông nghĩ mãi cho tới khi đi đến bàn Heather, khi E.B. bắt tay thư ký của ông cũng với một cách trang trọng như vậy. Bà ta nhìn về phía Townsend, gật đầu và bỏ đi mà không nói thêm câu nào.
“Một số quý bà là như thế,” Townsend vừa nói vừa nhìn vào cánh cửa đã khép.
“Chắc chắn là vậy.” Heather bâng khuâng nói. “Thậm chí bà ấy còn nói với tôi một vài điều về ông.”
Townsend định hỏi những điều ấy là gì thì Heather nói thêm, “Tôi gọi điện lại cho Nhà Trắng nhé?”
“Ừ, gọi thẳng lại đi. Tôi đã hoàn toàn quên khuấy mất. Khi tôi nói chuyện xong với ông ấy, hãy nối máy cho tôi gặp Kate.”
Khi Townsend quay về phòng thì Elizabeth đang đứng ở hành lang, đợi một trong số sáu chiếc thang máy để đi lên tầng thượng. Bà vội về ngân hàng và thu dọn bàn làm việc – suốt tháng qua bà không được nghỉ một ngày cuối tuần nào ở nhà, và bà đã hứa với chồng là sẽ về kịp để xem con gái của họ đóng vai Gwendolen trong vở kịch ở trường học. Khi một chiếc thang máy tới nơi, bà bước vào trong và ấn nút, đúng lúc cánh cửa một chiếc thang máy khác mở ra ở phía đối diện của hành lang. Nhưng cánh cửa đã khép trước khi bà kịp nhìn thấy ai đang nhảy bổ ra và chạy về phía văn phòng của Townsend.
Chiếc thang máy dừng ở tầng 41, có ba người còn trẻ bước vào và tiếp tục câu chuyện ồn ào của họ cứ như thể không có bà ở đó. Khi một người trong số họ nhắc tới tên của Armstrong, bà bắt đầu để ý. Bà không thể tin được những điều họ đang nói. Mỗi lần chiếc thang máy dừng lại và có người mới bước vào, bà lại thu thập được một mẩu thông tin mới.
Tom thở hổn hển lao vào phòng Heather. Tất cả những gì ông nói là “Ông ấy ở đây chứ?”
“Vâng, thưa ngài Spencer. Ông ấy vừa nói chuyện xong với Tổng thống. Sao ông không vào thẳng đó?”
Tom vượt qua phòng và đẩy toang cánh cửa khi Townsend vừa quay xong số điện thoại nhà riêng. “Ông đã nghe tin gì chưa?” Tom hổn hển hỏi.
“Rồi,” Townsend nói và nhìn lên. “Tôi đang gọi cho Kate để báo cho cô ấy biết quyết định của Pierson đồng ý gia hạn cho khoản vay.”
“Tôi đã nghe nói về nó. Nhưng đó không phải là tin mới nhất, nó đã là quá khứ rồi,” Tom vừa nói vừa ngồi phịch xuống chỗ mà E.B mới để lại.
“Anh nói gì vậy?” Townsend hỏi. “Chính tôi cũng mới chỉ được biết điều đó ít phút trước thôi mà.”
Một giọng nói vang lên trong ống nghe “Xin chào, tôi là Kate Townsend.”
“Tôi muốn nói là ông nghe tin gì về Armstrong chưa?”
“Armstrong? Chưa, bây giờ hắn ta đang làm gì?” Townsend hỏi, không để ý gì đến điện thoại.
“Xin chào,” Kate nhắc lại. “Ai đang gọi đấy?”
“Ông ta đã tự tử,” Tom nói.
“Anh đấy à, Keith?” Kate hỏi.
“Hắn đã làm gì?” Townsend vừa nói vừa đặt ống nghe xuống.
“Hình như ông ta đã nhảy xuống biển vài giờ trước, và một số người đánh cá đã vớt được xác ông ta ở bên ngoài bờ biển Sardinia.”
“Armstrong đã chết?” Townsend xoay tròn chiếc ghế và trầm ngâm nhìn qua cửa sổ ra Đại lộ Năm một lát. “Và phải nghĩ là mẹ tôi còn thọ hơn ông ta,” cuối cùng ông nói.
Tom tỏ ra kinh ngạc vì lời phát biểu này.
“Tôi không tin đó là tự sát,” Townsend nói “Tại sao ông nói vậy?” Tom hỏi “Đó không phải là phong cách của hắn. Hắn luôn tin rằng hắn có thể sống lâu hơn bất cứ cái gì.”
“Dù sao đi nữa thì chuyện đã là như vậy, tin tức lọt ra ở London giống như một cái sàng,” Tom nói. “Hình như sự chấm hết dòng tiền bạc của Armstrong bắt đầu từ quỹ trợ cấp của công ty, ông ta không những đã dùng quỹ này để mua cổ phiếu của chính mình, mà còn để trả cho các công đoàn ở New York.”
“Quỹ trợ cấp của công ty?” Townsend nói. “Anh đang nói về cái gì vậy?”
“Hình như Armstrong đã khám phá ra là trong quỹ này có nhiều tiền mặt hơn mức cần thiết theo luật, vì vậy ông ta bắt đầu rút tiền từ đó ra, cho đến lúc viên chủ tịch Hội đồng Quản trị phát hiện ra cái ông ta đã làm và đệ đơn xin từ chức.”
Townsend nhấc máy đàm thoại nội bộ lên và ấn ba số.
“Ông làm gì vậy?” Tom hỏi.
“Suỵt,” Townsend vừa nói vừa đặt tay lên môi. Khi nghe thấy giọng nói ở đầu dây bên kia, ông hỏi “Phòng kế toán đấy phải không?”
“Vâng, thưa ngài,” một người nào đó ngay lập tức đã nhận ra trọng âm Úc. “Tôi là Hank Turner, kế toán trưởng thường trực của công ty.”
“Anh đúng là người mà tôi cần, Hank. Đầu tiên, hãy cho tôi biết có phải Global có một tài khoản quỹ trợ cấp riêng không?”
“Vâng, tất nhiên là có, thưa ngài.”
“Và cho đến thời điểm nàỵ thì chúng ta có bao nhiêu tiền trong tài khoản đó?” Ông hỏi.
Ông giữ máy và đợi câu trả lời. Chiếc thang máy của E.B. đã trở lên đến tầng thứ chín, đúng lúc viên kế toán trưởng thường trực có thể báo cho Townsend. “Vào lúc chín giờ sáng nay, tài khoản này có 723 triệu đô la.”
“Thế theo luật thì chúng ta phải cần bao nhiêu để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quỹ trợ cấp?”
“Hơn 400 triệu một chút,” viên kế toán đáp. “Nhờ chính sách đầu tư khôn ngoan của những người quản lý quỹ, chúng ta có thể giữ được trên mức lạm phát.”
“Vì vậy hiện nay chúng ta có một số dư là hơn 300 triệu đô la trên mức nghĩa vụ phải thực hiện theo pháp luật?”
“Đúng thế, thưa ngài, nhưng theo luật lúc nào chúng ta cũng phải…”
Townsend cúp máy và khi ngẩng lên, thấv viên luật sư đang nhìn ông một cách ngỡ ngàng.
E.B. đã ra khỏi thang máy và bước vào hành lang.
“Tôi hy vọng ông không nghĩ tới điều mà tôi đoán là ông đang nghĩ tới.” Tom nói khi E.B. đã bước vào phòng Heather.
“Tôi cần gặp ngài Townsend ngay,” bà nói.
“Xin đừng nói với tôi là ông Pierson đã thay đổi ý kiến?” Heather nói.
“Không, chẳng có gì xảy ra với Pierson hết. Đây là Richard Armstrong.”
“Armstrong?”
“Người ta tìm thấy xác của ông ấy ngoài biển. Những báo cáo đầu tiên cho rằng ông ấy đã tự tử.”
“Lạy Chúa. Tốt hơn là bà vào ngay đi, bà Beresford. Ông ấy đã tiếp ông Spencer được một lát rồi.”
E.B. đi về phía phòng Townsend. Tom đã để cửa mở khi anh lao vào phòng, vì vậy trước khi tới nơi, E.B. đã nhận biết một cuộc thảo luận gay gắt đang diễn ra. Khi nghe thấy những từ “quỹ trợ cấp” , bà lạnh người đi và lắng nghe một cách ngỡ ngàng cuộc nói chuyện đang diễn ra giữa Townsend và luật sư của ông.
“Không, hãy nghe tôi nào, Tom,” Townsend đang nói. “Ý kiến của tôi vẫn hoàn toàn nằm trong những đòi hỏi của luật pháp.”
“Tôi hy vọng ông sẽ để tôi làm người phán xử trong chuyện này.” Tom nói.
“Hãy giả sử rằng việc mua bán cổ phiếu của Công ty truyền thông Armstrong sẽ bị đình chỉ muộn nhất là trong ngày hôm nay.”
“Đó là giả thiết có lý,” Tom đồng ý.
“Vì vậy ở giai đoạn này sẽ là vô nghĩa nếu tôi cố mua cổ phần của họ. Lúc này tất cả những gì chúng ta biết là Armstrong đã làm cạn kiệt quỹ trợ cấp, vì vậy khi số cổ phiếu được tung ra thị trường, chúng chắc chắn phải có giá thấp.”
“Tôi vẫn không thể nhìn thấy điều đó có lợi gì cho ông,” Tom nói.
“Vì, giống như những người lính thập tự chinh cổ xưa, được trang bị bằng áo giáp của sự chính trực, tôi sẽ lên ngựa và cứu vãn ngày đó.”
“Thế ông định làm nó như thế nào?”
“Đơn giản là bằng cách sát nhập hai công ty.”
“Nhưng họ sẽ không bao giờ đồng ý như vậy. Đầu tiên, những người được uỷ thác quỹ trợ cấp của Citizen sẽ không mạo hiểm…”
“Họ có thể khi họ biết rằng số dư trong quỹ trợ cấp của chúng ta còn vượt xa mức đủ bù đắp cho số mất mát của họ. Cùng một lúc nó sẽ giải quyết thuận tiện cả hai vấn đề. Thứ nhất, chính phủ Anh sẽ không phải điều tra về quỹ dự trữ đặc biệt của nó.”
“Và thứ hai?” Tom nói, vẫn đầy nghi hoặc.
“Những người nghỉ hưu sẽ ngủ ngon khi biết rằng họ sẽ không phải sống nốt quãng đời còn lại trong cảnh nghèo túng.”
“Nhưng Ủy ban Hợp nhất và Độc quyền sẽ không bao giờ đồng ý để ông làm chủ cả hai tờ báo khổ nhỏ lớn nhất Vương quốc Anh,” Tom nói.
“Có lẽ là không,” Townsend nói. “Nhưng họ không thể ngăn tôi tiếp quản toàn bộ các ấn phẩm khu vực của Armstrong – những thứ trước tiên là của tôi.”
“Tôi nghĩ họ sẽ chấp nhận điều đó,” Tom nói, “nhưng các cổ đông sẽ không…”
“Họ sẽ cóc thèm quan tâm đến 46 phần trăm cổ phần của Armstrong trong tờ New York Star.”
“Bây giờ đã hơi muộn để lo về chuyện ấy,” Tom nói. “Ông đã mất hết quyền kiểm soát tờ báo đó.”
“Không, chưa đâu,” Townsend nói. “Chúng ta vẫn đang trong tiến trình làm việc. Và từ giờ cho đến thứ hai tới tôi chưa yêu cầu phải có tài liệu hoàn chỉnh để ký.”
“Nhưng còn tờ New York Tribune thì sao?” Tom hỏi. “Có lẽ Armstrong đã chết, nhưng ông thì đang chuốc lấy mọi rắc rối của ông ta. Cho dù ông ta có khăng khăng xác nhận ngược lại đi nữa, thì tờ báo ấy mỗi tuần vẫn mất một triệu đô la.”
“Nhưng nó sẽ không thế nếu tôi làm điều mà lẽ ra Armstrong phải làm ngay từ đầu, là đóng cửa tờ báo,” Townsend nói. “Đó là cách tôi tạo ra sự độc quyền trong thành phố này mà không một ai có thể phản đối được.”
“Nhưng cho dù ông giải quyết được với chính phủ Anh và Uỷ ban Hợp nhất và Độc quyền, điều gì khiến ông nghĩ là Hội đồng quản trị của Công ty Viễn thông Armstrong sẽ đồng tình với kế hoạch không mấy dễ chịu của ông?”
“Vì không những tôi sẽ làm đầy lại quỹ trợ cấp của họ, mà tôi còn cho phép ban quản lý được giữ lại tờ Citizen. Và chúng ta không hề vi phạm pháp luật, vì số dư trong quỹ trợ cấp của chúng ta lớn hơn mức thâm hụt của họ.”
“Tôi vẫn nghĩ họ sẽ có một thứ quỷ quái gì đó để ngăn cản ông,” Tom nói.
“Không, chừng nào Globe mỗi sáng còn nhắc cho 35 ngàn cựu nhân viên của Citizen biết rằng có một biện pháp đơn giản để giải quyết vấn đề trợ cấp cho họ. Trong nhiều ngày họ sẽ biểu tình bên ngoài Tòa nhà Armstrong, đòi Hội đồng Quản trị phải hợp nhất.
“Nhưng cứ giả sử là Quốc hội sẽ chấp nhận điều này.” Tom nói. “Thế còn những thành viên Đảng Lao động ghét cay ghét đắng ông, thậm chí còn hơn cả Armstrong.”
“Tôi chỉ cần làm sao cho những thành viên này nhận được hàng bao tải thư của các cử tri nhắc nhở họ rằng họ chỉ mới vượt qua cuộc bầu cử có vài tháng, và nếu họ còn mong trúng cử…”
Keith nhìn lên và thấy E.B. đứng trước ngưỡng cửa. Bà ta nhìn ông chằm chằm như lần đầu tiên họ gặp nhau.
“Ông Townsend,” E.B nói. “Mới chưa đầy mười lăm phút trước đây, ông và tôi đã đi tới một thỏa thuận, một thỏa thuận mà ông đã thề thốt rất long trọng. Hay là trí nhớ của ông quá ngắn ngủi?”
Keith hơi đỏ mặt, và sau đó, một nụ cười từ từ hiện ra trên gương mặt ông. “Tôi xin lỗi, E.B.,” ông nói. “Tôi đã nói dối.”.