Báo
THE GLOBE
Ngày 5 tháng Mười một, 1991
TÌM KIẾM MỘT ÔNG VUA MẤT TÍCH
“Chào các ngài,” Armstrong nói lớn bằng giọng hoan hỉ, nhưng ông chỉ nhận được những tiếng rì rầm lạc lõng đáp lại. Ngài Paul Maitland khẽ gật đầu khi Armstrong ngồi xuống chỗ trống bên phải ông ta. Armstrong chậm rãi nhìn quanh. Tất cả mọi chỗ ngồi đều đã kín ngoại trừ chỗ của chủ tịch thường trực.
“Vì tất cả đều đã có mặt trừ ông Wakeham, ông đã chuyển lời cáo lỗi tới thư ký công ty, tôi cho rằng chúng ta nên bắt đầu. Tôi xin hỏi các ngài có đồng ý với biên bản cuộc họp Hội đồng tháng trước đã được ghi đúng sự thật và chính xác không?”
Tất cả mọi người đều gật đầu trừ Armstrong.
“Tốt. Vậy mục đầu tiên trong chương trình nghị sự là mục mà chúng tôi đã tốn nhiều thời gian thảo luận nhất trong cuộc họp về tài chính gần đây.” Paul tiếp tục. “Đó là tình hình hiện tại của quỹ trợ cấp. Vì ông Wakeham đã làm điều tốt nhất là cho chúng tôi biết vắn tắt sự việc xảy ra trong chuyến đi ngắn ngủi của ông ấy tới New York, nhưng tôi e rằng còn nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời. Chúng tôi đi đến kết luận là chỉ có giám đốc điều hành mới là người có thể cho chúng ta biết thực sự điều gì đã diễn ra ở đó. Tôi rất hài lòng thấy ông có thể tham dự cuộc họp này, vì vậy có lẽ tôi nên bắt đầu bằng…”
“Không, có lẽ tôi mới là người nên bắt đầu,” Armstrong ngắt lời, “bằng việc giải thích đầy đủ lý do tại sao tôi không thể tham dự cuộc họp tháng trước.” Paul bĩu môi, khoanh tay lại và nhìn chằm chằm vào chiếc ghế trống phía đầu bàn bên kia.
“Thưa các ngài, tôi ở lại New York,” Armstrong nói tiếp, “vì tôi là người duy nhất mà công đoàn sẵn sàng đàm phán – như tôi chắc ông Wakeham đã xác nhận trong cuộc họp tháng trước. Nhờ thế, không những tôi đạt được cái mà một số nhà bình luận gọi là điều thần kỳ,” Paul liếc nhìn bài xã luận trên tờ New York Tribune tuần trước, quả thực nó đã dùng từ thần kỳ – “mà giờ đây tôi còn có thể xác nhận với Hội đồng những điều tôi đã nhờ ông Wakeham chuyển tới các ngài, đó là cuối cùng Tribune đã lũng đoạn thị trường, và trong tháng qua đã đóng góp khả quan vào tài khoản P và L của chúng ta.” Armstrong ngừng lời trước khi nói thêm. “Và hơn thế, đây là lần đầu tiên nó làm được vậy kể từ khi chúng ta tiếp quản tờ báo.” Nhiều thành viên thậm chí không nhìn về phía ông. Những người khác không có vẻ gì là tán thành. “Có lẽ tôi xứng đáng được nhận vài lời khen ngợi vì những gì đã đạt được,” ông nói tiếp, “hơn là tiếp tục bị những lời bới móc từ một vị chủ tịch mà sáng kiến táo bạo nhất của ông ta là nuôi vịt ở Epsom Downs.”
Paul có vẻ muốn phản đối, nhưng Armstrong xua tay và cao giọng nói. “Hãy cho phép tôi nói nốt.” Vị chủ tịch ngồi phịch xuống, những ngón tay nắm chặt tay vịn ghế, cái nhìn chằm chằm của ông ta vẫn tàn nhẫn chiếu thẳng vào ông.
“Giờ đây, khi mọi người quan tâm đến quỹ trợ cấp.” Armstrong tiếp tục, “thư ký công ty sẽ có cương vị thuận lợi hơn tôi để xác nhận rằng chúng ta đang có một số dư đáng kể trong tài khoản này, một khoản tiền nhỏ trong tài khoản đã được tôi dùng – khá hợp pháp – để đầu tư ở Mỹ. Có lẽ mọi người sẽ thích thú khi biết rằng gần đây tôi đã đàm phán bí mật với Keith Townsend với quan điểm tiếp quản tờ New York Stars.” Hầu hết mọi người có vẻ sửng sốt với thông báo này, và cùng lúc tất cả họ nhìn chăm chú vào ông.
“Mọi người đều biết,” Armstrong nói tiếp, “là Townsend đang sa lầy trong những rắc rối tài chính sau khi ông ta điên rồ mua Multi Media với giá ba tỷ đô la. Hội đồng chắc sẽ nhớ lại rằng chỉ vừa mới năm ngoái tôi đã khuyên là chúng ta không nên đưa ra mức giá quá một tỷ rưỡi cho Tập đoàn đặc biệt này, và thực tế sau đó chứng tỏ đánh giá của tôi là đúng. Giờ đây tôi có thể nắm được lợi thế từ sai lầm chết người của Townsend và khiến ông ta phải bán số cổ phiếu của mình trong tờ Star, đây là điều mà chỉ mới 6 tháng trước không ai có thể nghĩ là nó sẽ xảy ra.”
Giờ đây ông ta thu hút được sự chú ý của tất cả mọi người.
“Hành động phi thường này sẽ làm cho Công ty Viễn thông Armstrong trở thành Tập đoàn báo chí mạnh nhất trên suốt miền duyên hải phía đông nước Mỹ,” Armstrong ngừng lời để gây hiệu quả. “Nó cũng đảm bảo sự đóng góp thậm chí còn lớn hơn vào hiệu quả của chúng ta, hơn là ta hiện đang thu được từ nước Anh.”
Một hai khuôn mặt ngồi quanh bàn sáng rõ lên, nhưng vị chủ tịch không nằm trong số đó. “Và chúng tôi hiểu rằng vụ giao dịch này với Townsend đã được ký kết?” Ông khẽ hỏi.
“Nó đang trong giai đoạn cuối cùng, thưa ngài chủ tịch,” Armstrong đáp. “Nhưng tôi không định để công ty dính đáng vào một vụ kinh doanh quan trọng như vậy mà không được sự phê chuẩn.”
“Tôi hiểu,” ngài Paul vừa nói vừa mở tập hồ sơ trước mặt. “Tuy nhiên, tôi cho rằng bây giờ chúng ta có thể quay lại mục đầu tiên của chương trình, và đặc biệt là về tình trạng hiện tại của quỹ trợ cấp.” Ông xem sổ và nói thêm “Gần đây quỹ này đã bị rút đi tổng số tiền hơn bốn trăm…”
“Và tôi có thể đảm bảo với ông rằng tiền đã được đầu tư tốt,” Armstrong nói, một lần nữa không để vị chủ tịch nói hết câu.
“Vào cái gì?” Ngài Paul hỏi.
“Tôi không có trong tay những chi tiết chính xác,” Armstrong nói. “Nhưng tôi đã yêu cầu các kế toán viên của chúng ta ở New York thảo một bản báo cáo chi tiết và toàn diện để các thành viên của hội đồng có thể đánh giá đầy đủ về thực trạng trước khi diễn ra cuộc họp tới.”
“Thật thú vị,” ngài Paul nói. “Đêm qua tôi vừa nói chuyện với phòng kế toán ở New York, họ chẳng hiểu là tôi đang nói về chuyện gì.”
“Đó là vì chỉ có một nhóm nhỏ những người tin cẩn được chọn để tiến hành công việc đặc biệt này, và họ được lệnh không tiết lộ bất kỳ chi tiết nào, do có sự tế nhị trong một hai vụ giao dịch mà hiện tôi đang tham gia. Vì vậy tôi không thể…”
“Quỷ tha ma bắt,” ngài Paul rít giọng nói. “Tôi là chủ tịch công ty này, và tôi có quyền được thông tin về mọi sự phát triển chính có thể ảnh hưởng đến tương lai của công ty.”
“Không, nếu điều đó gây nguy hiểm cho kết quả một vụ làm ăn lớn của tôi.”
“Tôi không phải là củ khoai,” ngài Paul nói và lần đầu tiên quay mặt về phía Armstrong.
“Tôi không có ý nói thế, thưa ngài chủ tịch, nhưng có những lúc quyết định được tạo ra khi ông đang yên ấm trên giường trong giấc ngủ say.”
“Tôi sẽ khá hạnh phúc được đánh thức dậy,” ngài Paul nói, vẫn nhìn thẳng vào Armstrong, “như tôi đã được ngài Jacques Lacroix ở Geneva đánh thức vào đêm hôm qua, ông ấy gọi điện để báo rằng nếu khoản nợ năm mươi triệu đô la của ngân hàng ông ấy không được hoàn trả vào đêm nay, họ sẽ thấy cần chuyển vấn đề sang cho các luật sư của họ.”
Nhiều viên giám đốc dỏng tai lên nghe.
“Đến đêm nay khoản tiền đó sẽ được đặt đúng chỗ của nó,” Armstrong nói không do dự. “Tôi có thể đảm bảo với ông điều đó.”
“Thế từ lúc này ông định kiếm đâu ra khoản tiền đó?” Ngài Paul hỏi. “Vì tôi đã ra chỉ thị rõ ràng là chừng nào tôi còn là chủ tịch thì không một khoản tiền nào được rút ra khỏi quỹ trợ cấp. Các luật sư của chúng ta đã khuyên tôi là nếu tờ séc 50 triệu đô la được trả tiền mặt, thì tất cả mọi thành viên trong Hội đồng này có khả năng bị liên quan đến một vụ tố tụng hình sự.”
“Đó chỉ đơn giản là một sai sót hành chính của một nhân viên cấp cao trong phòng kế toán,” Armstrong nói, “người đã ngu xuẩn gửi séc nhầm ngân hàng. Anh ta đã bị sa thải trong ngày hôm đó.”
“Nhưng ngài Lacroix cho tôi biết là ông đã phát hành séc riêng, và ông ta có một biên lai đã ký chứng minh điều đó.”
“Chẳng lẽ ông thực sự tin rằng tôi tiêu tốn thời gian ở New York để đi lang thang với những tờ séc gửi tiền?” Armstrong nói, trừng trừng nhìn lại Paul.
“Quỷ sứ, tôi không có ý kiến gì về những việc ông làm khi ông ở New York – mặc dù tôi chắc chắn nói được rằng lời giải thích mà ông Peter Wakeham đưa ra ở cuộc họp tháng trước về số tiền đã bị rút khỏi quỹ trợ cấp kết thúc ở những tài khoản của ngân hàng New Amsterdam và Manhattan là không đáng tin.”
“Ông định ám chỉ điều gì?” Arsmtrong quát.
“Ngài Armstrong, chúng ta đều biết rõ Manhattan là một ngân hàng đại diện cho công đoàn ngành in ở New York, và rằng tháng qua New Amsterdam nhận được lệnh của ông phải mua hơn bảy mươi triệu đô la cổ phiếu của chúng ta – mặc dù ông Mark Tenby, kế toán trưởng đã nói rõ khi cấp cho ông quyển séc của quỹ trợ cấp, rằng việc mua cổ phiếu của một trong những công ty thuộc quyền sở hữu của chúng ta là phạm pháp.”
“Ông ta chẳng nói điều gì như vậy hết,” Armstrong quát to.
“Đó chỉ là một ví dụ khác của cái gọi là “lỗi hành chính đơn giản,” Paul nói, “mà không còn nghi ngờ gì nữa đã được giải quyết bằng việc sa thải kế toán trưởng?”
“Đây hoàn toàn là một điều lố bịch,” Arsmtrong nói. “New Amsterdam có thể mua những cổ phiếu đó cho bất cứ khách hàng nào của nó.”
“Không may là lại không phải như vậy,” Paul vừa nói vừa đưa ra một tài liệu khác. “Trưởng phòng giao dịch, người đã sẵn lòng đáp lại cuộc gọi của tôi, xác nhận rằng ông đã ra lệnh rất rõ ràng,” ông nhìn vào quyển sổ của mình, “để chống đỡ – theo đúng từ của ông – cho giá cổ phiếu, vì ông không thể để nó tụt hơn nữa. Khi anh ta nói cho ông biết những ảnh hưởng của một hành động như vậy, hình như ông đã bảo anh ta” – một lần nữa ngài Paul lại nhìn vào cuốn sổ – “‘Tôi không cần biết là tốn bao nhiêu.”
“Đó là lời lẽ của anh ta chống lại tôi.” Armstrong nói. “Nếu anh ta nhắc lại điều đó, tôi sẽ kiện anh ta về tội vu cáo.” Ông dừng lại, “ở cả hai nước.”
“Đó có lẽ không phải là một hành động khôn ngoan,” ngài Paul nói, “vì mọi cuộc gọi tới phòng này của New Amsterdam đều được ghi âm và ghi sổ và tôi đã yêu cầu gửi cho tôi một bản sao ghi lại cuộc nói chuyện.”
“Ông định kết tội tôi là nói dối phải không?” Armstrong gầm lên.
“Nếu tôi làm thế,” viên chủ tịch hỏi, “ông sẽ kiện tôi vì tội vu cáo chứ?”
Armstrong cứng họng mất một lát.
“Tôi có thể thấy ông không định trả lời thẳng thắn bất kỳ câu hỏi nào của tôi,” ngài Paul nói tiếp. “Do đó tôi chẳng còn cách nào khác là phải từ chức chủ tịch Hội đồng Quản trị.”
“Không, không”, một vài tiếng nói nhao nhao quanh bàn.
Lần đầu tiên Armstrong nhận ra rằng ông đã quá liều lĩnh. Nếu ngài Paul từ chức lúc này, chỉ trong vài ngày toàn thế giới sẽ biết về tình trạng tài chính bấp bênh của công tỵ. “Tôi hy vọng ông sẽ vẫn là chủ tịch cho tới Đại hội toàn thể thường niên vào tháng Tư,” ông nói khẽ. “Như thế ít ra chúng ta có thể xúc tiến bàn việc giao quyền lực theo đúng thủ tục.”
“Tôi e rằng mọi chuyện đã đi quá xa rồi,” ngài Paul nói.
Khi ông ta đứng dậy, Armstrong nhìn lên và nói. “Ông muốn tôi phải cầu xin ông hay sao?”
“Không, thưa ông, tôi không muốn thế. Khả năng ông làm điều đó cũng ngang bằng với khả năng ông nói đúng sự thật.”
Armstrong đột ngột đứng dậy, và hai người đàn ông nhìn nhau trừng trừng, lát sau ngài Paul quay lại và đi khỏi phòng, để lại mớ giấy tờ trên chiếc bàn sau lưng ông.
Armstrong ngồi sang ghế chủ tịch, nhưng chẳng nói gì trong khi cặp mắt ông từ từ lướt khắp bàn. “Nếu có ai muốn đi theo ông ta,” cuối cùng ông nói, “thì đây chính là lúc thích hợp.”
Có tiếng giấy sột soạt, tiếng kéo ghế lạch cạch và một số nhìn chằm chằm xuống tay, nhưng không ai định bỏ đi.
“Tốt,” Armstrong nói. “Giờ đây, chừng nào tất cả chúng ta còn cư xử như những người lớn, người ta sẽ thấy là ngài Paul đã đi tới kết luận một cách hồ đồ mà không hiểu thấu hoàn cảnh thực tế.”
Chẳng có người nào ngồi quanh bàn tỏ ra bị thuyết phục. Eric Chapman, thư ký công ty, nằm trong số những người vẫn ngẩng cao đầu.
“Mục thứ hai.” Armstrong nói kiên quyết. Người phụ trách phát hành dành một số thời gian giải thích tại sao số bán của Citizen giảm đột ngột trong tháng qua, điều này sẽ lập tức ảnh hưởng đến thu nhập từ quảng cáo. “Vì Globe đã cắt giảm 10 xu giá bìa, tôi chỉ có thể khuyên Hội đồng rằng chúng ta cũng nên làm.”
“Nhưng nếu làm thế,” Chapman nói, “chúng ta sẽ mất số lợi tức thậm chí còn lớn hơn.”
“Sự thực…” người phụ trách phát hành cất lời.
“Chúng ta phải giữ can đảm,” Armstrong nói, “và xem ai sẽ nao núng trước.”
Mặc dù một hai giám đốc gật đầu, phần lớn bọn họ đã ở trong Hội đồng Quản trị đủ lâu để nhớ lại cái đã xảy ra trong lần gần đây nhất khi Armstrong vạch ra viễn cảnh đặc biệt
Mất thêm một giờ nữa để thông qua các mục còn lại của chương tình nghị sự, và cứ mỗi phút thì lại càng thấy rõ là chẳng có ai trong số những người ngồi quanh bàn sẵn sàng đối đầu trực tiếp với giám đốc điều hành. Khi Armstrong hỏi lần cuối xem còn có việc gì khác không, không ai trả lời.
“Cảm ơn các ngài,” ông nói rồi đứng dậy, thu dọn đống hồ sơ của ngài Paul và nhanh chóng rời khỏi phòng. Khi đang sải bước theo hành lang đến chỗ thang máy, ông thấy Wakeham hổn hển chạy qua. Armstrong mỉm cười khi Wakeham quay lại và đuổi theo ông. Ông ta đến nơi vừa lúc Armstrong bước vào thang máy. “Nếu anh tới sớm mấy phút, Peter,” ông nói, “tôi đã có thể cho anh làm chủ tịch.” Ông cười rạng rỡ với Wakeham khi cánh cửa thang máy đóng lại.
Ông ấn nút trên cùng và nhanh chóng được đưa lên sân thượng, ở đó ông thấy viên phi công của mình đang đứng tựa vào lan can, khoan khoái hút thuốc. “Heathrow”, ông hét lên, không buồn nghĩ tới việc xin bên kiểm soát hàng không cho phép cất cánh hoặc cho khoảng trống để cất cánh. Viên phi công nhanh chóng dụi tắt điếu thuốc và chạy về chiếc trực thăng đang đậu trên đường băng. Khi họ bay qua thành phố London, Armstrong bắt đầu cân nhắc chuỗi sự kiện sẽ diễn ra trong vài giờ tới, trừ phi 50 triệu đô la, nhờ một phép màu nào đó, biến thành sự thật.
Mười lăm phút sau, chiếc trực thăng đỗ xuống đường băng riêng. Ông xuống đất và chậm rãi tiến về chiếc máy bay phản lực riêng. Một viên phi công khác đang đợi sẵn để nhận lệnh của ông, chào đón ông ở bậc trên cùng.
“Nice,” Armstrong nói khi còn chưa bước vào trong cabin. Viên phi công nhào vào khoang lái, đoán là ông sẽ tới chỗ chiếc du thuyền của mình trong ngày nghỉ.
Chịếc Gulfstream cất cánh bay về phía nam. Trong chuyến bay dài hai giờ Armstrong chỉ gọi một cuộc điện thoại duy nhất, cho Jacques Lacroix ở Geneva. Nhưng dù ông có cầu khẩn thế nào đi nữa, câu trả lời vẫn không thay đổi: “Ngài Armstrong, trong ngày hôm nay ngài phải hoàn trả 50 triệu đô la, nếu không tôi sẽ chẳng còn cách nào khác là phải chuyển vấn đề sang phòng pháp luật của chúng tôi.”