BESS VÀ GEORGE NGÂY RA nhìn tôi giây lát. “Hả?” cuối cùng George nói.
Tôi mỉm cười trước vẻ ngơ ngẩn của hai đứa bạn. “Thật sự khá là đơn giản, một khi tao nhận ra được rằng bọn mình đã phí thời gian lo tìm động cơ phạm tội, mà lẽ ra cần nghĩ đến một điều khác cơ,” tôi nói. “Là cơ hội.”
“Ý bà là sao?” Bess bối rối. “Không phải tất cả bọn họ đều có cơ hội sao? Chẳng phải tất cả đều ở trong nhà trước khi vụ trộm xảy ra đấy còn gì?”
“Đúng,” tôi nói. “Đi thôi. Tôi sẽ giải thích trên đường đến nhà Simone. Tôi muốn đến đó xác minh lại vài thứ.”
Bess có vẻ nghi ngờ. “Bà Hannah chịu để bà đi sao?”
Tôi nhún vai. “Chỉ có một cách để biết thôi.”
Thật kỳ diệu, bọn tôi đã thuyết phục được bà Hannah. Bà biết rõ là trong lúc đang lần theo manh mối, tôi sẽ không thể nghĩ tới điều gì khác cho tới khi tìm ra được nó. Thế nên nghe tôi giải thích lý do vì sao muốn đến nhà Simone, bà chỉ thở dài và đưa tôi ra cửa.
“Cố đừng để cộc đầu vào bất cứ thứ gì trên đường đi, được chứ?” bà nói với theo khi tôi ra khỏi cửa trước cùng các bạn.
“Xin hứa ạ!” tôi ngoái đầu lại trả lời.
Thèo và René có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy bọn tôi quay lại sớm như vậy. Simone đã đi mua sắm về, và đã được nghe kể chuyện của Jacques. Pierre và Jacques vẫn còn trong bệnh viện, dù có gọi điện về báo là Jacques sắp được cho xuất viện và họ sẽ sớm về tới nhà.
Sau khi trao đổi vài câu về tình hình của Jacques, thấy chẳng có gì phải lo nữa, tôi đề nghị Simone và hai anh chàng Pháp còn lại vào phòng khách. “Em nghĩ em đã biết chuyện gì xảy ra với quả trứng Fabergé của chị rồi,” tôi nói với Simone.
Chị há hốc miệng, mắt sáng lên như sao. “Thật hả?” chị kêu lên. “Thế nào hả, Nancy? Cho chị biết đi, nó ở đâu?”
“Chị sẽ được biết ngay thôi,” tôi hứa. “Nhưng trước tiên, em muốn hỏi mọi người vài câu đã.”
Tôi bắt đầu bằng cách giải thích là tôi, Bess và George có lúc đã nghi ngờ Jacques như thế nào. “Nhưng em biết Jacques không thể nào là thủ phạm được, ít nhất là theo những gì mà các bạn ở đây đã cho biết về cái ngày vụ trộm xảy ra,” tôi nói. “Vì theo như chúng ta biết, cậu ấy chưa bao giờ chỉ có một mình trong nhà trước khi quả trứng biến mất.” Tôi quay sang René và Thèo. “Các bạn nói là vừa tới nơi thì gần như ngay lập tức đã ra ngoài đi thăm thú. Các bạn chỉ làm duy nhất một điều trước đó là đem cất hành lý, phải không? Và ba người đi chung với nhau?”
Thèo gật đầu. “Phải,” cậu xác nhận, trông hơi bối rối.
“Và Pierre có lên cùng các bạn không?” tôi tiếp tục.
“Không,” René xen vào. “Pierre chỉ cho chúng tôi lối lên cầu thang, và ba đứa tự lên tìm phòng dành cho khách trong khi Pierre ở dưới để ghi vài dòng nhắn với Simone là cả bọn sẽ ra ngoài một chút.”
Tôi gật đầu, không hề ngạc nhiên. “Điều đó có nghĩa: người duy nhất ở một mình dưới nhà giữa lúc Simone ra ngoài và trước khi các bạn quay về, phát hiện quả trứng đã bị mất chính là…”
“Pierre!” Simone kết lời thay cho tôi với gương mặt trắng bệch, miệng há hốc.
“Nhưng chúng tôi chỉ ở trên nhà có một lát thôi mà,” René kêu lên. “Chỉ vừa đủ thời gian để cất hành lý và vào phòng vệ sinh một chút thôi.”
Tôi nhún vai. “Thì cũng đâu cần nhiều thời gian,” tôi lý giải. “Tôi tin chắc Pierre biết chính xác chìa khóa khung thủy tinh cất chỗ nào, chị Simone có buồn giấu nó đi đâu chứ. Tất cả những gì cậu ta cần làm là mở khung ra, lấy quả trứng, giấu nó đâu đó để lấy sau, và xóa dấu vân tay.”
Simone đứng bật dậy, vẻ mặt băn khoăn và cau có. “Em đang nói là Pierre lấy quả trứng?” chị thốt lên. “Nhưng vì sao lại thế?”
Tôi do dự. “À, về điều này thì em không hoàn toàn chắc chắn,” tôi nói. “Nhưng em có một giả thuyết.”
Simone không đợi nghe tôi nói hết câu đã chạy vội khỏi phòng. Cả bọn có thể nghe tiếng bước chân chị chạy nhanh lên cầu thang, rồi hành lang trên lầu. Một lát sau chị quay lại.
George há hốc miệng, chỉ vào vật Simone đang cầm trong tay. “Quả trứng!” nó kêu lên.
“Chị tìm thấy trong túi của Pierre.” Simone giơ lên món vật báu gia truyền nằm trong bàn tay run rẩy của mình. “Chị vẫn không thể tin được…”
Ngay lúc đó có tiếng cửa trước mở. Một lát sau Jacques bước vào, trên cánh tay có vài miếng băng dán và một vết trầy lớn trước trán. Nhưng ngoài ra thì trông cậu hoàn toàn khỏe mạnh.
“Chào mọi người,” cậu nói. “Pierre đang đậu xe. Bệnh viện nói là tôi chẳng chết được đâu, cho nên họ gửi…” Jacques im bặt khi thình lình để thấy quả trứng Fabergé trong tay chị Simone. “Ui… ơ,” cậu nói. “Cô tìm thấy nó ở đâu thế?”
“Tôi nghĩ bạn biết mà,” tôi nở nụ cười cảm thông. “Bạn biết Pierre lấy nó, đúng không?”
Jacques trông như thể muốn bệnh đến nơi. “Sao bạn biết?” cậu tiến một bước về phía tôi. “Mình nghĩ là Pierre đã lấy; mình biết rõ Pierre nên đã để ý thấy cậu ta cư xử không được bình thường lắm. Nhưng mình không tìm được bằng chứng, mình không có cơ hội kiểm tra phòng Pierre – lúc nào cậu ta cũng kè kè bên cạnh mình.” Cậu nhún vai. “Sau đêm đó, mình thậm chí không dám chắc Pierre còn giữ quả trứng nữa không. Thế rồi mình kiểm tra tất cả các tiệm đồ cổ tại địa phương nhưng không thấy dấu hiệu gì.”
“A ha!” George la lên. “Vậy nên bạn mới đến mấy tiệm đồ cổ đó vào cái ngày bọn tôi theo dõi bạn hả.”
Bess thúc cùi chỏ vào cô chị họ. “Ngày bọn mình tình cờ gặp được cậu ấy trong khi đang đi mua sắm chứ.”
Một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt ủ rũ của Jacques. “Không sao,” cậu nói với hai chị em họ. “Tôi biết lúc đó các bạn đang theo dõi tôi mà. Tôi chỉ hy vọng lý do đúng như mademoiselle Bess nói, rằng các quý cô người Mỹ đáng yêu đây đã si mê tôi điên cuồng.”
Bess trông lúng túng. “Xin lỗi bạn nhé,” nó nói. “Lúc đó bọn tôi đang cố giúp Nancy.”
Lần này thì Jacques thật sự cười khùng khục. Rồi vẻ mặt cậu nghiêm nghị trở lại khi liếc nhìn Simone. “Bất luận thế nào,” cậu nói, “cháu cũng nhanh chóng nhận ra một vật có giá trị lớn như vậy tuyệt đối không thể bán ở một thị trấn nhỏ như River Heights được. Từ đó suy ra, nếu quả thật Pierre đã lấy quả trứng thì nó vẫn còn trong nhà. Cho nên hôm nay cháu mới xung phong trèo lên thang, vì nghĩ rằng rốt cuộc cũng có cơ hội tìm kiếm trong phòng cậu ta.”
“Khi bạn trèo lên cái thang rồi thì Pierre cũng đã nhận ra ý định đó,” tôi nói, do dự một chút vì không biết phải nói tiếp thế nào, tôi khá chắc rằng việc Jacques ngã không phải là tai nạn. Chắc chắn Pierre đã kéo cái thang.
Nét mặt Simone cho thấy chị cũng đã suy ra rồi, nên tôi chẳng cần phải nói thêm nữa. Tôi thấy khó chịu giùm cho chị. Chị đã tìm lại được vật gia truyền, nhưng thật kinh khủng khi biết chính cháu ruột của mình là thủ phạm.
Tôi mở miệng muốn nói điều gì đó an ủi, nhưng ngay lúc ấy Pierre bước vào phòng, thấy tất cả chúng tôi tụ họp ở đó, cậu ta lúng túng. Rồi đến khi thấy quả trứng thì mặt cậu ta lập tức biến sắc.
“Ngon ngon,” tôi nói, nhìn xuống đĩa của mình. “Còn miếng bánh bí nào giống thế này nữa không chị?”
“Có ngay, có ngay đây,” Simone mỉm cười, với tay lấy cái đĩa đựng rau củ xắt lát ở trên bàn picnic gần đó.
“Cảm ơn chị.” Tôi liếc nhìn quanh mảnh sân sau nhỏ bé. Sau khi Pierre rời đi vài ngày trước, Simone đã nhờ một công ty làm vườn đến nhổ sạch cỏ dại, và sửa sang lại khu vườn. Bây giờ trông nó thật tuyệt. Khoảnh rau củ đang đâm hoa kết trái, một vườn hồng bị cỏ dại che khuất đã khoe sắc trở lại, và trên bãi cỏ không những kê được bếp nướng và cái bàn picnic, mà còn kê được nhiều ghế tựa cùng các băng ghế dài nữa. Lúc này, bạn bè và hàng xóm mới của Simone đều đã ngồi đông đủ trên các băng ghế đó. Tôi thấy Ned và bà Hannah đang ngồi với vài người hàng xóm, đĩa đồ ăn để trên đùi. Ở chỗ bức tường nhìn ra sông, bố tôi đang tán gẫu với chị Zucker trong khi nhóc Owen chơi với một quả bóng ở gần đó. Ông Geffington và chú Safer đang đứng với nhau gần mấy dây bí trong vườn.
George và Bess bước rảo tới gần bếp nướng. “Một bữa tiệc ngoài trời quá tuyệt vời, chị Simone ạ,” George nói. “Nếu chị cứ tổ chức tiệc tùng kiểu này, với đồ ăn ngon như thế này, chị sẽ là người nổi tiếng nhất vùng đó!”
“Cảm ơn em, George.” Simone mỉm cười. “Dĩ nhiên, bữa tiệc này chủ yếu là để cảm ơn em, Bess và Nancy đã giúp chị trong sự cố nho nhỏ hồi tuần trước.” Chị liếc nhìn tôi. “Chị rất biết ơn em đã làm mọi thứ để tìm lại quả trứng. Và giúp đỡ chị sau đó nữa.”
“Em rất vui khi giúp được chị mà,” tôi nói. Tôi biết Simone vẫn thấy không vui về chuyện Pierre. Khi Pierre thú nhận việc ăn cắp quả trứng, Simone đã gọi điện cho gia đình bên Pháp. Chỉ hai tiếng đồng hồ sau đó, Pierre đã lên máy bay trở về nhà – với một ông bố đang cực kỳ giận dữ. Simone quyết định không kiện cáo gì hết, và cam đoan với bọn tôi là anh của chị, tức bố của Pierre, chắc chắn sẽ cho cậu con trai một trận nên thân khi về đến nhà.
“Em vẫn không tin được Pierre lại nghĩ quả trứng đó là đồ giả,” George vừa bình phẩm vừa với tay gắp một miếng nấm nướng.
Bess gật đầu. “Bây giờ chị nhắc em mới nhớ, em cũng chẳng hiểu chi tiết đó,” nó thừa nhận. “Tại sao Pierre lại muốn trộm một quả trứng Fabergé giả để làm gì?”
Simone thở dài, lật mấy miếng thịt và rau củ đang nướng. “Chị nghĩ rốt cuộc chị đã hiểu tại sao rồi,” chị nói. “Các em biết không, bố của Pierre, André, là anh trai của chị, nhưng lớn hơn chị khá nhiều. Chị là đứa con nhỏ bé trong gia đình, bố chị đã quá cưng chiều chị, chị e là vậy. Điều đó thường làm anh trai chị bực mình – không cần biết có lý do gì. Anh ấy khá nóng tính, giống bố chị.”
Tôi gật đầu, giải thích thêm với Bess. “Có lần chị Simone nói với tôi trên điện thoại điều gì đó về chuyện bố với anh trai chị ấy không hợp nhau lắm. Tôi đã định hỏi chuyện này, nhưng rồi lại quên mất.”
George giả vờ ngạc nhiên. “Nancy Drew mà lại quên lần theo manh mối ấy hả?” nó kêu lên châm chọc.
Tôi thè lưỡi trêu lại nó, rồi tiếp tục, “Dù sao thì em để ý thấy chính bản thân Pierre cũng hơi hấp tấp và nóng nảy. Còn nhớ lúc cậu ta nổi cáu với em ở buổi tiệc – khi cho rằng em đang buộc tội các bạn của cậu ta không?”
George gật đầu và liếm ngón tay. “Có tật giật mình ấy mà.”
“Có lẽ, phần nào là thế,” tôi nói. “Nhưng việc đó cũng cho thấy Pierre không phải lúc nào cũng nghĩ kỹ trước khi phản ứng. Đối với chuyện quả trứng cũng vậy. Cậu ta nghe nói Simone sẽ cho thẩm định quả trứng vào thứ hai, thế là tranh thủ ngay cơ hội đầu tiên để chộp lấy nó.”
“Hiểu rồi,” Bess nói. “Điều đó khớp với những gì Simone nói với bọn mình sau khi Pierre thú nhận, phải không?”
“Đúng vậy,” tôi nói. Simone đã giải thích với bọn tôi là anh trai chị luôn mong đợi được thừa hưởng những đồ vật có giá trị trong gia đình, bao gồm cả quả trứng.
Simone thở dài. “Tất cả có vẻ thật điên rồ,” chị nói. “Bố chị mất cách đây mười năm, để lại quả trứng cho chị, đứa con bé bỏng của ông. Mẹ chị biết André muốn có quả trứng đó, dù anh ấy quá kiêu hãnh nên không nói ra. Thế nên bà đã làm một cái giả cho anh ấy để cả hai anh em đều có quả trứng.” Chị cười buồn bã. “Chị nghĩ André tội nghiệp cảm thấy rất khổ sở vì đã tranh cãi với bố quá nhiều khi ông còn sống. Khi bố mất, anh ấy không bao giờ nói thêm với chị một lời nào về việc muốn lấy lại quả trứng thật, thay vào đó anh nâng niu quả trứng giả như một sự nhắc nhớ đến bố; và cũng chưa bao giờ nói với ai nó là giả.”
“Buồn thật!” Bess nói. “Thế là từ đó đến nay Pierre vẫn nghĩ bố mình đang giữ quả trứng thật hả chị?”
Simone gật đầu, lật một miếng hành đang kêu xèo xèo. “Thật ra, André nói với Pierre là anh ấy đã lấy trộm lại quả trứng từ chỗ chị, thế vào đó là một bản sao do anh ấy đặt làm. Chị cũng không hiểu tại sao anh ấy lại bịa ra chuyện đó để làm gì – có lẽ vì lòng kiêu hãnh, chị cho là vậy. Và cũng chính sự kiêu hãnh đó đã khiến Pierre muốn lấy quả trứng. Nó cứ nghĩ sẽ bảo vệ được tên tuổi cho bố mình nếu ngăn được việc đánh giá quả trứng, vì nó sợ chị sẽ biết chuyện một khi người thẩm định cho biết quả trứng này là đồ giả. Nó sẵn sàng gài bẫy bạn thân của mình, thậm chí khiến Jacques phải vào bệnh viện, chỉ để bảo vệ danh dự cho bố mình.” Chị nhún vai. “Có lẽ nó không nhận thấy là chị đã cho thẩm định quả trứng một lần rồi, lúc còn ở Paris. Cũng có thể nó cho rằng lần thẩm định đó đã diễn ra trước khi bố nó tráo quả trứng. Chị cũng không biết nữa. Có lẽ một ngày nào đó chị sẽ hỏi nó chuyện này.”
Tôi trầm ngâm gật đầu. Tôi thường để ý thấy các động cơ phạm tội, hoặc thực hiện các hành vi xấu xa của người ta thường rất đơn giản – hoặc là muốn tiền, hoặc báo thù, hoặc sự tự do, hoặc điều cơ bản nào đó khác. Nhưng trong vụ này, tôi nhận thấy động cơ phức tạp hơn. Không thể nào xác định được Pierre là thủ phạm nếu chỉ xét đến động cơ và nếu không tìm ra nhiều thông tin hơn những gì tôi có được vào thời điểm đó. May mà tôi có thể suy luận ra bằng cách xem xét đến cơ hội phạm tội, cùng với một dấu hiệu nhỏ về động cơ có thể.
“Vậy chị cho thẩm định chưa?” George tò mò hỏi Simone.
Simone mỉm cười. “Rồi,” chị nói. “Và quả trứng của chị đúng là đồ thật. À, và chị cũng đã mua một hộp trưng bày có chức năng chống trộm tốt hơn cho nó… chỉ để phòng xa thôi!”
Bess tì người lên bàn picnic. “Vậy tốt rồi,” nó nói. “Chắc Jacques bực Pierre chuyện này lắm chị nhỉ? Ý em là, mới đầu thì Pierre cố gài bẫy Jacques, sau đó còn làm cậu ấy ngã thang nữa.”
“Phải, dĩ nhiên rồi.” Simone buồn rầu. “Thật xấu hổ. Tụi nó là bạn bè suốt bao nhiêu năm qua. Chị hy vọng tụi nó biết xử đâu ra đó.”
Vào lúc ấy, ông Geffington và chú Safer cùng bước về phía bếp nướng, tay cầm mấy cái đĩa giấy trống không. Tôi mỉm cười khi thấy hai người họ tán gẫu với nhau.
Ít nhất cũng có một tình bạn – bất chấp mọi thứ – dường như đã sống sót được qua tuần vừa rồi, tôi nghĩ.
“Chắc phải bỏ thêm bí lên bếp nướng thôi,” tôi nói với Simone khi hai người đó đến. “Bác Geffington có thể sẽ ăn hết tất cả số bí mà chị có đấy, vì vườn của bác ấy sẽ chẳng có quả nào cho tới khi mấy dây bí mới trồng ra trái.”
Bess cười khúc khích. “Ít ra lần này bác ấy cũng không phải lo chúng bị đập phá nữa, vì bà đã khám phá được thủ phạm rồi.”
“Chị vừa nhớ ra,” Simone nói. “Mấy đứa trông bếp giùm chị chút xíu, được không? Chị đang nấu một món trong bếp chắc giờ ăn được rồi.”
Bọn tôi gật đầu. Vài phút sau đó, cả ba đứa bận rộn phục vụ ông Geffington, chú Safer, và nhiều người khác nữa quây quần bên bếp nướng.
Khi tôi đang rải vài miếng cà lên bếp thì cảnh sát trưởng McGinnis tiến đến.
“Chà, chà, cô Drew,” ông chào tôi với một nụ cười không-được-vui-cho-lắm. “Chú mới nói chuyện với bố cháu xong. Ông ấy nói cháu là người đã giải quyết vấn đề nho nhỏ về bí ngòi của chúng ta hả.”
Tôi biết vì sao giọng ông lại đặc biệt không vui như thế. Tôi chẳng những đã phá được vụ quả trứng bị mất cắp, trước khi nhân viên của ông tìm được bất kỳ manh mối nào, mà còn giải quyết xong vụ bí bủng ngay trước mũi ông. Có thể ông McGinnis chẳng hề để tâm đến chuyện đó – giống bố tôi, có lẽ ông cũng chẳng nghĩ vụ này có gì đáng phải ầm ĩ – ngoại trừ việc ông Geffington đã kể về tôi một cách sôi nổi trên tờ báo địa phương mà chẳng hề nhắc gì tới sở cảnh sát cả.
Tôi quyết định đây là lúc thích hợp để tỏ ra mình rất biết điều. Ai biết được khi nào tôi lại cần đến sự giúp đỡ của ông McGinnis trong một vụ khác chứ? Thế nên tôi luôn cố gắng làm cho ông cảm thấy thoải mái hơn. “Dạ, có lẽ cháu đã giải quyết được vụ đó rồi,” tôi vui vẻ thừa nhận. “Nhưng đó giống như ăn may thôi chú à.”
“Chính xác là,” George tốt bụng nói thêm. “Nancy đã tìm ra bằng cách đập đầu xuống đất.”
Cảnh sát trưởng có vẻ hơi bối rối. “Tôi hiểu,” ông nói, dù rõ ràng chẳng hiểu gì cả.
Bess thấy tội nghiệp ông. “Nancy trượt ngã trên mấy bậc cầu thang trước nhà bác Geffington hôm tối thứ bảy,” nó giải thích. “Lúc đó, bọn cháu tưởng là tên trộm trứng đã xô bạn ấy ngã hay sao đó, vì thường ngày bạn ấy đâu có vụng về như vậy. Nhưng vài ngày sau bác Geffington nói kẻ đập phá bí lại ra tay vào đêm thứ bảy, và rằng bác ấy đã phải dọn dẹp bí vụn nhớp nháp ở mấy bậc cầu thang.”
“Thế nên tụi cháu nhận ra là chắc hẳn Nancy đã bị trượt ngã vì những mẩu vụn bí trơn nhớt đó,” George kết thúc.
Cảnh sát trưởng vẫn lúng túng. “Ờ, ờ,” ông nói. “Nhưng, ờ…” Ông vẫn không hiểu tôi đã tìm ra kẻ phá hoại bí như thế nào.
“Sau đó cháu cộng hai với hai lại với nhau,” tôi nói tiếp. “Chú biết không, khi Jacques – bạn chị Simone – bị ngã thang trong lúc nhà bị khóa cửa; thế là cháu phải chạy băng qua bên kia đường nhờ người giúp đỡ. Biết chị Zucker làm việc tại nhà nên cháu chạy thẳng đến đó luôn. Nhóc Owen đang chơi ở lối cho xe chạy, với cây gậy bóng chày trong tay, nó đưa cháu giữ để chạy vào nhà gọi mẹ. Lúc đó cháu đã để ý nhưng phải mãi sau mới nhận ra cây gậy rất nhớp nháp – giống như bác Geffington miêu tả mấy bậc cầu thang nhà bác ấy vậy.”
George rõ ràng là thấy cảnh sát trưởng vẫn chưa sáng tỏ thêm được chút nào. “Và đó là lúc Nancy nhận ra cây gậy bóng chày của Owen là, ờ, vũ khí tàn sát bí. Vậy đó chú.”
Tôi vẫn còn tự hào về việc mình đã suy luận ra, dù tôi ước sao mình phát hiện nó sớm hơn. Dù gì, với tất cả những mớ bòng bong trong vụ quả trứng bị mất, chẳng có gì ngạc nhiên khi vụ bí phải để lùi lại một chút. Ngay khi tôi suy nghĩ kỹ hơn về cây gậy nhớp nháp thì mọi thứ bắt đầu dễ hiểu hơn. Ở nhà bà Mahoney hôm nọ, chị Zucker có nói là nhóc Owen ghét bí. Rồi khi tôi và Ned ngồi ở tiệm Susie Lin, chị Susie cũng nói là Owen và các bạn nó đã xông vào bình phẩm về món bánh bí rán trên thực đơn của chị. Và dĩ nhiên, mọi người đều biết chị Zucker đã đi từ nhà này qua nhà khác trong vùng suốt cả tuần nay để vận động tiền cho Ngày Hội Đe Búa. Trong lúc chị ngồi nói chuyện với chủ nhà bên trong, thì bên ngoài ông nhóc Owen đã phá hủy hết tất cả món rau củ nó ít yêu thích nhất bằng cây gậy bóng chày của mình. Thậm chí chú Safer còn nói đã thấy hai mẹ con họ vào cái đêm vườn nhà ông Geffington bị tấn công.
Đầu tiên tôi lưu ý với chị Zucker về sự nghi ngờ ấy, chị đã theo dõi thằng nhóc con mình cho tới khi bắt gặp nó và khẳng định giả thuyết của tôi là đúng. Rồi chị xin lỗi ông Geffington và những hàng xóm khác bị ảnh hưởng. Ông Geffington xin lỗi chú Safer. Nhóc Owen bị phạt không được xem tivi và không được ăn bánh ngọt trong vòng một tháng. May mắn là vườn bí của chị Simone mọc sum suê đến mức có thể sẽ cung cấp được cho mọi nhà quanh đó.
“Vậy là cuối cùng cũng tốt đẹp hết,” tôi khẽ nói, liếc về phía Owen. Nhóc ta đang lẽo đẽo sau lưng mẹ mình khi chị đi đến cái bàn đựng thức uống. Tôi để ý thấy nãy giờ nó lúc nào cũng lẽo đẽo theo chị Zucker, hẳn là cu cậu đã được căn dặn kỹ lưỡng là không được phép ra khỏi tầm mắt của mẹ.
Bess cười khúc khích. “Thật buồn cười khi biết chuyện xảy ra lại như vậy.”
“Hừm. Phải, chú nghĩ vậy,” nhưng trông cảnh sát trưởng McGinnis chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “À, chú hy vọng thằng nhóc đó đã được một bài học.”
“Cháu cũng nghĩ vậy ạ,” tôi lịch sự nói, cố giấu nụ cười cho tới khi cảnh sát trưởng đi khỏi.
Vài phút sau, khi các bạn và tôi đang trò chuyện cùng chị Zucker thì Simone từ trong nhà đi ra. Chị đang bê một cái đĩa lớn chất một chồng cao ngất những cái bánh nướng.
“Có phải là…” Bess lên tiếng khi Simone đặt cái đĩa xuống bàn picnic.
“Ừ,” Simone nháy mắt ngắt lời trước khi Bess kịp hỏi hết câu. “Chính Susie Lin cho chị công thức làm bánh này đấy.” Chị hắng giọng. “Ăn một cái không nào, Owen?” chị hỏi. “Cô nghĩ là cháu sẽ rất thích đấy.”
Chị Zucker liếc nhìn cái đĩa và cười. Nhưng chị im lặng khi Simone đặt bánh lên một cái đĩa.
“Nè cậu nhóc,” chị nói. “Ăn thử đi, cháu sẽ thích cho mà xem!”
Owen đón cái đĩa và nhìn chằm chằm cái bánh với vẻ đầy nghi ngờ. “Bánh gì thế?” nhóc ta hỏi.
“Bánh khoai tây đấy mà” George nói với nó. “Phải không mọi người?”
Simone gật đầu và mỉm cười, những người còn lại chúng tôi mau lẹ tán thành. Owen liếc nhìn mẹ.
“Được mà, ăn đi con,” chị giục nó. “Con thích khoai tây mà.”
Owen thận trọng cầm cái bánh lên cho vào miệng. Nó cắn một miếng nhỏ, nhai chậm chậm. Rồi cắn một miếng to hơn.
“Ngon ngon,” nó nói qua cái mồm nhồm nhoàm. “Cháu thích khoai tây! Cho cháu một cái nữa nhé?”
Tôi khá chắc Owen không hiểu tại sao tất cả người lớn đều đồng loạt cười to lên như thế. Nhưng khi nó ngấu nghiến thêm nhiều cái bánh bí rán nữa thì tôi cho rằng nó chẳng thèm để ý nữa đâu.