Mười bảy năm sau…
Một đêm trung tuần… mùa thu muộn.
Gió vàng hiu hắt…
Chuyến tàu hỏa Hà Nội – Lào Cai dài dặc cuộn mình quẫy khúc khạc lửa
chạy trên thiết lộ như con quái vật từ đời tiền sử hiện về lồng lộn chồm ngược
miền sơn cước.
Chợt quái vật ré lên một hồi vang thé, dừng trước ga Vĩnh Yên, hai con
mắt quắc đèn pha chiếu xa hàng cây số, đứng thở phì phì, hồng hộc, mở mang
cho hành khách chui vào bụng.
Chuyến tàu đêm nay vào dịp vùng sơn cước có nhiều phiên chợ, lại vào
độ Trung Thu, nên đông hành khách, chen chúc nhau, tay xách nách mang tấp
nập hết sức. Lại có người mang theo cả đầu sư tử giấy, đèn kéo quân, trống.
Mấy phút sau, con quái vật lại rú lên khạc, chuyển bánh.
Bỗng có một chàng trai dân tộc từ đâu lừ đừ đi vào chỗ bán vé. Quần áo
chàm sờn vai đã rách một đường chưa vá, đeo một cái giỏ mây sau lưng đựng
vật dụng lâm sản chi đó, lại cắm cả ống bương như đòn gánh, ống đựng nước,
mật ong chi đó chắc coi biết ngay người trên núi “mới xuống chợ” mà hình
như xuống lần đầu thì phải. Vì chàng này còn vẻ bỡ ngỡ vừa đi vừa nhìn
quanh xem chừng lạ mắt lắm.
Chàng trai còn đội một cái nón bằng mây đan, có điều hơi lạ là tay còn
cầm một cái ô dù cúp, lúc chống, lúc cắp nách, coi ai cũng đoán dân nhà gác
xuống chợ, mua chơi. Chàng trai ngó ra đường sắt, và bước tới cửa hông. Một
nhân viên nhà ga vừa đóng cửa, quay vào thấy hỏi luôn.
– Chú này đi đâu?
Chàng trai đáp bằng tiếng sơn cước:
– Đi tàu hỏa! Phải cái tàu hỏa đi lên mạn ngược?
– Ồ! Muộn rồi! Tàu vừa chuyển bánh! Không nghe “xíp lê” à? Đi đâu trễ
thế, chú mày?
Chàng trai ghé mắt dòm ra vẻ vội:
– Trên rặng Ngân Sơn Tam Đảo vừa xuống. Định đi Yên Bái. Mở cửa giúp!
Có việc cần, không đợi mãi được!
Chàng trai này nói trống không, chẳng ra hẳn “dân rừng” cũng chẳng ra
xấc xược, nhưng giọng y nói vừa đủ nghe, lại âm vang sang sảng tự như
chuông gióng, vừa nói chàng vừa lau bụi đường trên trán, lật nón ra đàng sau,
ánh điện vàng khè chiếu vào mặt y, khiến nhân viên nhà ga này vừa định phá
lên cười, chợt im bặt, vì bộ mặt người núi này vừa ló ra, lại khác hẳn bộ dạng
nghèo của y, làm nhân viên này phải sửng sốt. Đó là một khuôn mặt rất điển
trai, đặc vẻ thư sinh, dẫu trai sang thành phố, hoặc con cái tiểu vương lãnh
chúa cũng khó có kẻ sánh kịp! Nhưng lại là một dung mạo điển rất lạ tuy sáng
như trăng rằm, nhưng lại phảng phất nét buồn sâu thăm thẳm, một thứ buồn cô
độc, u uẩn mang mang, cộng thêm nét đặc biệt của người thâm sơn quen sống
với đèo cao dốc vát, thác gầm, thú sống, khiến khuôn mặt chàng trai này như
tẩm tráng một lớp băng lạnh khô, coi lầm lì, gan góc, khắc khổ, đơn côi bi
thẳm và “bí ẩn rừng rú” lạ!
Kẻ tinh mắt còn có thể thấu được trong cái vẻ điển rừng thiêng u uẩn vẫn
toát ra nét bình nguyên chập chờn ẩn hiện như từ tiềm thức ánh lên mắt khiến
ai trông thấy cũng chột dạ, nể ngay!
Nhân viên nhà ga liền mỉm cười dịu dàng bảo:
– Tàu chạy kia rồi! Đành đợi chuyến sau vậy thôi! Tiếc quá!
Chàng trai nhìn ra. Tàu hỏa sình sịch rời sân ga giữa hồi còi rú.
– Thôi! Kiếm nhà trọ vậy! Giờ thì có ngựa xích thố cũng không kịp nữa!
Ông ta thân mật vỗ vai chàng trai, bỗng giật thót mình, chợt thấy chàng
trai rút ra một đồng bạc “xòe” dúi vào tay ông ta. Và nắm “y môn” mở giật cửa.
Quả nắm tụt luôn ra, y đẩy nhẹ một cái “xoảng”. Cửa bung sàn xi măng, chàng
trai chạy thốc ra khiến mấy người nhà ga trố mắt, há hốc mồm, chạy khỏi sân
ga năm bảy chục thước, khi chàng trai chạy ra tới ngoài chỉ còn thấy tàn than
tới tấp bay lại, đuôi tàu đã vụt xa. Trong vùng sáng tối nham nhở, mọi người
còn thấy bóng chàng trai kia xách dù, đeo giỏ chạy theo, thoắt, chợt thấy, tít
xa, cái bóng vọt lên nóc toa như con chim cắt.
Có nhiều tiếng người kêu kinh ngạc. Con quái vật thở phì phì, mất dạng
trong trăng sương tàn than đỏ bay lả tả.
Chàng trai đã đứng trên nóc toa cuối, xốc lại giỏ, lật nón úp lên, chàng
trai sơn cước này chống dù, đi lên phía toa hành khách, như đi trên đường.
Chừng lần đầu đáp xe hỏa, chàng trai rừng có vẻ thích thú lắm, nhưng cũng
không có vẻ ngơ ngác lạ lùng nhiều, chừng cũng hiểu qua “con quái vật thời
đại” này trước khi xuống núi.
Mấy phút sau, chàng trai lần xuống một toa ít hành khách. Đây là toa
hạng ba sát toa hạng tư lố nhố đầy người. Trong toa chỉ độ hơn chục người,
phần nhiều khách Tây, đầm Tàu, Ta, Ấn lẫn lộn, thấy chàng Thổ áo rách vào,
tất cả đều ngó ra chỗ y ngồi, nhưng cứ mặc.
Chàng trai không nhìn ai, kiếm một góc, bên cửa sổ, nhìn ra.
Nhưng chỉ vài ga, y đã quay vào, ngồi bâng khuâng, mắt mở trừng, như
nhìn vào cõi xa xăm nào. Rồi khép mắt lại, cái giỏ vẫn đeo lưng, lại lấy nón
đội sụp mặt.
Đêm vào khuya dần. Tàu qua Việt Trì, chạy xuyên rừng Phú Thọ. Bỗng
một bọn năm người lực lưỡng từ bên toa hạng tư chuyển sang ngồi một góc.
Bọn này mặt mày dữ tợn, khiến đám hành khách Tây, ta phát rợn.
Riêng chàng trai vẫn nhắm mắt ngủ rồi, không buồn để ý đến ai. Bọn lạ
kia toàn mặc quần áo đen, thỉnh thoảng lại kín đáo dòm hành khách sang
trọng đeo đầy nữ trang.
Trăng soi vằng vặc nóc tàu. Đường sắt chạy giữa vùng đồi núi điệp trùng,
tiếng bánh sắt lăn cành cạch, đơn diệu, ru ngủ. Rừng cây chạy lùi lại cửa sổ.
Một người Tây thấy lành lạnh, đứng lên vừa định kéo cửa, chợt một tên mặt
sẹo bỗng đến đứng bên, lôi ra một chiếc đèn bấm “tách” thò hẳn tay ra khoa
tròn. Người Tây này lấy làm lạ hỏi, hắn không đáp, bèn bước vào.
Một người soát vé bước vào trong toa, tiến lại hỏi vé chàng áo rách cùng
bọn áo đen.
Tên mặt sẹo xòe tay chặt một nhát vào gáy người soát vé, anh gục luôn
xuống.
– Ngồi im! Hauts les mains – Ngồi im!
Bọn lạ cùng đứng vụt lên, chĩa súng vào hành khách. Tất cả thất kinh,
biến sắc, tên mặt sẹo rút trong mình ra một chiếc roi da, một người Tây vừa rút
súng trong túi ra, đã bị hắn quất véo rớt liền.
– Muốn sống ngồi im! Cựa quậy tao bắn vỡ sọ! Đứa nào có đồ nữ trang,
vàng ngọc cởi mau!
Có mấy phát súng nổ giữa tàu:
– Cướp tàu! Cướp tàu!
Hành khách sợ hết hồn, nhốn nháo kêu la inh ỏi, toa nào cũng có một hai
tên dữ tợn đứng xổ lên, chĩa súng lột hành khách.
Chàng trai mở mắt ra nhìn, trong toa, đám hành khách sang líu ríu trút hết
đồ nữ trang bỏ vào chiếc mũ da cũ của tên sẹo mặt. Đồng bọn hắn có hai tên
vọt toa khác, còn ba tên. Bỗng tên sẹo mặt quơ mớ nữ trang sức vàng bạc ném
vào mặt hành khách quát:
– Vòng ngọc thạch! Dây chuyền đồng tiền vàng! Tao cần hai món đó! Đứa
nào có tháo nộp mau!
Đám hành khách đàn bà chỉ có ba người đeo vòng ngọc xanh, nhưng chỉ
có một người đeo đồng tiền trắng, cuống cuồng tháo nộp liền. Nhưng một
người đàn bà Tàu mập, vòng đeo từ nhỏ tháo mãi không được, tên mặt sẹo hất
hàm lạnh nhạt như đồng:
– Tháo giúp! Cái bàn tay!
Vừa truyền, hắn vừa xòe bàn tay hộ pháp ra hiệu chợt lập tức một tên
đồng bọn sấn tới, rút soạt trong mình ra một cây đoản đao, túm tay người đàn
bà chặt nghiến.
Hành khách hết vía, trợn xanh mắt, rú lên, chỉ thấy ánh thép nhấp
nhoáng trốc đầu tên áo đen, giữa tiếng hét ghê rợn, ai nấy dòm vào đã thấy
một bàn tay rụng dưới sàn toa, giẫy đành đạch như đuôi con thạch sùng! Máu
tóe phọt, người đàn bà khách đứng há hốc mồm, trố mắt, dòm tay mụ còn
nguyên mới hoàn hồn.
Tên áo đen rú nhào và đoản đao văng mất, tên mặt sẹo trợn mắt sững sờ
dòm quanh, không biết ai chặt vì không ai lại gần tên kia.
Ngồi một xó bên cửa sổ, chàng trai hỏi:
– Sao không cướp vàng bạc, đồ dùng, kim cương, chỉ đòi lấy vòng ngọc,
dây đồng tiền?
Tên sẹo hét:
– Đứa nào chém? Dân rừng! Câm họng! Không phải việc mày hỏi?
Chàng trai hỏi đến lần thứ hai, chợt phất vụt tay áo một cái. Dưới ánh
điện đục ngầu, chỉ thấy loáng một luồng sáng đảo vòng cầu, cây súng của hai
tên kia đã bị dứt đôi. Lẹ như chớp chàng trai vọt lại dí dao liễu vào hỏi chìm:
– Nói tao biết… sao chỉ cướp hai thứ đó? Ai sai bọn mi đi vét vòng ngọc,
dây đồng tiền trên tàu?
Hai tên lực lưỡng không ngờ chàng trai áo rách kia lại có bản lĩnh ghê
đến thế, hai tên chưa ra nổi một đòn đã bị khóa cứng, tên sẹo căm giận mắng:
– Dân rừng! Đừng hỏi phí lời! Bọn tao có biết cũng không nói đâu!
Không nói thêm, chàng trai rừng túm ngực quăng cả hai tên ra ngoài cửa
sổ!
Hành khách trố mắt, vừa mừng vừa kinh dị, chàng trai sang toa khác.
Mười phút sau nghe có mấy tiếng súng nổ, nhiều bóng đen vọt tuôn xuống hai
bên đường sắt giữa đám tàn than bay lập lòe.
Rồi đoàn tàu hết nhốn nháo kinh hoàng. Toa nào hành khách cũng xúm
nhau bàn tán về đám cướp lạ đời chỉ đòi lấy hai thứ và ai nấy còn chưa dứt
sững sờ kháo nhau về chàng trai thiểu số phi thường một tay đánh ra bọn cướp
dữ mang đầy súng ống rồi biến mất như cơn gió thoảng. Có kẻ mê tín nhất
định cho là sơn thần hiện về cứu nhân gian.
Riêng toa hạng ba vẫn còn bàn tay tên cướp để lại. Hành khách lè lưỡi
dòm phát khiếp, xôn xao đi kiếm chàng trai người dân tộc.
Không ai ngờ chàng trai kỳ lạ này vẫn còn trên tàu. Y ngồi thu mình trong
toa hàng hóa vẻ mặt vẫn buồn lạnh như lúc mới lên ga Vĩnh Yên. Xem chừng
y lại buồn hơn nữa. Y ngồi nhìn ra rừng khuya trên ngọn đồi đỉnh núi mờ trăng
sương.
– Sao chỉ cướp vòng xanh, tiền vàng? Sao thiên hạ nhiều kẻ quyết tìm đoạt
vòng xanh, tiền vàng? Thứ của ta có quan hệ gì đến dĩ vãng không? Dĩ vãng?
Hừ! Không dĩ vãng, con người sống nổi chẳng? Mới lọt lòng đã xa mẹ lìa cha…
xa cội nguồn…
Y giơ cánh tay trước ánh trăng mờ, lẳng lặng vén tay áo chàm rộng. Cổ
tay y có đeo một chiếc vòng xanh điểm huyết kín đầy!
Y nhìn giây lâu, đoạn lặng lẽ buông tay áo xuống, ngồi nhìn vầng trăng
vun vút trôi theo con tàu đêm coi cùng mang mang u uẩn lạ.
Bỗng con quái vật dừng lại, thở phì phì phun khói đục dưới ánh điện ngầu
đục. Chợt có một bọn phu khuân vác lên toa, dỡ hàng, y liền hỏi:
– Sắp tới Yên Bái chưa?
– Mê ngủ à? Yên Bái đây chớ đâu? Phải chú mình “lậu”?
Bọn phu cười hô hố. Chàng trai mắt sáng hẳn lên xách dù xuống đi vào
ga.
Khách ra vào mãi chen chúc, tay xách nách mang, không ai kịp lưu ý tới.
Nhưng khi chàng trai lạ lùng này ra đến chỗ buồng bán vé, đám hành khách
cùng xuống đứng lại nói chuyện với đám thân nhân ra đón, ai nấy chưa hết
kinh hoàng, trầm trồ kể lại vụ cướp tàu. Có mấy người thấy chàng trai nhận ra
ngay, giật mình sửng sốt kêu lên.
Chàng trai nhìn cảnh thân nhân đưa đón nhau đầm ấm, đang ngậm ngùi
nghĩ đến cảnh cô độc của mình bỗng lại bị thiên hạ đổ dồn mắt nhìn, chàng
có dáng không vui vội bỏ đi vào phố. Vừa đi vừa đưa mắt nhìn cảnh phố xá
Yên Bái về khuya nằm bằn bặt dưới ánh đèn diện vàng hoe mang trên thân
dáng cả đường nét quạnh hiu cảm khái của trị trấn sơn cước.
Miền quê cha đất tổ đây… Biết đâu mẹ ta không đẻ ta tại nhà thương Yên
Bái này? Biết đâu đây chẳng phải là nơi chôn rau cắt rốn ta? Vì như lời ân sư
dặn, đồn điền nhà ta chỉ cách Yên Bái năm, bảy cây chi đó, không dám để lỡ
kỳ duyên, vừa đẻ xong, cha mẹ ta phải vội trao nhờ ân sư nuôi dưỡng mười bảy
năm qua… Chẳng biết giờ đấng sinh thành ra sao? Còn sống hay đã mất, anh
em trai gái thế nào?
Mà lạ thật! Sao ân sư không hé răng cho ta rõ về thân thế? Suốt mười bảy
năm ròng, ta tưởng “người” là cha, ngày chia tay cuối cùng, “người” mới cho
hay! Người họ Võ, đồn điền họ Võ trên đường Yên Bái, Lục Yên Châu, Tuyên
Quang… Mà ta là Kinh hay dân tộc?
Nao nao, háo hức, khắc khoải, lo lắng, cô đơn. Chàng trai cứ lùi lũi đi trên
vỉa hè loang lổ kiếm người hỏi thăm.
Chợt thấy một hàng “cà phê gánh” góc phố khuất, chàng ghé luôn vào gọi
một ly, ngồi uống vẻ tự nhiên như tay vẫn sống dưới phố phường. Người bán cà
phê là dân Kinh, trung niên, nước da sốt rét rừng, thấy chàng trai lạ uống cà
phê, anh ta có vẻ cao hứng, vừa pha vừa hỏi:
– Chú đâu tới? Chà chà! Cà phê tay này pha, Tây đầm phải khen à! Chú
hay uống không?
Nón vẫn đội sụp, chàng trai không đáp, chợt hỏi bất ngờ bằng tiếng Kinh:
– Bác ở tỉnh Yên Bái này, có biết đồn điền họ Võ không? Trên đường đi
Lục Yên, Tuyên Quang!
Người lạ mặt nói đặc tiếng Kinh, âm sảng như chuông đồng khiến người
bán cà phê sửng sốt ngó chòng chọc, nhưng mặt chàng khách khuất mờ sau
vành nón loang lổ, người này tò mò hỏi:
– Chú kiếm việc! Ồ! Ở Yên Bái này mấy ai không biết đồn điền cụ Võ?
Mới tháng trước, cụ còn cưỡi ngựa ra đây, ghé uống cà phê tay này mà!
Cả mừng, chàng trai vội hỏi dồn, người bán cà phê cũng tò mò hỏi lại:
– Chú đâu tới, chú hỏi có việc chi?
Chàng thật thà nói luôn:
– Tôi đi học xa về! Tôi là con! Tôi rời nhà từ lúc mới đẻ!
Vừa đáp vừa lột nón úp sau lưng, nhìn người bán cà phê, người này thấy
bộ mặt điển trai, vùng kêu sửng sốt, vui vẻ hết sức:
– Trời! Thế ra cậu là Võ Minh Thần đây ư? Chà chà! Coi giống cụ như đúc
à! Tưởng ai? Ôi chao! Cụ nhớ cậu quá chừng, cụ có nói với tôi mà! Nội trong
đồn điền, ai cũng ra uống cà phê tôi à! Cả tỉnh này ai cũng quý cụ nhà!
Rồi y nói một tràng, đầy cao hứng, không khác người thân y mới về, khiến
cho chàng trai kỳ lạ cũng vui lây. Hỏi được tin nhà sau mười bảy năm xa cách,
chàng coi cũng đỡ cô đơn, nhưng có lẽ vì sống từ nhỏ tại cô sơn, chàng ta chỉ
hơi nhếch mép cười vội hỏi thăm đường về đồn điền, đoạn cám ơn, trả tiền đi
ngay, định về ngay. Nhưng vừa được tin nhà, chàng mừng rỡ vô hạn, lại thấy
đêm khuya, nên kiếm nhà trọ nghỉ ngơi đã.
Sớm mai, mới tảng sáng, đã thấy chàng trai kỳ lạ này xách dù đứng ngay
đầu đường đi Tuyên Quang. Con đường này nối liền Yên Bái – Lục Yên Châu –
Tuyên Quang, nên khách Kinh, Thổ, Tàu thường qua lại, từ Yên Bái đổ vào,
dọc đường từ cây số một, hai trở đi, có nhiều đồn điền, nên khách qua lại tấp
nập, kẻ bộ, người ngựa, có nhiều loại xe ngựa, có loại bánh bơm chạy độc mã,
song mã, hoặc loại xe ngựa chở hàng, rất thuận tiện, bánh gỗ vành sắt lót cao
su đặc, là loại mã xa rất nhiều trên đường ngược.
Chàng trai lên một cái xe độc mã ngồi với mấy khách Kinh, Tàu, Mán.
Ánh bình minh đỏ rực mái đồi, báo hiệu một buổi thu đẹp trời. Đường Yên Bái
– Tuyên Quang từ tỉnh lỵ đi sâu mười lăm, hai chục cây số, đồi núi trập trùng
khai phá trồng trọt nhiều, nhất đồi trà, nhấp nhô như đàn rùa phục vọng, coi
đẹp phong quang thơ mộng hết sức. Đồn điền nối tiếp, giữa đồi cây như cam,
quýt, kỳ đà phật thủ, chuối, dứa, suối nước uốn quanh, rải rác nhô cao những
tà áo màu thành thị, bóng gái, trai cưỡi ngựa thấp thoáng giữa nền lá xanh, coi
như những bức tranh chấm phá tươi mát như trong mơ.
Chàng trai bâng khuâng nhìn cảnh vật hai bên đường, tâm hồn như tận
đâu đâu.
Xe ngựa qua khu đồn điền trà Đồng Lương, chừng hai cây, vừa lên một
trái đồi đất đỏ, giữa một vùng đầy hoa lá xanh mướt, chợt thấy một bóng cưỡi
ngựa từ dãy đồi tít trong phi rất nhanh về phía đường đá. Tới gần, mới rõ ra là
một cô gái mặc sơ mi trắng, quần kaki cứt ngựa, khuôn mặt xinh đẹp nghịch
ngợm hết sức. Nàng ta cắp một cây súng săn hai nòng vừa phóng ngựa, vừa cất
tiếng hát véo von như tiếng chim oanh, dáng thanh tú như cánh bướm xuân
vờn hoa vẻ rất yêu đời khiến cả hành khách lẫn chú xà ích cũng phải bật khen
rối rít.
Chợt một con chim ngói bay vụt qua, nàng ta cắp súng vẫy một phát
“đoàng”, con chim sa xuống, làm mấy cô thôn nữ đang hái búp lá, cùng reo
lên. Cô gái áo trắng cười khanh khách, lướt đến nhặt con gáy, tiếp tục tế ngựa
bạch về phía đường cái. Thoắt nàng đã tới ngọn đồi, xế bên tả, đồi cao ngựa
đang lên dốc quanh co. Có con suối chạy giữa kẽ đồi. Cô gái vừa lên đồi, lại
bắn luôn con trĩ bay qua rớt xuống suối.
– Chà! Cô bắn giỏi dữ! Bắn được chim bay!
Chú xà ích reo lớn, cô gái gò cương, cho ngựa xuống suối, nhặt con trĩ.
Ngựa vừa xuống đến nơi, cô gái vừa sà cúi thò tay toan nhặt con chim đuôi dài,
bỗng từ trong lùm cây gần đấy lao vụt ra một bóng nhân mã xẹt xếch trước đầu
ngựa bạch, bắn tóe nước, sà xuống nhón luôn con trĩ, vọt chếch chân đồi. Bất
ngờ bị cướp mất chim, lại bị bắn nước vào mình, cô gái áo trắng cả giận, vùng
ngoắt ngồi lên yên, giật ngựa rượt theo, vừa nạp đạn, vừa quát:
– Trả trĩ đây, không ta bắn!
Được mấy bước, vừa giơ súng, bỗng có một bóng nữa vọt ra, quăng vèo
một sợi dây thòng lọng chụp nghiến ngang mình cô gái, siết lại cả hai tay.
Bóng này rập dừng giữa suối, giật mạnh lôi nàng lại. Nhưng cô gái đã kịp xoay
người lại, túm được sợi dây căng, níu cứng, khiến tên kia không bắt được.
Nhưng tên cướp trĩ đã lộn phát ngược lại, định tóm, chỉ còn cách mấy sải, chợt
có tên khác xông ra trợ lực.
Cô gái chừng có võ, nhưng ba tên kia không vừa, giằng co lúng túng, chỉ
vài sải nữa là bị tóm trên đường đá, xe vừa tới ngọn dốc, mọi người kêu lên “cô
kia bị bắt đến nơi” bỗng chàng trai hơi cau mày, vẻ khó chịu. Thấy ba tên lực
lưỡng áp bức một cô gái, chàng thò tay phẩy một cái, hành khách nghe “véo”
tiếng vút gió như xé lụa dưới suối, dây thừng đứt “phựt”.
Cô gái tung luôn thòng lọng, vọt tới cầm tay súng quật liền, hai tên kia
đang lôi bị đứt dây chúi hẳn người đã nghe “soạt” mảng vải trùm mặt bị liếm
mất mảng lớn, thất kinh giạt cả ra ngơ ngác, suýt bị ăn báng súng, cả ba rút
dao rừng xúm đánh cô gái, cô gái lồng ngựa múa súng săn chống cự; nào dè từ
trong bụi, chợt có bốn tên nữa xông ra, quay thòng lọng chụp bắt, cô gái xẹt
chạy ngoắt về phía đường cái.
Bọn kia bảy tên rượt theo. Cô gái chạy băng qua suối lao về nẻo có cây
cầu sắt nhỏ bắc qua suối, nào ngờ, cách cầu chừng vài bộ, bỗng từ trên tàn cây
có một tấm lưới tung xòe chụp xuống đầu mình, xiết chặt lôi lên, con ngựa cứ
vọt lên đường, cô gái bị rút treo lơ lửng dưới tàn cây còn đang vùng vẫy thì bảy
tên kia vọt tới, một hình thù giống dã nhân, đười ươi chi đó từ trên cây lao
xuống cắp cả cô gái lẫn lưới vèo cái nó đã hạ chân đứng sau tên đi đầu, cả lũ
cứ thế lao đi băng qua đầu cầu suối chạy như gió vào cánh đồng, đồi nương
bên kia chân dốc. Đúng lúc chiếc xe ngựa đang đổ dốc, hành khách trố mắt
kinh dị, cùng xà ích la lên, con ngựa bạch lúc đó đứng bên đường chồm hí,
chàng trai giật roi xà ích, quất con ngựa kéo xe lao gấp xuống, làm hành khách
sợ hãi kêu inh ỏi. Khi xe còn cách con ngựa bạch vài mươi bộ, chàng trai
quăng vút người vọt khỏi xe hạ dính trên yên ngựa bạch thúc gót, rượt theo bọn
bắt cóc. Xe ngựa hoảng dừng lại bên cầu, mọi người sửng sốt, nơm nớp.
Nhưng không tới năm phút sau, chẳng hiểu đánh đấm cách nào, chàng
trai kia đã lộn ngựa lại, mang theo cô gái còn bị trùm kín trong lưới, dừng bên
suối. Chàng ta tháo lưới, dúi vào tay cô gái, nói tiếng Kinh điềm đạm như
không:
– Thôi! Giờ cô có thể về nhà! Bọn nó chạy hết rồi! Chắc nó rình bắt cô từ
trước. Từ nay cô nên cẩn thận, chớ đi một mình vào rừng! Cô cầm tấm lưới
này về chơi.
Dứt lời nhảy xuống đất, đi về phía xe ngựa, cô gái chưa dứt bàng hoàng
đuổi theo, cám ơn rối rít, dòm tấm lưới trên tay, vẻ ngạc nhiên thấy kẻ cứu
mình là một chàng trai nói thạo tiếng Kinh. Nàng cố gặng hỏi, chàng trai đã
lên xe, dịu dàng bảo:
– Tôi có việc gấp, xin kiếu từ. Tôi phải tới đồn điền họ Võ ngay!
– A, đồn điền họ Võ? Cách đây mấy cây số nữa thôi. Ông tới có việc gì ạ!
– Về thăm nhà! Mười bảy năm nay, tôi mới về!
Xe ngựa chạy lộc cộc, cô gái còn nhìn theo, mãi mới bỏ đi.
Hành khách cùng ngồi xe ngựa thấy đều kinh ngạc, ngó trộm chàng trai
kỳ lạ nhưng chàng ta lại thản nhiên ngồi như có vẻ không để ý nhiều đến
chuyện cô gái bị bắt cóc vừa qua.
Xe ngựa chạy qua những vùng đồi nương thật đẹp, qua vùng đồn điền chợt
chú xà ích quay lại hỏi:
– Tới đồn điền họ Võ rồi, có ông bà nào xuống đây không?
Chàng trai cả mừng bảo xe ngừng, trả tiền đoạn xách dù, theo lời chú xà
ích chỉ dẫn, chàng ta rẽ vào một con đường đất đỏ khá rộng, hai bên trồng
toàn trầu, đi khoảng trăm thước, chàng dừng chân bên một cầu gỗ, đưa mắt
nhìn quanh.
Nương đồi trùng điệp, quang đãng, cây cỏ tốt tươi, ngay trước có một cái
cổng gạch, xa trong đường đỏ quanh co, ẩn hiện nhiều tòa ngang dãy dọc, dãy
lợp lá, tường xây gạch, bóng người, bóng ngựa, bò, trâu, gà, vịt thấp thoáng,
nhác coi rõ một trang trại sầm uất nhất nhì trong miền.
Chợt có một tốp năm, sáu người mặc quần áo nâu, quần áo chàm từ trong
đi ra, tay cầm dao quắm, cào, cuốc… đi làm rẫy, người nào cũng khỏe mạnh
rắn rỏi, chàng trai vội đón lại hỏi:
– Phải đây đồn điền họ Võ không các bác?
Một người nhiều tuổi, ngó chàng chòng chọc, vẻ ngạc nhiên:
– Chú đâu tới? Vâng! Đây đó! Chú không thấy chữ trên cổng kia sao? Chú
hỏi ai trong đồn điền?
– Tôi hỏi cụ chủ họ Võ, cha tôi! Tôi đi học mười bảy năm nay mới về!
Cả bọn tá điền sửng sốt ngó nhau, cùng kêu lên, người đứng tuổi mở to
mắt, vẻ kinh sững:
– Trời! Phải chú… Cậu hai nhà đây ư? Cậu Võ Minh Thần? Trời! Cả nhà
đợi cậu mười bảy năm rồi! Cậu về chắc cụ mừng lắm! Cụ không được mạnh
hơn tháng nay… Mà sao câu lại ăn mặc… Lạ vậy?
– Tôi ở núi!
Người đứng tuổi lập tức cùng bọn lực điền dẫn chàng trai có cái tên chính
chàng cũng chưa hay, lộn vào trại. Quanh co đi sâu, cuối cùng băng qua một
khu vườn rộng, lên một trái đồi có căn nhà gạch hai tầng ngang sườn ngoảnh
mặt hướng Đông. Đồn điền khá nhiều người, đàn ông đàn bà đều dồn mắt ngó
chàng.
Trước thềm có cái vườn hoa đẹp, có một ông lão Tàu râu quai nón đang
ngồi ngậm một cái ống điếu dài bên ngọn giả sơn, vẻ trầm tư.
– Kia… chú Trưởng Sềnh! Tay chân thân tín của cụ nhà, làm quản lý cho
cụ đấy! Mấy năm nay, tự nhiên lòa mắt, thường chỉ quanh quẩn hầu cụ! Chú
giỏi lắm, một mình chú có lần đánh tan cả bọn cướp rừng!
Chàng trai theo người đàn ông ra chỗ lão Tàu. Lưng xoay lại, chợt lão hỏi:
– Ai đó? Tư Cán!
Chàng trai chịu lão thính tai, người có tên Cán vừa rảo bước lại nói to:
– Chú Trưởng à! Có cậu Hai mới về! Cậu Võ Minh Thần đó! Mười bảy
năm…
Không hiểu sao, tự nhiên lão khách giật bắn người lên, đánh rớt cả ống
điếu, quay mặt lại đứng sững, mở to cặp mắt nhìn, thân thể lão run bắn lên, vẻ
xúc động mãnh liệt, lắp bắp kêu giật bằng tiếng Quảng Đông:
– Đâu? Cậu Võ…? Mười bảy năm… Cậu bé đã về! Trời! Thật ư?
Chàng trai thấy lão khách rớt ống điếu vội bước lại, cúi nhặt đưa cho lão,
dòm kỹ mới rõ mắt lão lòa thật, mắt có màng trắng che phủ, có lẽ chỉ hơi thấy
hình dạng, lão sờ soạng đỡ ống điếu quơ nắm lấy hai vai chàng trai năn nắn,
sờ sờ, miệng lắp bắp như nói một mình:
– Cậu… cậu Võ… Mười bảy năm mới tìm về đây. Nếu đúng, cậu phải có
đeo cái vòng, sợi dây tiền gẫy.
Chàng trai cầm tay lão để vào cổ mình và trên cổ ngực, hai chỗ đeo vòng
xanh và sợi dây nửa tiền vàng. Lão khách sờ thấy, vùng ôm lấy chàng, rung
động:
– Đúng rồi! Đúng cậu! Mười bảy năm mới về! Trời còn thương người lành!
Vào đây mau! Cụ đợi mười bảy năm rồi! Thôi! Tư Cán xuống bảo giết lợn gà vịt
làm mừng cậu về… mau! Cho anh em nghỉ việc ngày hôm nay!
Tư Cán hớn hở cùng bọn lực điền xuống đồi, lão khách dắt chàng vào
nhà, lão có vẻ mừng cuống đưa chàng trai lên thẳng cầu thang gác. Chàng trai
nhìn quanh thấy bày biện rất cổ kính, với những tủ kính sập gụ, hoành phi câu
đối, ghế đá… có cả đồ “bát bửu”, trên tường treo nhiều kiểu khí giới cổ kim coi
rất nghiêm trang. Có hai, ba người trung niên vừa ta vừa Tàu, dân tộc qua lại,
thấy chàng trai lạ, đều cúi đầu chào lễ phép, lão khách đẩy cửa một căn
phòng im vắng, đưa chàng trai vào.
Phòng ít ánh sáng, có một ông già nằm rên, sập lót da báo, ngửa mặt
trông trần nhà vẻ trầm tư. Ánh sáng yếu ớt chiếu vào bộ mặt già nua, hom
hem, nhưng vẫn phảng phất nét quắc thước của kẻ từng xông pha lăn lộn.
Thấy động, ông già này ngoảnh mặt ra, không chậm nửa khắc, lão khách dắt
tay chàng trai vào, nói luôn:
– Cụ chủ à! Cậu nhà đã về đây! Cậu mười bảy năm xưa, cậu đeo vòng tiền
gãy… ngày xưa trên biên giới.
Đang thở mệt nhọc, như có mãnh lực dị thường xô đẩy, hai con mắt mở to
vừa mừng vừa sững sờ cực độ, hai tay chới với, kêu run.
– Trời! Con đấy ư? Con… theo thầy học võ… mười bảy năm đã về đấy ư?
Ôi trời còn tựa người oan khuất! Còn cho ta được thấy đứa nhỏ ngày xưa.
Lão khách bảo khẽ “cụ nhà đấy”, chàng trai ngó sững và lao mình vào,
một già một trẻ ôm chầm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi, tự nhiên mắt già mắt
trẻ cùng ứa lệ ròng ròng.
– Con… cha đợi con suốt mười bảy năm dài… chỉ lo chết đi không được
gặp lại.
– Cha… mười bảy năm liền con vẫn tưởng ân sư là cha đẻ, hôm chia tay
cuối cùng, người nói cho con hay…! Ngày xuống núi con chỉ lo không còn thấy
cha mẹ…
Chàng trai dìu cha cùng ngồi bên mép sập, hai người nhìn nhau qua màn
lệ, như muốn ngắm kỹ diện mạo nhau sau mười bảy năm xa cách, chàng trai
rung lời:
– Khi ân sư cho biết, con lo nghĩ vẩn vơ, ngờ có chuyện bí ẩn khác thường,
nay gặp cha con mới yên tâm! Suốt mười bảy năm “người” chỉ lo dạy bảo, đến
buổi chia tay “người” chỉ bảo: Ta không phải cha ruột con đâu! Hãy về tìm cha
tại vùng Yên Bái, đồn điền họ Võ trên đường đi Lục Yên Châu! Cha con đang
đợi! Thế thôi! Hỏi gì thêm “người” cũng không nói, làm cho con càng lo sợ vẩn
vơ! Mẹ con đâu?
Tự nhiên, ông già bảy mươi họ Võ giật mình chớp mắt, từ từ buông chàng
trai ra, mặt trầm hẳn lại, đưa mắt nhìn lão khách vẫn đứng giữa cửa, đang
chấm nước mắt.
Chàng trai nhìn ông già. Bộ mặt lão vụt thay đổi hẳn như vừa có một đám
mây mờ dĩ vãng kéo về coi cực kỳ thê lương. Lão ngó lão khách rồi đưa mắt
nhìn qua khung cửa kính xa xa in hình rặng núi xanh đẫm ánh nắng sớm thu,
như chìm về tận cõi xa xăm cách mười mấy mùa lá rụng.
Chợt lão rùng mình liền mấy cái, đưa tay ôm lấy mặt, thở dài, khá lâu mới
mở ra, nhìn chàng trai, đưa bàn tay nhăn nheo nắm lấy bờ vai, hai con mắt
bỗng trở nên sâu thăm thẳm như đáy huyệt chứa đựng cả cái bí mật thảm thê
oan khổ tưởng đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian.
Giọng chìm buồn mênh mang, lão run run lẩm bẩm như nói để mình
nghe:
– Mẹ con chết rồi… còn đâu! Chết mười bảy năm rồi… hồi con mới lên
hai!
Chàng trai thở dài buồn bã:
– Cha còn ảnh mẹ con chứ? Mà sao cha xanh xám thế? Phải mẹ con
chết… thảm khốc lắm không?
Ông già họ Võ có vẻ đắn đo, chừng đang coi có nên cho chàng trai biết
ngay câu chuyện gớm ghê, lão đã chờ mười bảy năm để nói không. Chợt lão
khách nói vọng:
– Cụ chủ à! Cậu hai nhà mới về, đừng để cậu buồn!
Ông già lấy lại bình tĩnh, bảo:
– Chuyện nhà, cha sẽ kể con rõ, mai kia không muộn! Con về kịp cha
chưa chết, là Trời Phật còn thương nhiều! Mười bảy năm nay cha chỉ lo không
được gặp, gia tài này chẳng biết ký thác cho ai! Chú Sềnh cũng già rồi!
Chàng trai ngơ ngác:
– Cha… thế còn anh chị em con?
– Có ai đâu? Mười bảy năm này, cha nằm đợi con về! A! Còn có Cả Hổ ở
với cha mười lăm năm, coi như con nuôi, năm nay ngót bốn mươi rồi! Hình
như nó đi đâu sớm, chưa về! Lát con sẽ gặp! Chú Sềnh à! Đưa cậu hai đi tắm
rửa, thay quần áo! bảo chúng làm tiệc mau! Nhớ con là Võ Minh Thần!
Lão khách vẫy gọi, nhưng chàng trai vẫn ngồi bên mép sập, chưa đi vội,
chừng bị dồn nén quá lâu, không chịu nổi, chàng trai cất tiếng hỏi:
– Cha… không nên dấu con! Ân sư con bảo về tìm cha, con linh cảm có
chuyện chi bí ẩn ghê gớm, nên… mới phải phiêu bạt lạc lõng ngoài ngàn dặm
từ khi còn trứng nước! Ân sư có lúc đưa con lên tận ngọn Thái Hành Sơn, có
hồi sang tận miền sa mạc Gô Bi, ngược tận Bắc phương, đi dọc theo lưu vực
Hắc Long Giang từ Mãn Châu sang Mông Cổ! Xem chừng “người” mới gặp cha
lần đầu và có lẽ chính cha cũng không biết “người” là ai? Từ đâu tới? Mà vẫn
trao con cho “người”! Mười bảy năm dài khổ luyện, giờ con đã đủ sức nghe câu
chuyện nhà xin cha cứ nói! Con không sống nổi nếu chưa biết rõ nguồn gốc!
Ông già nghe chàng trai nói, như sực nhớ, vùng hỏi:
– Mười bảy năm theo thầy đi khắp thiên sơn vạn thủy, con đã học được tới
đâu? Liệu hai cánh tay con có mang nổi… gốc nguồn quá khứ không? Phải!
Con đoán đúng! Quá khứ đè nặng lên vai cha mười bảy năm rồi nếu con mang
nổi…!
Hiểu ý, chàng trẻ tuổi đứng lên kính cẩn:
– Xin cha truyền!
Ông già họ Võ đứng lên, tinh thần chợt phấn khởi, như vơi đi quá nửa
phần bệnh, bước ra, vịn vai lão khách, rời buồng, dẫn chàng trai ra phía ban
công sau hồi. Lưng đồi cỏ xanh um, vắng vẻ, lão dòm quanh, chợt thấy một
con chó lớn đang chạy tung tăng dưới vườn, cách khá xa, lão trỏ xuống bảo:
– Này Minh Thần con! Nếu gặp một con thú dữ cách hai, ba chục thước
như con chó kia, con có thể giết nó mà không cần dùng súng bắn chăng?
Chàng trai thưa:
– Xa hơn mười bộ nữa cũng được! Không những thế con có thể hạ một
mục tiêu di động như một con chim cắt đang bay chẳng hạn.
Vẻ ngạc nhiên, ông già nhìn con, chàng trai ngó quanh chợt trỏ một con
chim nhạn vừa từ phía trước lao tới cách khoảng bốn mươi bộ cao chếch,
chàng trai đánh vụt tay ra.
“Véo”! Tiếng xé gió muốn rách không gian từ tay áo chàng trai bay ra một
vật sáng bạch, coi như một cái mồng trắng, con nhạn sa ngay xuống. Nháng
cầu vồng trước mắt ông già ngó lại, tay chàng trai đã cầm một thanh liễu đao
nhỏ bằng ngón tay, dài hơn gang, sắc như nước. Lão bật kêu lên mừng rỡ:
– Trời! Con biết phép phi đao? Con có thể lấy đầu người nhanh như tia
chớp!
Chàng trai giơ ống tay áo cho cha thấy mỗi tay có gài một ngọn liễu đao:
– Không phải phép phi đao đâu cha! Có hai cách phóng khí giới, một ném
đi không trở lui, người thường dùng, hai ném đi dùng nhân điện tụ công điều
động lưỡi dao xa gần tùy sức, với một lưỡi dao có thể chém liền hai nhát, cũng
như người ta dùng một bộ máy phát điện điều khiển một phi đạn ngoài xa vậy!
Ân sư đã truyền cho con luyện tập riêng môn này tới mười năm mới phát điện
trong mình điều động được! Dùng phép này rất hao chân khí, lúc cần lắm, mới
ra tay!
Ông già họ Võ mừng hết sức, khen:
– Ân sư con quả là bậc phi phàm! Cha đã thấy mười bảy năm xưa. Nhưng
nếu cùng một lúc có hàng trăm, mấy trăm con thú xông lại vồ như rươi, dao
này chém sao kịp? Lúc đó, con làm cách nào?
Từ tốn chàng trai đáp:
– Lúc đó chắc phải dùng phản phong quét chúng hoặc sử dụng mê công!
Ân sư có dạy con thuật tẩm luyện thuốc mê, đánh ra, mũi và lỗ chân lông vật
nào hít phải cũng lăn!
– À hay lắm! Nhưng nếu dùng tà thuật độc khí, con tính sao?
– Lúc đó, hoặc ra đòn trước, hoặc bế hết yếu huyệt, lỗ chân lông, tà phong
tà khí không xâm tạng phủ được! Trừ phi… kẻ địch thượng thừa phi thường
như… ân sư con chẳng hạn, lúc đó, dĩ nhiên không còn phép chống nào hiệu
nghiệm!
Ông già cảm động ôm chầm lấy con, nước mắt lại chảy ròng, quay sang
bảo lão khách đứng gần:
– A Sềnh à! Lập bàn hương án, đóng hết cửa lại, bảo chúng nó xuống hết
dưới, mình chú ở lại thôi! Đã đến lúc ta phải kể rõ nguồn cơn cho “nó”… dĩ
vãng đè nặng hồn ta quá lâu rồi, phải kể lại cho hết! Ta phải cáo hồn oan mẹ
nó!
Lão khách có cái tên Sềnh, bỏ ra liền. Tuy lòa mắt, nhưng lão còn đi lại
như thường, chừng đã thuộc hết đường lối trong trang trại. Chỉ vài phút sau, cả
mấy dãy buồng, tầng lầu đã im ắng không một bóng gia nhân.
Lão Sềnh tự tay lúi húi một mình thiết lập, xong hương án gióng lên một
hồi khánh, đoạn chắp tay đứng bên, vẻ buồn rầu thành kính hết sức.
Chàng trai mới biết tên mình là Võ Minh Thần, thấy mặt cha cùng người
lão bộc thân tín đầy vẻ nghiêm trọng lạ thường, lại hiện rõ nét buồn kỳ dị,
chàng trai họ Võ linh cảm ngay trong gia đình ắt xảy ra chuyện thê thảm khác
thường, tim bỗng đập mạnh, hồi hộp hết sức. Bèn đặt giỏ mây xuống nhìn hai
ông già.
Lão chủ đồn điền họ Võ dáng người mệt nhọc vì đang nằm bệnh, nhưng
con mắt chợt sáng long lanh u ẩn, lão đưa mắt nhìn quanh, cảnh buồng tranh
tối tranh sáng,chỉ có một khung cửa sổ mở chớp, cửa kính đóng, nắng thu sớm
chiều xế góc buồng.
Lão bước lại trước bàn thờ, chợt ngó ra phía cửa ra vào trầm giọng:
– A Sềnh à! Có lẽ nên khép cửa, chú đứng đó cũng được! Không nên để kẻ
nào nghe thấy.
Hiểu ý, lão khách làm theo lệnh chủ và đứng tựa bên cửa. Lão chủ đồn
điền họ Võ thắp hương lâm râm khấn khứa to nhỏ, dưới ánh nến trắng vật vờ,
bộ mặt già nua càng trở nên thê lương hết sức, như ẩn hiện cả nỗi buồn thương
dĩ vãng mười bảy năm dài dằng dặc đè nặng tâm hồn cô đơn của người đàn
ông luống tuổi phong trần. Chàng trai đứng chắp tay bên bàn hương án, lòng
xao xuyến, nơm nớp, chưa chi đã thấy xót xa, nhìn hai giòng lệ từ từ lăn trên
lưỡng quyền ông già. Chợt im, lão nhắm hai mắt lại. Cả căn buồng càng rơi
vào im lặng, có tiếng gà gáy khe khẽ từ dưới chân đồi vọng lên.
Bỗng ông già họ Võ ôm lấy mặt, run giọng lẩm bẩm như nói với… dĩ vãng
xa xưa, tiếng nghe âm u tưởng từ thế giới nào vọng về:
– Ghê khiếp quá! Kinh sợ quá! Ác mộng cũng không kinh bằng! Cái xác…
Trời ơi! Cái xác người đàn bà bị con quỷ nhả ra… Trời! Cái túi da người treo
lủng lẳng! Đứa con nít lên hai mồ côi giữa đàn quỷ… biên thùy hoang vu lởm
chởm đầy nanh vuốt… Cái túi da là mẹ con, đứa con nít chính là con…
Giọng ông già họ Võ chìm dần, run run, kinh hoàng. Lão khách đứng tựa
cửa, vùng thở mạnh, rên khẽ, tiếng nói như mê:
– Ngộ cũng thấy! Ma quỷ… Hầy! Nó đớp cả cái gót chân ngộ… Ngộ đi với
cụ chủ… Ghê dữ à!
Ông gia họ Võ chợt buông tay, lau nước mắt, lấy giọng điềm tĩnh, đặt lên
vai chàng trai mới về, lúc này mặt vừa thoáng biến sắc, mạch lạc, nhưng cũng
đã vẽ lên mấy nét quá khứ bi thảm đến rởn ốc!
– Đáng lẽ cha chưa cho con biết ngay chuyện ghê gớm này. Cha định để
con vui đoàn tụ vài ngày, làm đủ giấy tờ trao gia tài cho con và chia cho Cả
Hổ, chú Sềnh cùng đám tay chân thuộc hạ mỗi người một số ruộng, tiền lập
nghiệp xong xuôi đâu đấy, cha mới nói rõ gốc nguồn thân thế cho con hay.
Nhưng tuổi già như đèn trước gió, cha chỉ sợ bất ưng có thể lìa trần, gánh nặng
tang thương đau khổ bí mật mang nặng trong đầu mười bảy năm liền, lỡ xảy
chi không kịp cho con biết, chắc cha chết đi cũng không nhắm mắt nổi!
Lão ngừng lại, ho sù sụ. Chàng trai vọt tới bên sập rót nước dâng. Lão uống
mấy hớp, thở phào một hơi cố trấn tĩnh, như chưa biết vào chuyện sao cho
gọn.
– Mười bảy năm rồi! Phải! Chuyện xảy ra chiều hôm đó, cha còn nhớ như
in, nơi biên giới Việt – Trung, một chiều muộn, sắp hoàng hôn, gió hắt hiu…
Chiều hôm đó…
Giọng lão chìm dần như chỉ sợ tiếng nói to sẽ làm xao động cả chiều vàng
bên cảnh xưa… Ánh nến vật vờ rung rung loang lổ hắt từng vũng sáng, tối trên
bộ mặt gồ ghề như con đường đèo xuyên biên. Nhưng chợt lão hắng giọng
bằng một tiếng đanh, vùng cao giọng:
– À quên! Cha là Võ Minh Phong, hồi đó đã ngoại năm mươi. Trước nhất,
con cũng cần biết rõ cha đây thực ra không phải cha đẻ của con! Cha chỉ
nhận con làm dưỡng tử, còn cha ruột của con thực ra…
Chàng trai vừa nghe ông già họ Võ thổ lộ, không kém nỗi kinh ngạc, sững
sờ, vùng choàng lấy hai vai lão bật kêu “trời” sửng sốt, toàn thân chấn động,
một hơi gió lùa khe cửa khép hờ, ánh nến trắng lảo đảo. Thình lình nghe có
tiếng súng nổ “đoàng”, tiếp liền tiếng lão khách Sềnh la lớn. Rầm! Cánh cửa
mở toang, thân hình cao lớn của lão Sềnh loạng choạng đổ dụi theo cánh cửa.
Giật mình, cả hai người cùng ngoảnh trông ra, vừa trông ra, vừa thấy dáng
lão thuộc hạ thân tín ngã nhào, ông già họ Võ vùng lảo đảo hấp tấp chạy ra,
miệng hỏi vọt “A Sềnh sao thế”?
Chàng tuổi trẻ đứng ngơ ngác mấy giây, nhưng vốn nhạy phản ứng của
nhà võ, thấy ông già vùng chạy ra, chàng trai vùng vươn tay nắm lại, gọi giật
giọng:
– Cha! Chớ ra!
Miệng quát, chân vụt đuổi theo, nhưng hơi muộn. Cách vài thước, ông già
quá xúc động trước cảnh người thuộc hạ rất thân ngã dụi, lão chỉ vùng một, hai
bước đã tới, cúi xuống đỡ lão Sềnh, không hề để ý đến chuyện đã vô tình đứng
giữa khung cửa vừa mở ngoác. Và đúng lúc lão chạy ra giơ hai tay chưa kịp
ngồi xuống ôm lão Sềnh lên, thì “đoàng” phát súng nửa nổ chát chúa, lẫn tiếng
xoảng khô dòn, ông già họ Võ rú lên, bật ngửa người, ôm ngực, trợn mắt trừng
trừng, đổ xuống như cây chuối bị đẵn gốc.
Đáo sự mới biết chàng trai này nhanh hết sức, vừa bật kêu lên vừa lao vụt
qua khung cửa trống, khom mình ghé vai vừa đỡ vừa đội luôn ông già vào chỗ
khuất, “đoàng” phát thứ ba “chíu” trốc đầu chàng trai, xói phăng một mảnh
bàn thờ, đạn xé ngang. Lẹ như chớp, chàng trai đặt ông già, đánh vụt bàn tay
ra chiều ngược đạn đạo khoắng loằng ngoằng. Từ ống tay bay vút ra ngọn liễu
đao bắn “véo” chếch qua góc hành lang, tít cuối phía hậu, nơi có dựng một
tấm gương lớn sát “ban công”.
Xoảng! Xoảng! Tiếp liền tiếng rú nhọn, cụt. Như kẻ làm quỷ thuật, chàng
trai rê vụt bàn tay trái về phía trước cửa, như rờ rẫm không khí, bàn tay chợt đỏ
rực như tắm ánh bình minh. Nhưng nếu có kẻ thượng võ mới thấy kinh, vì đó
là “bàn tay điện” tập trung nhân điện kỳ công đang rê tìm luồng nhân điện
bên ngoài.
Nếu ngoài có người ẩn náu sẽ toát hồi nhân điện, nhân khí ra, chạm luồng
điện công, lập tức có phản chấn dội lại, biết liền. Quả nhiên, vừa khoa một
vòng, chàng trai đã chém xả tay phải ra, tít xa, xế sau “ban công” có tiếng rào
rào rắc rắc, “phập” ngọt như không, từ trên cành cây um tùm vừa gãy, bỗng
phát ra một tiếng rú lê thê, một cánh tay cầm súng rụng xuống vườn.
Trong cả phản ứng bất thần, chàng trai nghe tiếng rú vùng đảo tay toan
chém với theo, nhưng sực nghĩ ra, chàng ta nâng vụt lên, rào rắc ngọn cây,
chàng ta toan phóng mình ra, bỗng nghe dưới vọng lên tiếng người kêu lớn
“súng nổ trên nhà”, “lên coi mau”, sau lưng chàng, ông già chợt rên lên phều
phào:
– Chết mất… con!
Lo mạng ông già, chàng trai vội thu liễu đao khép sập cánh cửa, quay vào
xốc ông già, trong khi lão Sềnh vừa kêu, vừa đang cố ngồi dậy:
– Coi chừng… nó bắn nữa! Mặc ngộ… ngộ bị vào đùi… Cứu cụ nhà…
Quả nhiên đùi trên lão đẫm máu, lão ôm vết thương cắn răng ngó chủ,
chàng trai ôm ông già xem ngực, ngực đầm đìa máu đỏ lòm như đổ cả bát
phẩm điều, lão mím môi, quằn quại ngửa cổ, cố gượng đau, nói gì, bỗng nghe
lào phào yếu ớt, tiếng chìm biến trong hơi thở hổn hển:
– Chết… mất Võ… Thần con… bí mật đời… con… hỏi lão… Sềnh…
Môi mấp máy, lão rướn cong mình quằn quại hai con mắt mở trừng trừng,
ứa lệ thở phào, rồi ngoẹo đầu sang bên… đi vào cõi tịch mịch muôn đời!
Chàng trai vùng reo tên, lay gọi, nhưng vô ích! Ông già cô đơn cõi lòng,
đã chết, khi chưa kịp thổ lộ điều bí mật cho người trai lưu lạc, viên đạn bắn
cạnh tim, gặp xương phá vỡ!
Chàng trai hét lên, run tay vuốt mắt cho ông già, nước mắt chảy ròng rỏ cả
xuống bộ mặt phong trần quắc thước.
Ngay khi đó, năm sáu người nhà tay súng, tay dao rầm rập chạy lên, xô
rầm cửa, kinh hoàng trợn mắt, chàng trai trỏ vụt về phía mình vừa chém:
– Có đứa bắn trộm! Có đứa bị thương! Chớ để nó trốn! Bắt sống lấy! Mau!
Bọn gia nhân thuộc hạ nhất loạt vọt đi đuổi sục.
Lão Sềnh ôm đùi, nhịn đau lê lại gần chỗ ông già họ Võ, chàng trai ngó
thấy mặt lão xanh xám, vùng đưa tay đỡ, miệng hỏi:
– Chú sao không? Để tôi gắp đạn ra! Chắc cắm trong đùi! Chuyện năm
xưa chú biết chú cho biết… mau! Điều bí ẩn… về thân thế tôi… mẹ tôi sao? Sao
lại “túi da”, con quỷ? Sao lại “vòng xanh”? Trời ơi! Tôi phát điên mất! Mười
bảy năm chờ đợi… tôi vừa về “người” lại bị bắn trộm chết…
Chàng trai vừa hỏi, vừa bồng ông già họ Võ lên đặt nằm ngửa trên sập,
kéo lấy mảnh khăn trắng phủ lên mặt ông già bất hạnh.
Lão Sềnh chừng thấy mình bị đạn phá nát xương đùi trên, đau hết sức, lại
sợ xảy chuyện chẳng may, vùng gọi:
– Cậu hai! Cậu… nghe tôi kể… đã!
Đang cúi phủ vải trắng lên mặt ông già họ Võ, nghe gọi, chàng trai vội
ngẩng quay ra, bất ngờ nghe “xoảng” tiếng kính vỡ tan dòn, chàng trai giật
mình ngó vụt về phía có tiếng động, toàn thân lao xuống xô lão Sềnh.
Nhưng chỉ kịp thấy một bàn “tay” lông lá đen thui vừa đấm vỡ kính vừa
thò vào, phóng vút cái, rụt luôn ra, nhanh như chớp. Đến độ chàng trai chưa
kịp mó vào mình lão Sềnh, lão khách lòa lúc đó nghe tiếng xoảng, vụt ngoảnh
trông về góc buồng hồi, chân đau, chưa kịp phản ứng, thì một lưỡi dao lá đã
bay vút vào, cắm trúng cổ họng lão khách lòa! Phập!
Vừa thấy lão la lên, ôm cổ lòi chuôi dao nhỏ, chàng trai dậm phắt chân,
vừa nhảy vọt về phía cửa sổ, vừa thả “vèo” lưỡi liễu đao. Xoảng xoảng! Chát
chát! Ánh thép thần tốc phá vỡ tan ô kính, chặt đứt trấn song sắt, có tiếng ré
kéo dài hút, chàng trai dòm qua khung cửa sổ mờ có thoáng thấy một bóng con
nít đen đang đeo đu vút từ phía khung cửa sổ ra lùm cây xế bên hồi, vừa nắm
được cành cây bỗng rời ra một bàn chân đen thui, bóng con nít này sa luôn
xuống vườn.
Chàng trai nổi giận, vừa nắm trấn song định bẻ nhẩy qua vườn, bỗng nghe
lão khách gọi cứng:
– Vào… mau… dao độc…
Giật mình, chàng trai vội đảo lại, vừa kịp đỡ lão khách dụi xuống, hai tay
run bần bật, lưỡi dao cắm ngang nơi cổ họng, máu đen sì, mắt lão trợn ngược,
cả kinh, chàng bật gọi:
– Chú Sềnh! Trời! Dao tẩm nhựa “sui”? Chú… sao… bí mật năm xưa? Sao?
Mẹ tôi… cha tôi là ai? Ai giết? Sao lại “quỷ”? Ai giết?
Vô ích! Thuốc độc đã ngấm vào mạch máu, tạng phủ, thứ nhựa “sui”
ngâm mũi tên chỉ bắn sướt da rớm máu, lợn lòi to bằng con trâu, nháy mắt đã
chết rồi!
Vừa lay gọi, chàng trai vừa ngó mắt lão khách, mắt đã lạc thần, hơi đưa đi
đưa lại, chàng trai vội cúi sát xuống, lão khách run bắn lên dãy chết, môi mấp
máy, cố thu hết tàn lực, nhưng lưỡi đã líu lại. Phào theo hơi thở đứt, phều phều
mấy tiếng “tìm… Chúa núi Đầu Ngựa”. Rồi lão ngoẹo cổ “đi” luôn.
– Chú Sềnh! Chúa núi Đầu Ngựa là kẻ thù hay người ân? Tìm hỏi nguồn
cơn hay báo oán? Cõi nào?
Cũng như ông già quắc thước họ Võ, suốt mười bảy năm ngậm miệng,
chôn giấu chuyện thảm thê bí ẩn trong lòng, đợi “đứa nhỏ năm xưa” trở về,
nhưng mới nói được một, hai điều, đã ra người thiên cổ đem theo bí ẩn xuống
tuyền đài!
Mười bảy năm chờ đợi, cả hai cùng bị chết giữa phút trùng phùng! Kẻ nào
giết? Kẻ nào? Hy vọng gốc nguồn thân thế vừa chớm lóe, đã tắt ngang… Giờ
chỉ còn mình ta cô độc chơ vơ không nguồn gốc trên cõi đời oan khổ ác độc
này!
Chàng trai đặt người khách già lên sập, và ôm cả hai cái xác thân yêu, vật
mình khóc rất thảm thiết.
Cả trang trại náo động, gia nhân tá điền, đàn ông, đàn bà, gọi nhau inh
ỏi, đám kéo lên lầu, đám rượt tìm quân gian, đồn điền loạn cả lên, nhiều người
tưởng cướp.
Chúng xô cửa, thấy chàng tuổi trẻ mặc áo rách vai đang ôm hai cái thây
chủ đồn điền, lão bộc khóc thê thảm, ai nấy đều kinh dị, nhiều kẻ khóc òa.
Bọn gia nhân thủ túc vệ sĩ vừa đổ đi rượt hung thủ, bắt được một cánh tay,
một ống chân người và một bàn chân vượn thú cùng hai khẩu súng trận, loại
mút Đông Dương.
– Tụi này lợi hại không vừa! Bọn tôi chạy ra còn thấy bóng què chân chạy,
có một tên khác trong bụi nhảy ra dắt, phóng về nẻo đường hậu mất dạng, bọn
tôi chỉ bắn theo được một, hai phát. Đảo sang hồi bên này, nhặt được một bàn
chân thú coi đúng chân vượn. Cả nhà có sao không… cậu hai!
– Trời! Cả cụ lẫn chú Trưởng Sềnh đều bị hại!
Bọn thuộc hạ vệ sĩ nhào vào kinh sững, kẻ nghiến răng trợn mắt chửi rủa,
người cúi đầu ứa nước mắt, tất cả xúm lại an ủi chàng tuổi trẻ, một người Kinh
trạc tứ tuần, vẻ khá giỏi võ, hai tay hai khẩu S.Etienne cối to, dắt vào bụng lễ
phép bảo chàng trai:
– Chắc chúng nó theo dõi lâu rồi! Ngót mười năm nay không lúc nào bọn
tôi rời cụ nửa bước! Cụ vẫn ngại có kẻ thù bí mật ám hại. Tôi là Kình, hồi trước
đã đi lính đóng quản nên thường gọi Quản Kình. Tôi theo cụ hơn mười năm
rồi, trước hồi cụ làm quan Châu. Cụ rất có lượng thương người, ai cũng kính
mến. Cụ lặn lội suốt đời, không ngờ về già lại bị ám hại!
Chàng trai gạt nước mắt, ngó xác ông già:
– Cha tôi có làm quan Châu?
– Dạ, cụ nhà chỉ nhậm chức mấy năm, rồi thôi! Cụ ưa hoạt động. Chỉ
thích mở đồn điền, buôn lậu!
– Nhưng cụ bỏ nghề này đúng mười bảy năm rồi từ ngày gửi cậu hai đi
học xa.
Chàng trai thấy Quản Kình cùng bọn thuộc hạ dưỡng phụ mặt mày trông
gan góc, có người đầy sẹo coi dữ tợn, nhưng xem vẻ trung thành có nghĩa, bèn
nắm tay Quản Kình cùng đám thuộc hạ, ngậm ngùi bảo:
– Tôi mới về, lâu nay ở núi, chưa hiểu chuyện chi nay chẳng may cụ cha
tôi cùng chú Sềnh thác oan, phiền mấy chú liệu việc ma chay tống táng giúp
cho! Tôi quyết không để cụ và chú Sềnh ngậm hờn dưới mộ! Tôi phải tìm ra
hung thủ!
Bọn Quản Kình nhất loạt đáp:
– Đó là bổn phận bọn tôi, cậu hai khỏi lo! Còn mọi việc đã có cậu cả lo
liệu! Cậu cả đi từ sáng sớm chắc cũng sắp về!
Dứt lời, Quản Kình lập tức cùng đám gia nhân, tá điền lo việc tẩm liệm
ma chay, người người đều bi lụy.
Chàng trẻ tuổi Võ Minh Thần lòng buồn vô hạn ngồi ủ rũ bên xác hai ông
già, cắn răng chịu đựng, tâm hồn tan nát vừa thương người cha nuôi, nghĩa bộc
bất hạnh, vừa xót xa thân thế mịt mờ cội nguồn dĩ vãng, từ nay lại một bóng cô
đơn đi trong lớp lớp sương mù dày đặc, lần mò tìm gốc rễ tang thương huyết
thống, kẻ thù không đội trời chung.
Đến lúc khiêng mấy cái thây lạ đi chôn trước, cả đồn điền xúm lại nhận
diện, thấy một cái thây hoàn toàn xa lạ, xác bị chém “ngọt” hết sức, Quản
Kình sực hỏi:
– Phải cậu hai chém nó? Hình như lúc đó cậu vẫn ngồi trong buồng cụ
mà?
– Tôi có lối chém… riêng! Tiếc lúc đó cụ gọi, không kịp đuổi theo bắt được
chúng? Sợ cụ trối trăng gì cần kíp, nhưng không kịp!
Quản Kình vẫn chưa hiểu rõ, nhưng cũng yên tâm, được biết tiểu chủ là
tay giỏi võ.
Vừa lau chùi xong hai cỗ quan tài chạm trổ khá tinh vi, nhà khá giả đương
thời vẫn có tục sắm sẵn quan tài để trong nhà, khi về già, gần đất xa trời, bỗng
có tin Cả Hổ về.
Cả Hổ trạc ba mươi lăm, ba mươi sáu, người vạm vỡ khỏe mạnh, vẻ hoạt
động gan dạ, đi với năm, sáu thuộc hạ, đều cao lớn lực lưỡng vừa Thổ vừa
Kinh, đi bên Hổ, là người phó vẻ lai Kinh Mán, cao gầy đanh, mắt sáng quắc
coi vẻ giỏi võ. Cả Hổ cùng bọn thuộc hạ chạy ngựa lên thẳng căn nhà ông già
họ Võ, thấy gia nhân đang khiêng lên hai cỗ quan tài, cả bọn giật mình, chưa
kịp hỏi, Quản Kình từ trên xuống, nói ngay:
– Cậu cả! Cậu về muộn mất rồi. Cụ nhà và chú Trưởng Sềnh vừa bị quân
gian bắn trộm chết, khi đang nói chuyện với cậu hai ở trong buồng!
Cả Hổ kêu lên, nhảy luôn xuống, cùng đám thuộc hạ chạy vụt lên lầu,
Quản Kình đi theo.
Võ Minh Thần đang ngồi ủ rũ, thấy bọn Hổ ùa vào, còn ngơ ngác, Quản
Kình đã nói lớn giới thiệu hai người với nhau. Cả Hổ nhào tới ôm thây họ Võ,
lão Sềnh, xem xét vết thương, khóc thảm, rồi mới quay sang nhìn chàng trai
mới về, không chớp mắt, miệng hỏi:
– Võ Minh Thần…
Chàng trai gạt lệ, ngó Hổ, buồn bã:
– Em vừa về được giây lát. Đang thưa chuyện với cha… Người mới nhắc
đến anh!
Cả Hổ lẳng lặng tiến lại gần, vòng ra đằng sau Võ Minh Thần, xong lại
đảo ra trước, vùng tay chụp lấy cánh tay chàng trai. Võ thấy lạ nhưng cứ để
nguyên. Bỗng Cả Hổ buông tay, giang cánh ôm chầm lấy Võ, giọng xúc động
kêu:
– Đúng Minh Thần rồi! Cha có dặn tôi phòng ngộ nạn bất thần, nếu chú
về, còn biết mà nhận! “Người” có dặn trên đời này chỉ có chú mới mang mấy
thứ đó thôi! Mười bảy năm nay, “người” nhắc đến chú ngày đêm, “người” bảo
sinh chú trên biên giới!
Chàng trai biết dưỡng phụ giấu nguồn gốc mình, nên cũng không tiện nói
rõ, lại thấy Cả Hổ đối với mình tuy không cùng máu, nhưng tỏ vẻ thân thiết hết
sức, nên một lòng quý mến, coi như anh ruột. Buông nhau, Cả Hổ hỏi lại
chuyện vừa xảy ra, vừa kinh ngạc, vừa phẫn uất, bảo Minh Thần:
– Từ nay, phải canh phòng cẩn mật mới được! Bọn khốn có thể ám hại cả
chú và tôi nữa. Chú mới về, chắc mệt, nên nằm nghỉ, mọi việc đã có tôi! À
chú cũng nên biết qua người trong đồn điền này vì từ nay, chú là chủ tất cả!
Đoạn, lập tức giới thiệu Minh Thần cho mọi người rõ, lại trỏ từng người
giới thiệu với chàng. Xong lại trỏ riêng Quản Kình và người Mán lai Kinh bảo:
– Trong trại, hai chú này giỏi võ nhất! Chú Quản vẫn theo bên phụ thân.
Còn đây chú Khìn Lồi, thường phụ bên tôi! Từ nay, chú Quản hãy ở sát bên
cậu hai! Nay phụ thân và chú Sềnh chẳng may đã mất chúng ta hãy lo chuyện
ma chay, rồi sẽ tính chuyện báo thù! Chú Quản hãy đưa cậu hai đi tắm rửa,
thay y phục.
Đó rồi, cả đồn điền nghỉ việc, lo đám tang. Võ Minh Thần theo Quản
Kình sang phòng tắm xong, thay quần áo, mặc tang phục trắng cùng Cả Hổ
đem xác cha già cùng xác lão Sềnh quàn đặt giữa phòng khách dưới nhà.
Bình sinh ông già họ Võ đối với người rất có lượng, ai cũng cảm phục, hay
tin dữ, cả miền kéo đến phúng viếng, ai cũng buồn, nguyền rủa quân sát nhân.
Đêm đó, Cả Hổ truyền Khìn Lồi đốc tráng đinh, thủ hạ bí mật thay phiên
canh gác tuần phòng quanh trang trại, còn bọn Quản Kình ngót chục tay chiến
khác bí mật phục trấn quanh căn nhà chính lưng đồi.
Đêm vào khuya dần, thoắt đến canh ba giờ Tý. Đồn điền rừng gió đêm
hiu hắt, chàng tuổi trẻ họ Võ ngồi bên quan tài, lòng buồn mênh mang nghe
tiếng động đêm rừng khuya.
Trong đồn điền mọi người đã thiếp ngủ, mai còn lo đám tang.
Không gian chìm sâu vào im ắng, bâng khuâng tiếng chim khảm khắc từ
hai bên đầu núi kêu thương rớt xuống, rã rượi… Có tiếng hoẵng kêu ngơ ngác
xa xôi vọng về… bơ vơ… Võ Minh Thần ngồi trên một cái ghế gụ kê góc phòng
khách, xế đầu quan tài, gần khung cửa sổ hiên tiền. Ngoài thềm có một tay
súng phục trong xó tối, Quản Kình thủ cây Saint Etiene, sườn mang dao quắm,
ngực áo cắm một hàng đao lá lan, thu mình trong bóng cửa sau. Cây nến trắng,
quả trứng đặt nắp ván thiên, coi càng hiu hắt trong đêm, đổ cái bóng quan tài
xuống nền nhà đen thui.
Bốn bề quạnh vắng, tiếng trùng đêm rên rỉ từ vườn hậu đưa vào, đơn điệu,
thê lương, chàng tuổi trẻ ngồi nhìn ngọn nến, lòng như tê dại dần trong cảnh
nhà tang, chợt một cơn gió hắt hiu lùa vào phòng khách, chàng trai rùng mình
một cái gai gốc mọc lởm chởm, ruột gan như cuộn hẳn lên, vùng đưa tay trái
lên “đánh” một quẻ Trương Lương độn toán, bật kêu “à” một tiếng. Vội đứng
lên, khẽ gọi Quản Kình lại gần bảo nhỏ:
– Đêm nay có kẻ đến hành thích hai người trong nhà này! Chắc tôi và anh
cả! Chú khá đi mời anh cả tôi đến đây mau! Kín!
Quản Kình vụt xuống đồi, phút sau Cả Hổ theo vào, ngạc nhiên.
– Chú… có chuyện chi cần tôi?
Võ kéo người anh nuôi xuống, nói nhỏ:
– Sắp có kẻ tới ám sát chúng ta! Anh khá bảo người nhà quanh quẩn tít
dưới, không ai được tới khu đồi này. Còn chú Quản mau ra hiệu cho các chú
phục vào cả trong này… ngồi đánh bạc buồng bên!
Cả Hổ, Quản Kình cùng ngạc nhiên, Hổ ngơ ngác hỏi:
– Sao chú biết? Nếu quả có kẻ đột nhập ta phải tăng cường nhiều tay súng
gác quanh đây chứ?
– Không sao! Gác thế, nó có bản lãnh vẫn vào được, chết uổng người gác.
Vả mình cần nó vào để bắt sống, nếu có người mình, sợ lẫn trong đêm tối!
Đoạn chàng trai ghé sát, thì thào dặn kế, Quản Kình và Cả Hổ lập tức bỏ
ra ngoài, lát sau hai người trở vào, Quản Kình dẫn theo chín, mười người lực
lưỡng, võ trang, kéo nhau sang căn buồng bên, ngồi xúm nhau rút “bất” đánh
“xì”, dưới ngọn đèn đất, có kẻ ngồi uống rượu.
Cả Hổ kê thêm một cái ghế lớn bên cạnh chỗ Võ Minh Thần, hai anh em
ngồi trò chuyện, giục nhau ngủ, Quản Kình lúi húi pha trà, được một, hai tuần,
chợt một trận gió thổi rào cả hai ngọn nến đầu quan tài tắt phụt. Quản Kình
gọi đàn em lấy diêm châm nến. Châm xong, ngó lại, hai anh em ngủ gục, tay
khoanh thành ghế, đội nguyên cả mũ rơm, mặc tang phục thùng thình.
Quản Kình ngó, vẻ ái ngại bảo tay em:
– Tội nghiệp cậu cả, cậu hai, lo buồn mệt quá, thôi cứ để hai cậu thiếp đi
một lát, bọn ta sang bên!
Hai người bỏ đi. Đồn điền hoàn toàn im ắng. Buồng bên bọn Quản Kình
vùi đầu vào canh bạc, thì thào như tằm ăn dâu. Căn phòng khách rộng thênh
thang, hai thoi nến trên ván thiên đã hao mòn quá nửa, vật vờ theo hơi gió.
Hai anh em Võ Minh Thần vẫn ngủ vùi trên ghế.
Ngoài trời trăng mờ lạnh lẽo, đồi cây vườn trước vườn sau loang lổ đen
ngòm từng khoảng lớn. Gió thổi rì rào.
Bỗng có một bóng con nít từ trên cây đu xuống cành rủ lòa xòa xế cửa hậu
trông ra hiên sau. Chừng đã vượt êm vòng ngoài, kiểm soát kỹ vòng trong, nó
móc chân trên cành, dốc đầu xuống, ẩn giữa tàn lá um, theo lối “đoạn quyền
tiềm” của Sài Khánh xưa đu ngược dòm vào nhà khách nham nhở tranh tối
tranh sáng.
Mấy phút sau, bóng con nít đu vườn sát góc cửa sổ đóng chớp, cầm một
cái ống nhỏ như ống địch thổi nhè nhẹ vào phòng. Từ ống trúc, bay ra một
luồng khói xám cuồn cuộn rót qua khe cửa, tuôn vút tận chỗ có hai anh em họ
Võ đang ngồi ngủ gục.
Giây phút, cả căn buồng đã mù mịt đầy khói xám, bỗng nghe tiếng hai
anh em họ Võ nhẹ thở phì cái, im bặt. Mùi thơm ngào ngạt, mê hồn hương đã
vùi vào giấc ngủ mê man.
Rắc! Rắc! Bóng con nít bẻ nghiến mấy hàng chớp, ghé mắt dòm vào. Ánh
nến hắt soi hai con mắt đỏ khé như mắt thú ăn đèn săn. Nó đã dòm thấy bóng
hai người ngồi ngủ gục.
Bỗng có bàn tay đen thui thò vào khoảng chớp gẫy. Hai người vẫn ngủ
yên. Vút vút, liền hai luồng thép sáng quắc bay vào, cắm phập giữa gáy hai
người, ngập lút cán, trúng huyệt độc!
Hai người ngủ vùi bỗng giật rung đầu rồi lại im ngay… hồn lìa khỏi xác.
Buồng bên đang mê cuộc đỏ đen, chợt liền mấy kẻ hắt hơi, ôm mặt lảo đảo.
Quản Kình la lên:
– Lạ dữ à! Có chú nào ngửi thấy mùi thơm không? Ôi chao! Sao mi mắt tao
cứ dính chặt vào nhau thế này?
Cả lũ xôn xao, theo Quản Kình gục xuống ngủ như chết.
Im lặng mênh mông, mười khắc sau, bỗng từ nẻo hoa viên trước nhà, vụt
hiện ra một bóng lạ, lắc mình cái đã đứng bên khung cửa khép.
Nó thò tay vặn quả nắm sứ, mở cửa ken két. Rào cơn gió lùa, bóng này đã
đứng xế đầu quan tài. Quần áo đen thui, trùm mặt, hở hai con mắt, bóng dị
đảo mắt nhìn quanh, nhỡn tuyến dừng trên người hai anh em họ Võ, ngó hai
cán dao bóng loáng cắm nơi gáy nạn nhân, phát tiếng khô chìm:
– Hai đứa tới số, hà hà! Về hưởng gia tài… cho hai đứa chết chôn chung
một mồ với tên già, thằng khách!
Soạt! Bóng lạ rút thanh gươm sáng, vọt tới chém vụt một phát. Phập phập!
Hai cái đầu văng rụng xuống nền đá hoa, cái bóng bỗng giật thót mình, ngã
vật mình xuống, miệng kêu “trời đầu quả gáo”!
Có tiếng phát âm u phía quan tài:
– Đứng lại! Ta đây! Mi còn chạy đâu thoát!
Theo tiếng hô trầm, một sợi thòng lọng quăng vút qua, chụp nghiến lấy
bóng lạ, y nhanh nhẹn ngã vật xuống. Hắn lăn một, hai vòng, bị thòng lọng
xiết chặt lôi về phía quan tài, nhưng bóng này cao bản lãnh hết sức, đã quay
luôn mũi kiếm sóc đứt phựt vòng dây, chồm lên, vọt ra ngoài như chiếc cầu
vồng.
Vải rũ gần quan tài tốc lên, bóng chàng trai họ Võ nhô ra, đánh vụt tay
theo. Ánh thép loáng dưới nến vật vờ, vút ra chém “phập” tiếng ngay khi còn
lơ lửng giữa không mờ ánh trăng một bàn chân rụng xuống “huỵch”. Lẹ như
chớp chàng họ Võ bắn vọt từ trong chỗ gần quan tài ra, Cả Hổ vọt theo. Minh
Thần vừa vọt, vừa quát:
– Còn tên kia đứng lại, không ta chém!
Bóng cụt bàn chân sa xuống, máu tóe, lăn lộn, cố chồm lên, chàng trai
xốc tới, đá lia một ngọn cước, trúng huyệt, nằm im, một bóng khác vừa tới bên
thềm, thấy động, phóng vèo ra phía hoa viên. Võ đứng đầu thềm, chém lia lịa
quát giật, rắc rắc rào rào chát chát, đường thép xả vòng chỗ bóng kia mới nhảy
lẫn vào, loang loáng rất uy tợn.
– Đứng lại.
Cành gãy, mỏm đá rụng, bắn tả tơi, thoáng có bóng trong vùng tranh sáng,
Võ lắc mình theo đường kiếm, bắn vọt qua ngọn giả sơn, thò tay túm luôn được
gáy cái bóng này.
Trong lúc đó Quản Kình cùng bọn tay em đã chồm dậy, tông cửa hỏi, vọt
ra phía sau cửa phòng khách, vừa kịp thấy bóng con nít từ sau cửa đu vút ra xa,
bỏ chạy. Kình lẩy luôn một phát trúng cẳng, bóng này sa xuống tàn cây dưới,
chỗ sáng trăng. Kình nổ luôn phát nữa, sa “bịch” đất. Chạy ù ra vồ, mới hay đó
chỉ là một con vượn khoang mặc quần áo đen.
Tay con quái thú còn nắm chặt ống trúc đựng đầy mê hương. Quản Kình
xách xác con vượn, chạy vòng ra đằng trước. Ngoài hoa viện chàng trai Võ
Minh Thần đã túm được bóng lạ thứ hai quật sóng soài bên hòn giả sơn.
Cả Hổ chạy theo sau thấy Minh Thần vừa bắn người ra đã túm quật ngã
được hung thủ, Hổ vùng hỏi lớn:
– Nó sống hay chết?
Chàng trai dậm chân lên lưng bóng lạ cao giọng:
– Còn sống! Tiếc quá tay chém chết tên kia! Còn một đứa xông hương mê
cửa sau!
– Cậu hai! Không phải người! Con vượn!
Quản Kình cùng bọn đàn em vọt ra, Kình túm cẳng con thú dốc ngược
trước mặt hai anh họ Võ. Cả Hổ hô lớn:
– Lùng xem còn đứa nào nữa không? Chà! Chú nhanh như cắt, mẹo hay dữ
à? Nào đem tất cả vào nhà!
Bóng lạ mặt trùm kín, bị điểm huyệt, nằm như khúc gỗ. Cả Hổ cúi xuống
định lôi y, nhưng Quản Kình đã nhanh nhẹn sà xuống xốc luôn lên vai xăm
xăm đi vào nhà khách, ném bịch cả người, thú xuống đất đá hoa. Bọn tay em
chạy các nơi, chiếu đèn bấm, lục soát.
Võ Minh Thần phẩy tay xua nốt hương mê còn phảng phất trong phòng,
bảo Quản Kình:
– Lột vải trùm coi!
Quản Kình ngồi xuống, lật ngửa bóng lạ, thò tay cởi nút buộc, giật soạt
cái. Bộ mặt bóng lạ vụt lộ dưới ánh nến vật vờ, khiến cả ba người đều giật
mình kinh ngạc, trố cả mắt. Vì… bóng lạ không ai khác… Khìn Lồi người Mán
lai Kinh, bộ hạ rất đắc lực trong gia đình họ Võ! Người vùng này còn gọi y là
chú “Lồi Mán Kinh.”
– Kìa chú Khìn Lồi… sao lại thế này? Hắn là kẻ trung thành vào đồn điền
mấy năm rồi mà…?
Võ Minh Thần, Quản Kình ngơ ngác nhìn nhau, chàng trai hơi nhíu mày,
lẩm bẩm:
– Tôi đuổi theo chân tên kia rớt từ cao xuống, thấy bóng này vọt ra phía
ngọn giả sơn, tôi nhảy ra chặn! Lẽ nào lầm được! Y cũng bịt mặt! Thử ra coi
tên kia!
Quản Kình chạy ra túm lấy thủ cấp tên hung thủ vừa chém lầm phải hai
hình nhân giả, bước vào. Đường thép lia “ngọt” đầu lâu còn trùm nguyên vải
bịt đen tẩm máu. Quản Kình xách thủ cấp đứng quan tài lột phắt vải trùm.
Nhưng chỉ là một tên hoàn toàn xa lạ, mặt mày dữ tợn, hai con mắt mở trừng
trừng, không phải người đồn điền, cũng không phải dân quanh miền.
Quản Kình ném bịch đầu lâu xuống đất, đầu lâu lăn lông lốc nằm bên chỗ
Khìn Lồi. Cả Hổ bảo Minh Thần:
– Thằng này không phải người địa phương mấy hạt châu Yên Bái này! Lạ
thật! Chú thử giải huyệt cho nó coi! Chắc có chi bất thường đây!
Võ Minh Thần búng tay một cái, Khìn Lồi thở phì, bò nhỏm dậy, la lên:
– Trời! Suýt cậu hai chém chết Lồi à? Cậu hai giỏi võ dữ. Lồi thấy cậu hai
chém rụng cái đầu thằng này!
Cả Hổ cau mày hỏi lớn:
– Chú Lồi! Cậu hai đuổi chém thằng này thấy chú núp hiên chạy ra vườn
hoa. Chú theo hung thủ, phản thầy?
Khìn Lồi trợn ngược mắt vẻ kinh ngạc, vò đầu kêu:
– Cậu cả bảo Lồi cùng bọn quân gian? Lồi theo nó giết cụ nhà, giết hai
cậu? Trời! Chém chết Lồi còn hơn à. Lồi lên đồi nghe động chạy lên thấy cậu
hai đuổi nó trong thềm ra. Lồi chạy tới, chận bắt sống, bị đòn cậu hai mà! Tiếc
dữ! Nó chạy ra, nó lao sà sau hòn núi giả, Lồi sắp túm được nó!
Cả ba ngơ ngác nhìn nhau, Hổ hỏi Minh Thần:
– Hay ngoài đó tranh tối tranh sáng, tên kia vừa lăn nhào ngoắt sau ngọn
giả sơn thì Khìn Lồi vừa lao tới!
Võ Minh Thần nheo mắt nghĩ lại, bán tín bán nghi, bảo:
– Kể ra lúc chém tên kia, xác y rụng xuống, cái bóng thứ hai chạy ra, lúc
đó có thể lầm lắm! Nhưng sao chú cũng bịt mặt như bọn gian?
Người Mán lai lễ phép:
– Lồi ẩn trên cây, thấy một đứa vọt qua, liền lên đồi, có lúc nó ló đầu giữa
ánh trăng, tới chân đồi lại thấy tên nữa sịch tới, bàn gì với nhau, rồi vượt lên.
Lồi thấy nó bịt mặt. Lồi cũng lấy vải bịt đi theo, phòng gặp đứa nào, nó tưởng
cùng tụi. Lồi nghe trên nhà im ắng. Lồi lo hai cậu không hay biết chúng nó tới!
Hai anh em họ Võ ngó nhau. Minh Thần nghiêm mặt bảo:
– Từ nay nếu không gọi, chớ đến, có lần chết oan! Tôi đã dặn đừng ai tới
khu đồi này, là sợ đêm tối chém lầm đó! Thôi! Hãy đem xác chúng đi chôn
cho rồi!
Khìn Lồi theo lệnh chủ, vác luôn hai cái xác xách đầu lâu xuống đồi.
Cả Hổ vẫn ngờ vực, khẽ hỏi:
– Chú tin chú bắt lầm?
Minh Thần lắc đầu, thấp giọng:
– Lầm thế nào được! Mắt có thể lầm nhưng tay không lầm được! Tay em
có thể sờ thấy hơi nóng sinh vật trong vòng năm mươi bộ, nằm dưới gầm quan
tài, đã phát giác được có ba sinh vật. Phía trước chỉ có hai luồng nhân điện
toát ra làm gì có luồng nào nữa! Chính nó đồng bọn với hung thủ.
Cả Hổ, Quản Kình ngơ ngác:
– Nhưng sao mãi hôm nay, nó mới xuống tay?
– Có lẽ chúng đợi em về để nhổ tận gốc. Nhưng không ngại! Em quyết
làm vong hồn phụ thân được yên giấc! Chúng sẽ phải ra tay lần nữa trước ngày
em đi!
Đoạn chàng trai ghé tai Cả Hổ, Quản Kình nói nhỏ. Giây lát sau đám
thuộc hạ kéo lên cho hay không thấy dấu vết nào khác. Võ Minh Thần bảo mọi
người đi ngủ. Từ đó đến sáng, đồn điền yên tĩnh hoàn toàn.
Sớm mai, người xung quanh miền đến viếng thêm đông, có nhiều người
ngoại tỉnh vào, ai nấy đều ngậm ngùi thương tiếc ông già họ Võ.
Võ Minh Thần đang cùng Cả Hổ trả lễ khách vái trước linh sàng, chợt có
Quản Kình vào báo:
– Có một cô gái nhà quan tới viếng hỏi cậu hai!
Ngạc nhiên, Võ Minh Thần bước vội ra, thấy một người mặc áo dài trắng,
quần trắng, khăn “voan” trắng, cưỡi con ngựa trắng, vắt hai chân sang bên, coi
đẹp lộng lẫy trong nắng sớm, phía sau có năm, sáu người lính “sà cạp trắng”
theo hộ tống, cùng hai gái hầu.
Cả Hổ theo đứng sau Minh Thần che mày nhìn, khẽ bảo:
– A con gái quan tuần phủ Yên Bái! Cô Thủy Tiên!
Toán người lên đồi, Võ Minh Thần, Cả Hổ cùng tiến ra đón, tới gần xế
vườn hoa, chàng trai ngó cô gái ngờ ngợ như gặp đâu rồi, hai bên chào nhau,
cô gái xuống ngựa uyển chuyển tiến lại, cất giọng thánh thót:
– Thân phụ em mắc bệnh, em phải đi thay, ngoài Yên Bái được tin đồn
điền nhà có chuyện chẳng lành, ai cũng buồn! Em xin có lời chia buồn cùng
hai anh!
Cả Hổ nói lời cảm tạ, đưa cô gái cùng bọn lính vào thẳng nhà khách, cô
gái thấy Võ Minh Thần có dáng ngờ ngợ, nàng thỏ thẻ:
– Kìa! Anh Thần! Anh không nhận được em! Trời! Sao anh lơ đãng thế?
Mới sáng qua anh cứu em ngoài cây số bốn, năm mà!
Chàng trai “à” nhỏ, mãi mới nhận ra chính cô gái bị bọn lạ mặt bắt cóc,
bữa nay nàng mặc quần áo thướt tha coi đẹp lộng hẳn lên khác hẳn cô gái
mặc “quần ngựa” bắn chim bay sáng qua.
Lòng đang chất nặng ưu tư, lại thường ở núi cao rừng thẳm, ít khi gần phụ
nữ. Võ Minh Thần thấy cô gái nhà quan này xinh đẹp, hồn nhiên thẳng thắn,
chàng trai cũng thấy tâm hồn đỡ hiu hắt đôi chút, nhưng vẫn nói rất ít.
Còn nàng Thủy Tiên lại có vẻ thích thú gặp lại chàng trai ân nhân, nàng
nói chuyện rất duyên dáng, mấy lần suýt cất tiếng cười khanh khách, phải cố
nén, sực nhớ chàng trai ân nhân đang mắc đại tang. Thủy Tiên theo bọn Cả
Hổ vào, đặt đồ phúng điếu, lễ trước linh sàng xong, thấy Thần mặt mày ủ dột,
cô gái cố lựa lời an ủi cho khuây khỏa.
Trò chuyện qua lại, Võ Minh Thần mới hay cụ Tuần họ Phạm, cha nàng
vốn là chỗ quen biết từ trước ngày ông già họ Võ ra làm quan Châu, hai người
khá tương đắc tuy ông già họ Võ nhiều tuổi hơn ông họ Phạm.
Cô gái còn ở lại giúp gia đình họ Võ trong việc tiếp khách, ma chay,
khách khứa, gia nhân ai cũng quý mến.
Ngay chiều đó, anh em họ Võ làm lễ an táng ông già họ Võ cùng lão bộc
Sềnh tại nghĩa địa riêng của đồn điền phía sau trại, chàng trai vật mình khóc
thảm thiết, người người đều rơi lụy. Chôn cất xong, Võ Minh Thần đứng ra nói
lời cảm tạ, và xin từ biệt, sớm mai ra đi có việc cần kíp.
Mọi người đều ngạc nhiên, cố giữ lại, nhưng Võ Minh Thần nhất định sẽ
ra đi khiến mọi người đều quyến luyến. Riêng Cả Hổ, Quản Kình biết rõ kế
của Minh Thần. Chàng trai định đánh nước cờ quan trọng, nhử “kẻ thù bí mật”
tới đồn điền.
Đêm đó, người trong trại đều đi ngủ sớm. Ai cũng mệt mỏi vì cuộc ma
chay, mới mười giờ đêm, đồn điền đã im lặng như tờ, chỉ còn vài ba gia đinh
thay phiên canh gác, tuần phòng quanh trại.
Võ Minh Thần cùng Cả Hổ nằm trong buồng Cả Hổ, đêm khuya lạnh, đắp
chăn tới cổ, tới mười hai giờ, cả hai lại lăn xuống nằm dưới gầm giường, áp
dụng mẹo trước, nhưng lần này, Võ Minh Thần đã bí mật tạc được hai cái đầu
gỗ, giống hệt như hai anh em, sơn phết rất khéo lắp vào hình nhân, đắp chăn
tới cổ, lại để một ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ đặt trên bàn đem kê đầu giường,
ánh sáng hắt qua bức màn tiêu soi vào mặt giả coi như thật.
Quả nhiên, khoảng giữa giờ Tý, có ba bóng bí mật đột nhập đồn điền. Cả
ba có nghề dạ hành, vượt vào lúc nào không hay, thoáng đã đứng sững bên tòa
biệt thự hai tầng trên đồi. Cả ba đảo một vòng nghe động tĩnh, áp cả tai xuống
đất, mười phút sau, cả ba tiến đến một gốc cây lớn xế sau phòng Cả Hổ, vọt
lên lùm cây rậm, êm như không, chừng năm phút sau, bỗng thấy một bóng đu
mình vun vút trên ngọn cây, thoắt đã tới một cây xoài bên cửa sổ hậu, êm như
không tiếng động, ngoài một vài tiếng lá cọ nhau xào xạc trong gió thoảng. Thì
ra bóng con nít nhỏ là một con vượn mặc quần áo như người. Con quái này đu
mình vào hành lang, phun hương mê vào buồng rồi lại đi buồng khác.
Căn biệt thự này kiến trúc có hành lang chạy quanh, phong lan cây cảnh,
hoa leo chăng đầy, lát sau, con quái đã phun hết các buồng, cả căn biệt thự đã
chìm trong làn hương mê hồn ngào ngạt. Hương mê này thuộc lại đặc biệt của
giới đạo tặc thượng thặng, nín hơi không hít, nhưng lỗ chân lông hấp thụ phải
sẽ mê liền.
Riêng với tay theo thầy học thuật thượng thừa trên cao sơn như Võ Minh
Thần, hương mê này không tấn công tạng phủ nổi, Thần lại có thuốc trừ cho
Cả Hổ, Quản Kình uống nên hai anh em cứ năm yên dưới gầm giường, chờ
đợi. Xông xong, con vượn quái vật vọt ra lùm cây, hai bóng bí mật kia cùng
con quái quăng mình vào hành lang, tài nghệ lợi hại hết sức, tiếng bứt cành đu
chỉ rào thoảng nhẹ.
Một bóng cao, một bóng lùn, bàn tán chi với nhau, rồi bóng cao lại bên
cửa sổ, bóng lùn lại bên cửa hông, cùng bẻ cửa, dòm vào, con vượn tuần đảo
quanh. Bóng cao chỉ thò ngón tay vào móc nhẹ, cửa chớp cửa kính đã vụn
thủng, êm ru, bóng này ghé mắt dòm vào. Ánh đèn Hoa Kỳ chiếu qua bức màn
lan tiêu trắng, soi hai bóng đắp chăn nằm trong, tuy mờ mờ nhưng cũng đủ rõ
nét mặt anh em họ Võ nằm ngủ say như chết.
Bên cửa sổ, bóng lùn cũng vừa bẻ được cửa nhìn vào, cả mừng vọt ra phía
sau, gặp bóng cao.
– Anh em nó tới giờ tận số rồi! Thằng nằm ngoài là đứa mới về đó! Thằng
này lợi hại lắm! Coi chừng nó lại dùng mẹo trước.
– Chắc không! Ma chay bận rộn, chúng ngủ như chết, coi mặt mày chúng
còn ngờ gì nữa! Vào thôi.
– Khoan! Để cho mỗi đứa một mũi đã! Cùng ra tay!
Dưới gầm tối, qua làn hương mê, anh em Võ Minh Thần vẫn nằm theo dõi
từng cử động của mấy bóng bí mật bên ngoài.
– Hai đứa đều giỏi võ còn hơn tụi trước! Anh cứ nằm yên chớ xuất đầu, để
mình em đối phó! Lần này phải bắt sống mới ra manh mối!
Võ Minh Thần vừa ghé tai Cả Hổ thì thào, bỗng nghe “véo” “véo” liền
mấy tiếng xé gió, màn lan tiêu động đậy, tiếp liền mấy tiếng “thụt” “cục” hai
cái đầu trong giường đã bị mấy mũi đinh nhọn đóng ngập cổ, sọ.
Minh Thần khôn ngoan đã lót một lần thịt sụn quanh cổ, sọ, trước khi
đính tóc giả, khi nghe kẻ lạ phóng đinh, Thần lại thò tay lên lắc cả đầu mình
hai hình nhân, làm như thể dãy chết.
Quả nhiên, phóng đinh xong, thấy hai người quằn quại, hai kẻ bí mật mắt
sáng hẳn lên, bóng cao vọt ra liền, gặp bóng lùn, rồi cả hai tiến lại trước cửa
buồng, vặn ổ khóa vào trong. Gió lùa khe cửa, ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét chập
chờn, vụt, hai cái bóng đen đã đứng sững bên giường, bóng cao thò tay vén
cửa màn, dòm rõ hai bộ mặt im lìm, phát ra tiếng cười âm u:
– Hà hà! Nhổ tận gốc giòng họ Võ! Mày giỏi lắm, nhưng mày chưa đủ trí
khôn. Tao chặt đầu hai đứa! Tao chiếm hết!
Soạt, bóng cao rút ra một lưỡi đoản đao, tay trái vén màn, tay phải chém
phập xuống cổ họng hình nhân Võ Minh Thần nằm phía ngoài. Lưỡi thép sáng
hạ gần tới thình lình Võ Minh Thần thò vụt tay lên nắm nghiến lấy cổ tay bóng
lạ.
“Bạch” tay đao chém dính luôn vào tay Thần, bóng dị giật nảy mình, bật
kêu “trời” dùng hết sức mạnh định vùng giật lùi lại, nhưng không kịp nữa. Võ
Minh Thần đã bóp trúng mạch môn, miệng thổi phù một cái, bóng lạ bủn rủn
tứ chi, tối tăm mặt mày, Võ theo đà bật dậy như chiếc lò xo, vừa đẩy “huỵch”
bóng cao xuống đất, vừa vươn tay chụp bóng lùn đứng gần đấy vừa bước tới,
vén rộng màn, định ghé dòm. Nhưng vừa thoáng thấy Võ nhỏm dậy, y đã
nhanh nhẹn kịp lùi lại đã xa hai, ba bộ, giơ tay rút đinh phóng vào Võ. Thủ
pháp tên này lẹ khác thường, nhưng Võ Minh Thần còn lẹ hơn, tay phải vừa
chụp hụt, tay trái đã đánh vụt ra như chớp, “véo” từ ống tay áo bay vút ra một
lưỡi liễu đao nháng sáng dưới ánh đèn Hoa Kỳ, đã nghe bóng lùn kêu rú lên,
lảo đảo, ngã lùi loạng choạng dựa rầm vào cánh cửa khép, máu phun phì phì.
Cả bàn tay cầm đinh đã rụng “độp” xuống nền đá hoa, chiếc đinh kêu “keng”
tiếng dòn vang.
– Đứng im!
Ánh thép đảo trốc đầu bóng lùn, Võ Minh Thần vừa quát vừa xẹt tới định
bắt sống, không ngờ bóng này tuy bị cụt bàn tay, vẫn còn hăng tiết, lấy lại
thăng bằng, tay kia rút súng chĩa vẫy. Chát! Liễu đao chém bay cây súng. Võ
Minh Thần xẹt tới, xòe bàn tay trái phạt ngang cổ họng, đúng lúc Cả Hổ từ
trong gầm giường khom mình vọt ra định phụ em, bắt sống tên lùn. Thần vừa
chặt vừa thấy bóng Cả Hổ, thất kinh thu lưỡi đao, dừng tay chặt, miệng kêu
giật:
– Coi chừng… anh!
Thì Cả Hổ vừa lao vọt ra, bị bóng lùn đá trúng kheo chân, ngã lộn nhào,
bóng lùn thừa cơ Võ thu đao, liền dừng đà lách mình vụt ra ngoài. Thoáng thấy
Cả Hổ bị đá ngã, bóng lùn lách ra, chàng trai buộc lòng phải chém vút tay trái
theo. Chát! Ngoài mép cửa, trúng luôn bả vai bóng lùn, bóng này ngã huỵch
ngoài hành lang, vừa lúc con vượn lùn từ đâu đu vào, tay cầm con dao ném
vào trong bị lưỡi đao lướt thích trúng tay, con quái vùng bỏ chạy, miệng nó hú
một tràng lanh lảnh, cùng lúc bóng lùn thu hết tàn lực, la lên một tiếng lớn.
Võ Minh Thần vọt ra, thấy bóng lùn đã tắt thở, máu hộc hành lang, chàng
trai đưa tay rà theo con đường cung, chém rụng luôn con vượn vừa thót lên một
tàn cây xế trước hành lang.
Chàng trai vọt ra, thấy con vượn dãy chết, quay luôn vào, hỏi lớn:
– Anh có sao không?
– Không hề gì! Tên này cũng chết rồi!
Cả Hổ vừa ra đứng bên xác bóng lùn, ngồi xuống lật vải trùm mặt. Một
tên lạ.
Hai anh em vừa định vào nhà. Bỗng nghe phía dưới, súng nổ đì độp lẫn
tiếng reo hò vang dậy, Quản Kình từ chân đồi vọt lên gọi lớn:
– Quân giặc đánh vào đồn điền… đông lắm! Hằng trăm đứa, vừa súng,
vừa cung nỏ!
Cả Hổ quơ cây súng kẹt tủ, hỏi nhanh:
– Chúng vào mấy phía?
Quản Kình cùng một toán bảy, tám thủ hạ xách khí giới ùa lên.
– Chúng tràn hai mặt tiền hậu, nhưng mặt tiền nhiều súng!
Cả Hổ vùng hô:
– Chú lo trên cây cao này, để bọn tôi xuống coi!
– Nhà có hỏa pháo không?
– Có đấy! Quanh trại có nhiều đồ dẫn hỏa để sẵn!
Cả Hổ mở tủ lấy một mớ hỏa pháo, cùng bọn Quản Kình chạy xuống dưới.
Tiếng súng nổ, người la inh ỏi, cả trại náo động trong đêm mờ.
Võ Minh Thần khêu to ngọn đèn, đốt thêm cặp nến lớn, túm tên cao lớn
lên, gỡ soạt vải trùm, dưới đèn, chỉ là một tên lạ, mặt mày dữ tợn, coi vẻ người
thâm sơn. Giải huyệt, điểm triệt võ công. Thần dịu dàng hỏi:
– Ngươi đâu tới? Phải người trên biên thùy? Coi lạ mặt, có thù oán gì lại
muốn hại người họ Võ?
Tên lạ ngó lừ lừ, không nói nửa lời. Bị gặng hỏi mãi, hắn mới phá giọng
chìm âm tiếng Mán hơi khó nghe:
– Mày giỏi! Tao thua mày! Giờ bắt được tao cứ giết! Đừng hỏi lôi thôi!
Võ Minh Thần vẫn đấu dịu bảo:
– Ta có cách làm ngươi phải nói! Nhưng ta không muốn. Ngươi sợ chi phải
giấu? Sợ đồng bọn hại? Biết vật này không?
Vừa hỏi, chàng trai vừa chìa cổ tay, cho tên này coi chiếc vòng ngọc, mắt
ngó hắn không chớp. Nhưng hắn cứ điềm nhiên như không, nhếch mép khô
giọng:
– Trại chúng mày sắp ra tro! Không giữ nổi đâu!
Võ Minh Thần bực mình, đang định dùng võ thuật, bắt hắn phải khai,
chợt thấy cả khu trại sáng rực ánh hỏa pháo, tiếng súng nổ quân hò dữ dội,
đạn “chíu” cả lên đồi, Quản Kình chạy lên báo:
– Quân giặc đông hơn ta nhiều! Chúng đã lọt sau cổng trại!
– Còn mặt sau?
– Mặt sau, ta giữ được, chúng chỉ có ít tay súng nỏ, súng hỏa mai phía đó!
Mạnh nhất mặt tiền! Còn Khìn Lồi cùng hai, ba tên người Mán biến mất! Tình
thế gấp!
Võ Minh Thần điểm cứng tên cao lớn, ném hắn vào một xó, khóa cửa lại,
đoạn cùng Quản Kình lao xuống dưới.
Khi Võ Minh Thần xuống dưới khu trại dưới, thì quân giặc đã tràn vào
trong, chiếm hẳn dãy đồi che chếch Đông Bắc, đánh dập xuống khu tá điền,
xưởng trà, nhà kho, khí thế rất hung. Mặt này, giặc có khoảng hơn năm mươi
tay súng, lẫn nhiều hỏa mai, cùng toán cung nỏ, nhưng có hai khẩu trung liên
rất lợi hại, quét trúng hết sức, mở đường cho toàn đội.
Bên trại, tráng đinh, tá điền, thủ hạ họ Võ khoảng năm sáu chục tay
chiến, nhưng chỉ có độ bốn mươi tay súng, vừa hỏa mai, súng “mút”, với một
cây trung liên độc nhất. Hỏa lực của trại hơi yếu hơn giặc, lại phải rải quân
bảo vệ khu cơ xưởng, gia cư rộng, nên càng mỏng, có vẻ núng trận.
Cả Hổ đang đứng sau một căn nhà gạch đốc chiến, Võ Minh Thần chống
cái dù trắng, cùng Quản Kình lao tới, hỏi:
– Quân giặc đánh hung lắm! Hình như chúng đã biết mật hiệu hai tên đột
nhập hành thích bị bắt thì phải! Trại không còn cây liên thanh nào nữa?
Cả Hổ lau mồ hôi rớm trán, đáp nhanh:
– Trước phụ thân còn buôn lậu, bao giờ cũng thừa súng đạn. Nhưng từ
ngày làm Tri châu về, giải nghệ luôn, chuyên về khai phá đồn điền, “người”
cho bán hết, chỉ để lại ít khẩu giữ trại, có khai báo với Nhà nước! Nhưng
“người” còn giữ kín một cây trung liên để dưới hầm nhà hai tầng!
– Còn đạn?
– Đạn còn nhiều! Nhưng chỉ có một cái nòng dự trữ!
Võ Minh Thần giục Cả Hổ, Quản Kình đi lấy đạn xong. Chàng trai trao
cây súng cho Quản Kình, còn chàng quơ mấy băng, dặn dò kế chiến chưa kịp
vọt đi, chợt thấy quân giặc ngừng bắn trên, ngọn đồi thấp thoáng có bóng một
tên cao lớn trùm mặt ló sau thân cây lớn, quát lớn:
– Anh em họ Võ! Nếu chịu trả người vừa bị bắt, chúng ta sẽ rút quân ngày!
Nếu không, ta quyết đốt trại này ra tro!
Võ Minh Thần nhìn lên, quay bảo Cả Hổ, Quản Kình:
– Coi dáng giống Khìn Lồi quá! Lồi đâu?
– Nó biến mất ngay khi tôi chạy lên đồi! Đúng nó rồi! Nếu vậy, chắc trong
hai tên kia, phải có một tên đầu đảng, nên thằng Lồi thấy lộ, phải ra.
Võ Minh Thần vội truyền người trong trại ngừng bắn, đoạn khum tay
quanh miệng, gọi lớn tiếng như chuông đồng:
– Khìn Lồi! Ta đã biết ngươi từ đêm qua!Không cần dấu mặt! Muốn ta tha
nó, phải nói rõ lý lịch, nguyên do vụ giết trộm hèn hạ! Nếu không, bọn người
đừng mong ra khỏi trại này!
Tên trùm mặt cười thét lên, dữ tợn:
– Nhỏ con! Xuống âm phủ hỏi cha mi sẽ rõ! Ta chỉ cần hỏi có chịu thả
không?
Võ Minh Thần không đáp, giơ tay ra lệnh cho bọn Cả Hổ, Quản Kình:
– Cứ luồn đánh tập hậu, để mặt này trống. Tôi sẽ bắt sống nó!
Bọn Cả Hổ không khỏi ngạc nhiên nhưng tin tài Thần, cả bọn vùng xách
súng vọt đi họp quân nhưng mới bước bỗng nghe tiếng reo hò ầm ĩ phía cổng
trại rồi một toán lạ mặt toàn thổ dân mặc quần áo Chàm kỵ, bộ lố nhố độ bốn,
năm mươi tay súng hỏa mai nam nữ, ùa vào tiếp ứng cho bọn giặc, lập tức tên
trùm mặt hét nổ súng cả dải đồi đạn vãi xuống như mưa, quân giặc có quân
tiếp ứng càng trở nên hung hãn, vừa hò reo lao xuống đồi.
Bọn Võ Minh Thần đành phải nổ súng chặn lại. Đang cơn hỗn loạn, thình
lình nghe tiếng kèn tây thổi vang rền, tiếp liền hàng chục trái hỏa pháo bay
“bóp” lên trời, soi sáng cục trường, theo nhịp kèn xung phong, từ phía cổng trại
vụt hiện ra một đội quân mạnh phi vào như gió, dẫn đầu là một người cưỡi
ngựa tây cao lớn, cổ ngựa cắm một lá cờ hiệu thêu kim tuyến. Và ngay dưới lá
cờ hiệu, có một toán lực lưỡng phò một cô gái mặc quần áo trận, múa tít cây
súng dài, rạp mình hét lanh lảnh, hô binh nhập trận.
Bọn giặc nhiều tên đã xuống đến chân đồi, đồi lượn cung không thấy,
nhưng có toán còn ở vòng ngoài trấn cao điểm, vùng ngó ra, thấy rõ cánh quân
mạnh cờ hiệu, quần áo hiện dưới ánh hỏa pháo, nhiều tên xôn xao bật kêu:
– Lính nhà nước! Lính tỉnh vào!
– Khố xanh, lính dõng!
Rất nhịp nhàng, khi phóng vào gần tầm súng, cánh quân lập tức chạy dạt
ra theo hình cánh cung dương, phi tới đâu thả lính bộ trên lưng ngựa xuống,
súng đánh tập hậu, ngang sườn quân giặc, thế mạnh như vũ bão.
Cô gái cầm đầu cùng đám chỉ huy vừa phi vừa thỉnh thoảng lại thả “bóp”
một trái hỏa pháo, nhờ ánh sáng rực, quan sát rõ, cô gái thấy bóng ngựa quân
giặc thả lố nhố dưới chân đồi, còn quân giặc chỉ còn số ít trên ngọn, cô gái cả
mừng thét lớn:
– Bộ binh đánh thốc lên đồi! Bắt lấy ngựa không để con nào lọt tay giặc!
Lính bộ được lệnh vừa bắn vừa tiến ào ào, quân giặc một số trên ngọn đồi
bắn tràn nhưng không kịp! Bao nhiêu ngựa của chúng đều bị xua lại sau hết,
cho một toán thâu góp lại, thừa kế ngọn đồi, đánh dồn quân giặc xuống thung
trại.
Dưới trại, thấy có lính nhà nước đánh tập hậu, Võ Minh Thần cả mừng hô
gia đinh thủ hạ đánh dập tới, thành thử, quân giặc giây lát đã bị đẩy vào một
cái túi bầu dục, tứ diện thọ địch.
Bóng cô gái vọt hiện trên đồi, quát vọng:
– Bọn mi không ném súng hàng, còn đợi chi nữa? Định chết cả lũ ư?
Võ Minh Thần dòm lên, lúc đó mới nhận ra chính Thủy Tiên, cô gái quan
tuần phủ Yên Bái! Chàng trai gọi lớn:
– Thủy Tiên tiểu thư! Cám ơn đã cứu viện! Quân giặc bị vây rồi, xin nương
tay, chớ sát hại nhiều! Cứ án ngữ, để mỗ đây bắt tên đầu đảng, tên cao lớn
trùm mặt!
Dứt lời, Võ truyền bọn Quản Kình nương gốc cây, gò rãnh, tiến lên phía
trên, Thủy Tiên không chịu án binh, cũng xua quân đánh xuống.
Tình thế nguy cấp, quân giặc vỡ tan, không tên giặc nào còn ham chiến
nữa.
Gã trùm mặt biết nguy cơ đã tới, vùng khoa súng hét như sấm:
– Đánh thốc vào phía Tây! Đánh giáp phá vây! Ngựa đã bị đoạt hết,
không liều, chết hết! Theo ta!
Hắn vừa hét, vừa lao, ngoái bắn, nhưng chỉ có hơn chục thủ hạ dám liều
băng theo, còn bọn kia do dự, bắn cầm chừng, dáo dác. Vốn có đức hiếu sinh,
Võ Minh Thần tuy trong lòng đau thù thân thế dưỡng phụ chết thảm, vẫn còn
bình tâm để thấy bọn giặc phần đông chỉ là thủ hạ, theo chủ, chàng trai vùng
hô lớn cả tiếng Kinh lẫn tiếng Mán:
– Mở cho chúng một cửa sống phía Bắc! Bọn ngươi chỉ là kẻ theo lệnh
chủ, ta tha cho về làm ăn hối cải, không được dự vào việc riêng của người nữa!
Cứ chạy phía Bắc cổng trại, sẽ toàn mạng.
Tên trùm mặt hét:
– Chớ có nghe nó lừa! Đứa nào chạy ngả đó, sẽ bị nó tỉa chết! Theo tao!
Mau!
Súng nổ đì đẹt! Tuyến chiến gần lại, cuối cùng mỗi phía chỉ còn cách sáu
bảy mươi bộ, bọn Quản Kình chiếm được một cái rãnh dẫn thủy chừng giữa
thung, chạy vòng quanh gia cư cơ xưởng.
Võ Minh Thần án ngay điểm tựa đắc địa này, cứ tên nào ló tới bắn liền:
– Đường sống phía Bắc! Ta tha cho! Chậm chân, lính Nhà nước ập tới,
bọn mi sẽ chết trong túi!
Đàn giặc nam nữ, trước còn do dự, sợ hãi, sau nguy quá, một tốp phụ nữ
liều quăng súng, bỏ chạy, lũ khác thấy tốp này không việc gì, lập tức rùng rùng
bỏ chạy theo.
Tên cao lớn dòm quanh, thấy còn hơn hai mươi thủ hạ giữ tuyến, nổi giận
xả súng bắn theo, hét:
– Quân chó chết hèn hạ bỏ chủ động! Bắn chết chúng cho tao!
Hơn chục mũi súng chĩa theo nhả đạn, ba bốn bóng ngã nhào, đợi cho
đám rút chạy đã xa cách quãng ngắn, Võ Minh Thần hô to:
– Vây bọn còn lại! Bắn què! Tên đầu đảng để mặc mỗ liệu!
Quân trại lập tức tập trung súng bắn ào. Vài tên ngã nhào, vài tên dạt xa,
bỏ chạy theo bọn trước.
Một tên nấp sát tên trùm mặt, vùng bảo:
– Tình thế hỏng rồi! Chủ mau thay hình đổi dạng, trốn mau mới kịp!
Tên trùm mặt xua tay, múa súng hét:
– Anh tao bị bắt rồi! Phải liều bắt một đứa đổi mạng! Theo tao! Chết còn
hơn chạy như con cáo, con chồn!
Theo tiếng quát, tên trùm mặt cùng hơn chục thủ hạ sót lại vừa lao chồm
sấp vừa nhả đạn. Chúng còn hai cây trung liên.
Võ Minh Thần hô:
– Anh em trại án binh bất động! Để chúng đấy cho mỗ!
Dứt lời, chàng trai vẫy lia cây dù trắng. Cứ mỗi phát lại nổ bập bập, một,
hai tên bay súng, khi tên trùm mặt cùng thủ hạ lao được tới một cái hố, cách
khoảng năm mươi bộ, chỉ còn năm, sáu tay súng, thảy đều kinh ngạc, lúc đó
mới hay cây dù lạ của chàng trai còn là một cây trung liên ngầm trong nữa.
Bọn kia chiếm được cái hố, chĩa súng lên, cho là đắc địa nhất, tên trùm mặt
cười gai rợn:
– Bọn tao còn nhiều đạn. Bắt được tao, chúng mày còn mất mạng nhiều!
Cô gái Thủy Tiên đứng xa, thấy thế xua lính ào tới, nhưng Võ Minh Thần
đã hiệu cho tất cả bất động, đoạn móc cây dù bên mình, quát vọng:
– Ta không cần súng cũng bắt sống được mi! Nhưng mi có gan đánh tay
đôi không?
Không ai hiểu ý Minh Thần, tưởng chàng tính hiếu dũng. Thực ra, chàng
chỉ ngại tên kia cùng đường, tự sát mất. Hắn cũng không nghĩ ra, lớn tiếng
mắng chàng trai thách thức. Võ hô lớn:
– Mấy tên kia vô can, hãy lui xa, ta tha mạng đó! Nếu ngu muội chớ trách!
Không tên nào nghe lời, Võ quát:
– Coi đây!
Lời buông, chàng thả vụt tay phải “vèo” bay vút ra một lưỡi liễu đao sáng
loáng, vọt xé gió theo đường cung chém xả xuống hố, “vèo” tay trái, lại một
lưỡi thứ hai, chát chát! Liền hai cây súng bị chém đứt đôi!
Bọn giặc thất kinh, hụp đầu xuống, ngó lên, Võ đảo lia hai tay, thép liếm
tróc đầu chúng, sợ chém trúng, chàng vọt lên bờ rãnh, nhờ ánh hỏa pháo, thấy
rõ, chàng mới hạ xuống, chém rụng cây súng trên tay tên trùm mặt, hắn giật
cây khác, ló đầu lên, định bắn, lại bị chém đứt, cứ thế, cuối cùng chỉ còn một
cây. Võ hô:
– Tha cho bọn vô can một lần chót đó! Chạy đi không uổng mạng!
Thép lóe trốc hố, ba bốn tên dáo dác nhảy vèo lên chạy, tên trùm mặt
chĩa súng bắn, Võ thừa cơ chém sả một nhát rụng liền. Cuối cùng chỉ còn ba
tên dưới hố.
Võ Minh Thần đứng thẳng người hô:
– Ta tới bắt mi!
Lời vừa buông, chàng trai đã lắc mình vọt tới, đứng sững sau một cây trẩu
lớn, cách hố hơn mười bộ. Tên kia nhô lên, vẫy súng, bị chém bay mất. Xế
bên hữu cách dăm bước lại có cây trẩu, Võ xẹt luôn tới búng liền mấy nhát chỉ
phong cách không điểm huyệt.
Hai tên thủ hạ đứng đỡ tên trùm mặt tránh thoát, hắn thò tay rút con dao
găm nhảy vọt lên, đứng sau một cây trẩu cách cây Võ nấp chừng năm thước.
Sợ có người nổ súng, Võ hô lớn:
– Chớ ai động tay cò! Để mỗ nói chuyện! Khìn Lồi! Đến nước này vẫn
chưa chịu ra hàng ư?
Tên trùm mặt nghiến răng ken két mắng lớn, Võ quát trầm:
– Tên ngu xuẩn! Mi còn đợi dao kề cổ!
Dứt lời, chàng vụt rời điểm tựa, xẹt ngang lên, chém chát một nhát, đứt
đôi dao quắm tới chuôi. Tên này liền nhảy ra, ném chuôi dao vào Võ, vừa thò
tay rút dao găm bên sườn, đã bị Võ đánh một nhát phản phong ngã huỵch, Võ
vọt lại dằn luôn chân lên huyệt, hắn cứng đờ như khúc gỗ.
Thấy Võ Minh Thần hạ bọn đầu đảng hết sức tài tình, chúng gia đinh
thuộc hạ, nhất loạt reo hò ầm ĩ, nhiều kẻ định đuổi theo bọn đang ra cổng. Võ
Minh Thần xua tay ngăn lại, Thủy Tiên, Cả Hổ, Quản Kình cùng đám thuộc hạ
đổ tới, Võ Minh Thần cúi xuống giật soạt vải trùm mặt. Quả như dự đoán,
chính Khìn Lồi, tên Mán vẫn được coi là bộ hạ đắc lực của Cả Hổ.
Ai nấy đều kinh ngạc. Nhất Cả Hổ, từ trước vẫn coi Quản Kình, Khìn Lồi
là những tay thuộc hạ thân tín nhất của gia đình họ Võ. Cả Hổ trợn mắt, định
quát hỏi, nhưng Võ Minh Thần đã bảo Quản Kình:
– Đem hắn lên nhà trên! Còn tất cả hãy thu dọn xác chết! Liệu cơm nước
đãi khách!
Cả Hổ vội truyền quản gia, Quản Kình cúi vác luôn Khìn Lồi lên vai theo
anh em họ Võ lên đồi, Thủy Tiên cũng theo lên. Gã cao lớn vẫn nằm nguyên
đó như khúc gỗ. Võ Minh Thần lập tức giải huyệt cho y, nhưng vẫn triệt võ
công, vỗ vai hỏi:
– Bọn ngươi bại trận hoàn toàn rồi! Ta đã lấy đức hiếu sinh tha cho toàn
mạng đám thủ hạ ngươi! Còn ngươi, ta vẫn chưa rõ nguyên nhân. Cứ khai rõ!
Ta thề nếu hành động ngươi chính đáng ta sẽ tha liền!
Gã cao đưa mắt ngó Khìn Lồi, vẻ căm giận ngùn ngụt, hắn vùng cất tiếng
cười ngạo nghễ trỏ mặt Võ:
– Mày giỏi! Tao thua. Tao không giết được cả nhà mày. Nhưng giết được
cha mày cũng đủ rồi! Nay bắt được cứ giết đừng hỏi nhiều lời vô ích!
Cả Hổ nổi giận cầm báng súng định quật nhưng Võ Minh Thần ngăn lại,
ấn hắn ngồi xuống ghế, dịu dàng bảo:
– Coi ngươi cũng là kẻ can đảm, tại sao không dám nói nguyên do? Kẻ
gian tà mới phải dấu? Ngươi mưu hại cha ta vì lẽ gì?
Tên này một mực không thèm nói, Thần cố gắng hỏi, y vùng quát:
– Đừng nhiều lời vô ích! Chỉ cần biết tao đã thề giết hết giòng giống Võ,
tao làm thế thôi! Tao không khai gì cả!
Võ Minh Thần cau mày, khô giọng:
– Nếu ngươi bướng mãi, buộc ta phải dùng độc thủ! Ngươi đã học võ, liệu
cưỡng nổi chăng?
Tên này dòm lừ lừ, bất thần nhảy chồm tới chỗ Khìn Lồi nằm, bóp cổ.
Nhưng Quản Kình đá lia một phát bắn y lộn lại. Y bò dậy, câm nín, bỗng chép
miệng:
– Được! Muốn biết tao sẽ nói! Cho bát nước!
Quản Kình theo lệnh Thần rót một bát nước chè tươi đưa y. Bát gỗ tiện, y
đỡ lấy, ngồi uống từng ngụm, ung dung, rồi ngả lưng, ngửa cổ cười sằng sặc.
Bỗng tiếng cười như nghẹn, y ngoẹo cổ, im luôn. Mấy người xô lại, y đã chết,
mắt trợn ngược, máu mép chép chảy giòng, mặt xám ngoét.
Võ Minh Thần cạy miệng coi, kêu lên:
– Nó tự tử? Nó có cái răng giả chứa sẵn thuốc độc. Dẫn Khìn Lồi lại đây!
Quản Kình xốc Khìn Lồi lên, Minh Thần giải huyệt cho ngồi, dịu dàng
bảo:
– Ta mới về, được biết chú rất trung thành, bỗng dưng theo giặc phản chủ,
tất phải có nguyên nhân! Ta coi chú đâu phải kẻ sợ chết, ham tiền bạc xấu xa
phản phúc nay lại dự vào vụ này, thật lạ. Ta cần biết tại sao chú lại dự vào
việc ám sát cha ta? “Người” có làm chú thù hận chi? “Người” ác nghiệt với
chú? Phải có nguyên nhân chứ? Trượng phu dám làm dám chịu, cứ nói ra đây?
Nếu chú làm phải, ta sẽ tha? Phụ thân ta đối xấu với chú chăng?
Khìn Lồi, máu lai Kinh, vốn có máu người miền núi, cương ngạnh, sẵn
sàng chịu chết, nhưng trước thái độ hòa dịu và lời lẽ ngọt ngào của Võ Minh
Thần, Khìn Lồi thấy xúc động, thở dài, ôm mặt, lắc đầu lia lịa:
– Không, không! Ông chủ tốt lắm, ông chủ không làm gì xấu. Khìn Lồi
không thù oán nhà họ Võ… nhưng Khìn Lồi theo lời thề. Khìn Lồi phải trả thù…
hãy giết Khìn Lồi đi? Lồi không phải người nhà họ Võ, là kẻ thù, giả vào ở để
báo thù… Trời! Để anh em giết ông chủ, Lồi buồn, nhưng còn lời thề trên
rừng… Lồi muốn chết! Anh em Lồi chết hết rồi…
Tuy y không nói gọn ghẽ mạch lạc, nhưng mọi người cũng hiểu qua tình ý,
Võ Minh Thần nghe hai tiếng “trên rừng” trống ngực đập mạnh, mừng rỡ hết
sức, chìa cổ tay đeo vòng trước mặt y, hỏi:
– Khìn Lồi! Biết món này chứ? Vật này dính đến chuyện trên biên giới
đây!
Nhưng Khìn Lồi mở to mắt, ngơ ngác, lẩm bẩm:
– Cái này là vòng ngọc thạch… để làm gì? Đàn bà Kinh, Tàu hay thích
đeo!
Minh Thần lại chìa nửa đồng tiền, y vẫn lắc đầu. Chàng trai lạ lùng, gặng
hỏi mãi, Khìn Lồi bèn kể qua chuyện ám sát ông già họ Võ. Nguyên nhân mối
thù truyền tử, chỉ vì chuyện buôn lậu ngược xuôi va chạm.
Hồi đó, có mấy đám buôn lậu lớn, Kinh, Mán, Tàu, Tây… xuôi ngược, từ
mạn đồng bằng Hà Nội lên biên giới, đường ai nấy đi, mối ai nấy bán. Nhưng
vì giới buôn lậu đủ hạng tứ chiếng, anh hùng có, tiểu nhân có, nên thường
xuyên xảy chuyện chặn cướp hàng nhau, tố giác với lính Đoan, khố xanh tuần
cảnh.
Con đường và vùng hoạt động của phe nhóm ông già Võ Minh Phong vẫn
là đường Hà Nội, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng hoặc Hà Nội – Lạng Sơn,
sang bên Quảng Tây, Quảng Đông. Nhưng năm đó, con đường này “động”
mạnh, lính đoan, lính khố xanh khắp mấy vùng thượng du rình rập, phục bắt
gắt, đã xảy ra một, hai vụ chạm súng.
Vì cần giao hàng đúng hẹn, Võ Minh Phong buộc lòng phải kiếm con
đường khác và lão chọn con đường Hồ Kiều – Lào Cai, Yên Bái, nửa chừng lái
chuyển Lục Yên Châu, mới đổ xuôi… Vùng này thuộc khu “hùng cứ” của tù
trưởng Mán Khìn Lầm, một tay chúa tể rừng già Lục Yên Châu chuyên giao
thiệp với người Tàu, cầm đầu các cuộc buôn lậu vùng đó. Đoàn buôn lậu tải
hàng đến gần vùng Lục Yên Châu, Võ Minh Phong bèn cùng một số thủ hạ vào
tận động Mán gặp Khìn Lầm, để “mượn đường” theo đúng phép xã giao của
các tay giang hồ tứ chiếng.
Tới nơi, được Khìn Lầm đón tiếp rất nồng hậu, lại bày cuộc vui đãi khách,
gọi vợ ra chào. Vợ Khìn là người Kinh theo cha mẹ phiêu dạt lên mạn Tuyên
Quang buôn bán, rồi lấy Khìn Lầm, chẳng may trước dưới xuôi, lại là người
tình của Võ Minh Phong. Gặp nhau, cả hai cùng sửng sốt, vẻ lúng túng của
nàng lọt vào cặp mắt Khìn Lầm.
Khìn hỏi, nàng cứ thật tỏ bày, gã khách thương Ả Lường, một trùm buôn
lậu, biết chuyện, âm mưu xúi Minh Phong rủ vợ Khìn bỏ trốn, Minh Phong
cùng thủ hạ tìm kế rút khỏi động về trại giữa rừng, bị tù trưởng Khìn Lầm cùng
Ả Lường đem tay chân, thổ dân đến đánh trại.
Nhưng Minh Phong đã kịp đề phòng, dùng kế “không thành” rút cả lên
đồi, để trại không, Khìn Lầm, Ả Lường xua quân vào, bị chặn đánh tan. Ả
Lường vỡ đầu chết, Khìn Lầm bị một phát đạn vào bụng được hai người con
phò chạy về động, đạn trúng ngay mép giây súng, cưỡi ngựa nhấp nhổm, giây
da bịt lấy máu, về xuống ngựa cởi giây lưng, máu ộc ra, chết liền. Trước khi
nhắm mắt, viên tù trưởng còn trối lại cho bốn người con phải báo thù họ Võ.
Nhưng rồi một kẻ ốm chết, còn ba người kia, có hai người bị Võ Minh Thần
bắn hạ, tự sát, còn Khìn Lồi bị bắt sống.
Lồi mắt đỏ hoe run giọng:
– Khìn Lồi vào đồn điền để báo tin cho động. Lồi biết đã ở với người, mà
lợi dụng lòng tin hại người là bất nhân, bất nghĩa, nhưng vì cha vì anh sai bảo.
Giờ cha anh chết hết rồi, hãy giết Khìn Lồi này đi! Đừng hỏi nữa! Cho Lồi đi
theo cha anh!
Người con tù trưởng Mán Lục Yên Châu ôm lấy mặt, không dám nhìn anh
em họ Võ cùng bọn Quản Kình, Võ Minh Thần nghe qua chuyện thù xưa, lòng
buồn hiu hắt, biết dĩ vãng thân thế mình không dính dấp gì tới câu chuyện Lục
Yên Châu. Bèn thở dài, kéo Cả Hổ vào chỗ bàn bạc, đoạn quay bảo Khìn Lồi:
– Chuyện thời xưa, chính lỗi tại cha chú đã nghe lời tên khách Lường,
chuốc họa vào thân, còn buộc con trả thù khốc hại là quá lắm! Để cha ta phải
thác giữa buổi gặp con, tội đáng tru diệt. Nhưng nghĩ thương chú cũng là hiếu
tử, nay cha, anh đã chết, giòng họ Khìn chỉ còn mình chú, vậy anh em tôi nghĩ
tình tha cho về mà hương khói cha, anh nối giòng tù trưởng Lục Yên Châu!
Khìn Lồi! Chú hãy vào lễ vong hồn cha ta cùng lão Sềnh, rồi trở về động cũ,
chớ nán lại đây mà mang họa!
Khìn Lồi cảm động rống lên, định đập đầu tự sát, bọn Quản Kình phải
ngăn lại, khuyên nhủ mãi Lồi mới chịu sang sụp lạy trước bàn thờ ông già họ
Võ, lão Trưởng Sềnh. Lại sụp lạy anh em Võ Minh Thần, cáo biệt bọn Quản
Kình và ngay đêm đó xin thồ hết thương binh, xác chết về thẳng miệt Lục Yên
Châu. Võ Minh Thần lại nói với Thủy Tiên trả lại một số ngựa thồ, đoạn làm
tiệc khao quân.
Định lưu lại đồn điền Yên Bái hết tuần tứ cửu nhưng lòng đau thân thế dĩ
vãng dày vò nóng như lửa đốt, chàng trai họ Võ chỉ ở lại thêm một hai bữa
không sao chịu nổi phải từ biệt Cả Hổ cùng đoàn gia nhân thuộc hạ lên đường.
Tất cả cố lưu lại không được, Quản Kình ngậm ngùi bảo:
– Nay cậu hai quyết đi ngay, đường xa thăm thẳm phải có người hầu, cậu
hai cho Kình này đi theo mới được! Kình biết rõ cả miền thượng du, biên giới
có thể giúp cậu hai nhiều việc.
Võ Minh Thần không muốn vì mình, y chịu cực nhọc nguy hiểm nhưng
Quản Kình quyết theo, chàng phải cho theo. Cả Hổ làm tiệc tiễn hành, sửa
soạn hành trang, tiền lộ phí, chọn hai con ngựa khỏe cho hai thầy trò, buổi ra
đi đầy nước mắt. Cả Hổ dẫn người nhà đưa tiễn tận Yên Bái, lại gặp Thủy Tiên
chạy theo đưa, hết lời căn dặn, quyến luyến khôn cùng.
Hỏi thăm chẳng ai biết núi Đầu Ngựa phương nào, Quản Kình bàn:
– Xưa cụ nhà thường ngược đường Đông Bắc biên giới nhất vào khoảng
mười bảy, mười tám năm trước, vậy giờ ta cứ đi xuyên Yên Bái – Tuyên Quang
sang Thái Nguyên rồi ngược đường Bắc Kạn – Cao Bằng tới đấy rồi sẽ liệu.
Võ Minh Thần khen phải, lập tức cùng Quản Kình, hai người hai ngựa
xuyên sơn nhằm hướng Đông Bắc đi miết.
* * *
Thượng du đất Bắc từ Vĩnh Phú đổ lên đều là những miền núi đồi trùng
điệp, người ở Kinh thường ở các vùng sơn trấn lớn nhỏ và các phố rừng, đồn
trại bên sông dọc các đường giao thông. Những rặng đồi cao vợi, mờ sương sau
các dãy núi đá ngửa trời đều là giang sơn của các sắc dân tộc sơn cước như
Mán, Thổ, Thái, Trại, Nùng, Dao, Hmông, Lô Lô, Khạ, Nhắng, Mèo, v.v…
Riêng bộ tộc Mường, một sắc tộc hiện còn mang nhiều sắc thái Văn Lang Giao
Chỉ nhất trong phong tục, ngôn ngữ, phả hệ thì ở hẳn miệt Tây Bắc từ cuối
Hắc Giang lưu vực sông bờ Hòa Bình, tiếp giáp Thượng Lào đổ xuống Ngũ
Châu Thanh Hóa xuyên Đông qua Kim Tân, Thạch Thành…
Vì không có đích tới nhất định, Võ Minh Thần cùng Quản Kình cứ noi
theo con đường xuyên sơn qua Tuyên Quang sang Thái Nguyên nhiều khi lần
cả vào những động Mán, Mèo thâm sơn hỏi thăm nhưng trăm người như một
đều lắc đầu không ai biết núi “Đầu Ngựa” phương nào cả, cứ thế đường trường
rong ruổi ngày đi đêm nghỉ, những lúc nhàn rỗi Võ Minh Thần lại đem võ
nghệ bí truyền dạy thêm Quản Kình, nhờ vậy Quản Kình võ nghệ tiến bộ vượt
bậc, hai người ngày thêm tương đắc. Thấm thoát đã hết tháng tám ta, hai người
tới trấn Cao Bằng trọ lại một ngày nghe giới khách thương kháo nhau dạo này
vùng biên giới nhiều thổ phỉ, đạo tặc hoành hành thường chạm súng với lính
Nhà nước. Võ Minh Thần bàn với Quản Kình rồi hai người lên ngựa ngược
đường biên thùy ngang chếch miền Trùng Khánh Phủ, chiều kia khoảng ba,
bốn giờ vó ngựa xuyên sơn dừng tại vùng biên địa cách lãnh địa tàu chừng
năm, bảy dặm giữa một miền sơn kỳ thủy tú dưới chân một con thác đổ.
Lối mòn xuyên sơn này trước là lối đi của thổ dân sau giới buôn lậu dùng
để xuyên biên, bọn giặc cỏ cũng thường lai vãng nên vẫn xảy ra những vụ
chạm súng, không mấy ai dám qua lại một, hai người. Chặn cướp, giết người
sau chỉ chừng trăm thước là lạc lối mây ngàn, trăm tay súng không làm gì nổi.
Quản Kình bảo:
– Đây đi chừng hai dãy núi rẽ tay trái vài dặm tới một bản Mèo trên ngọn
đồi biên, tới đó có thể thấy đất Tàu. Nhưng đường đi nhiều bất trắc, ta có thể
xuyên qua phía Đông chừng mười dặm cũng có bản Nùng!
– Nghỉ đây lát sẽ liệu! Quái! Sao bữa nay đường này vắng vẻ thế?
Hai người xuống ngựa thả hai con vật gặm cỏ, uống nước bên dòng và rủ
nhau xuống nhảy ra một tấm thạch bàn cách chỗ thả ngựa chừng vài chục
thước.
Võ Minh Thần ngắm cảnh rừng chiều mươi giây vừa cúi xuống cùng Quản
Kình vốc nước rửa mặt, thình lình nghe tiếng ngựa ré lên một tiếng, cả hai
ngoảnh nhìn lại thấy một con cọp xám ba chân từ khe núi nhảy chồm ra vồ
con ngựa hồng của Võ Minh Thần, con ngựa kia hoảng lồng hí mạnh!
Lẹ như chớp, Võ Minh Thần vừa đứng thẳng người lên, vừa thả vụt tay ra
“véo” ngọn liễu đao bay vút tới như giải lụa bạch nhưng con cọp xám này
nhanh hết sức, nó đã vồ được con ngựa nhảy lộn vào khe núi, liễu dao chém
hụt được cái chòm đuôi, nó đã tha ngựa mất dạng.
– Chà con quái này gớm thật!
Chàng trai lắc mình vọt theo tiếng quát nhưng khi hạ chân chỗ ngựa bị
vồ, con cọp đã lẩn mình vào bụi rậm chân núi. Minh Thần chợt nghe tiếng
ngựa kêu lập tức chém “véo véo” cả hai tay vào bụi rậm xế tay tả vài chục bộ.
Rào rào rắc rắc! cành lá đứt bay lả tả, vọng có tiếng cọp rống rồi im.
Võ Minh Thần thu dao chạy tới thấy con ngựa đang nằm dãy chết, cổ bị
cắn, mình mẩy đầy vết vuốt nhọn cắn cào, cách đó vài bộ, con cọp xám nằm
vắt mình trên một phiến đá, chân sau đứt lìa rụng bên một gốc cây cụt, gáy nó
bị liễu đao chém gần bay, đầu đầy máu vung vãi, nó nằm sấp, hai mắt còn
trợn ngược thở khò khè.
Quản Kình chạy tới, con ngựa hồng chết hẳn. Hai người còn đang đứng
nhìn con ngựa tiếc vật đỡ chân bỗng nghe tiếng chó sủa ran rồi từ phía đường
mòn cách độ vài trượng bốn, năm con chó lớn chạy xộc vào vây lấy hai người,
chờn vờn gừ gừ rất dữ, có con nhảy lại cắn con cọp tha đi nhưng không nổi.
Quản Kình nổi giận lia chân đá bịch một ngọn cước bắn tung luôn một
con vừa chồm chân y. Võ Minh Thần xua tay đuổi đàn chó:
– Đừng đánh! Hình như chó có chủ! Chắc chó săn?
Quả chàng đoán không sai, ngay khi đó bỗng nghe tiếng vó câu rầm rập,
lẫn tiếng quát lanh lảnh, rồi một bầy sáu, bảy bóng gái rừng phi ngựa tới như
con lốc.
Ngựa dừng rập, sáu nàng xinh xắn, mặc quần áo chàm, tay cầm súng,
sườn đeo dao quắm phò một nàng rất đẹp, mày xếch, mắt phụng trạc mười
bảy, mười tám coi thông minh, ngược ngạo hết sức, nhưng trên khuôn mặt
dáng dấp vẫn toát nét quý tộc của các giòng tiên vương sơn cước.
Nàng mặc quần áo giống gái Thái đen, áo bó, phá lảnh bó đầu bằng satanh
huyền, cạp, gấu, chần thủy ba kim tuyến, chân đi hài sảo, ngoài còn
khoác một cái áo choàng quá gối cũng màu đen viền kim tuyến, như lối gái
Mường Tây Bắc, chỉ khác chút Mường chuyện khoác áo trắng.
Tay nàng cầm một cái lưới thép nhuyễn, vừa phi vừa quay xòa lưới, thấy
bóng người dừng lại, thu lưới, đưa mắt ngó cọp. Võ Minh Thần, Quản Kình,
con chó bị đa đang kêu ăng ẳng, vùng cất giọng thánh thót nói:
– Ai vừa đá con chó săn? Ai chém con cọp ba chân này? Tôi đuổi nó từ
cánh rừng bên?
Tiếng Thổ, giọng ngạc nhiên hơi gay gắt nhưng véo von như tiếng chim
rất dễ nghe, Võ Minh Thần đáp luôn:
– Con cọp này vừa vồ mất ngựa! Tôi chém nó, không cứu được ngựa. Con
quái này gớm thật! Bị săn đuổi vẫn vồ mồi! Còn con chó này tôi đá vì nó chồm
cắn chân, lúc vội tưởng chó rừng!
Cô gái cau mày liễu, quát lên một tiếng rất lạ tai, con chó bị đá chạy lại
nằm soài trước đầu ngựa của cô gái, nàng này rút luôn cây roi da quất đen đét,
con chó rên ư ử, tỏ vẻ khiếp sợ hết sức, nàng mắng lớn:
– Cẩu trệ! Dạy mãi vẫn còn vô phép! Chưa có lệnh sao dám cắn người?
Về, tao treo mày lên một ngày nữa!
Võ Minh Thần thấy cô gái sơn cước này trị tội chó như người, xem chừng
con chó rất khôn, biết tội nằm chịu đòn, chàng trai ái ngại vội tiến lại, từ tốn:
– Thôi cô nương nên tha cho nó! Có lẽ nó cắn vì nó giữ con mồi cho chủ
đó! Nó bực bọn mỗ sao dám giết mất con vật chủ đang săn đuổi!
Cô gái nghe lời, bèn tha cho con chó, nàng quát lên một tiếng, con chó tỏ
vẻ mừng rỡ, ve vẩy đuôi, chạy ngay lại trước hai người, gục gục đầu kêu, hí hí,
rồi quỵ luôn hai chân trước xuống. Võ Minh Thần vội ra hiệu cho con vật đứng
lên đoạn quay bảo cô gái rừng:
– Cô nương luyện được bầy súc vật khôn dữ á? Không thua chó phường
xiếc!
Cô gái hình như chẳng hiểu “phường xiếc” là gì, nhưng cũng nhoẻn miệng
cười, hỏi:
– Ông lên biên giới… có việc chi?
Sực nhớ ra, Minh Thần điềm đạm:
– Cô nương chắc ở miền này, có biết núi “Đầu Ngựa” phương nào chăng?
Cô gái quay nhìn đám gái tùy tùng nói líu lo với nhau đoạn hỏi:
– “Núi Đầu Ngựa” phải Mã Đầu Sơn không? Tôi nghe nói tới Mã Đầu Sơn,
Ngưu Đầu, nhưng hình như không phải bên Nam này! Có lẽ bên đất Tàu thì
phải! Nghe nói bên đó có núi Mã Đầu!
Cả mừng, Võ lễ phép:
– Cám ơn cô nương nhưng chẳng hay núi đó thuộc vùng nào?
Cô gái lắc đầu:
– Chính chị em tôi cũng chỉ được nghe qua thôi! Hình như bên Quảng
Tây? Mà ông hỏi làm gì?
– Tôi có việc cần gặp chúa núi “Đầu Ngựa”.
– À! Nếu vậy ông nên cẩn thận! Tôi nghe thiên hạ đồn Chúa núi “Mã
Đầu” dữ tợn như cọp đó! Y bắn Pạc Hoọc như sấm sét, con ruồi bay cũng trúng
à!
Hai bên trao đổi vài lời rồi cô gái chào Võ, Quản, bọn tùy tùng, chó săn
phóng ngược lên biên giới. Võ Minh Thần cùng Quản Kình đứng lại bàn nhau
tháo cả yên cương hành lý chất sang con ngựa còn lại, đoạn cả hai hì hục đào
lỗ chôn con ngựa bị cọp táp chết. Quản Kình thấy chủ khát lại đốt đèn cồn,
nấu nước pha trà uống rồi mới lên đường!
Đang lúi húi sửa soạn, chợt thấy sau lưng hai người có tiếng động lạ, cả
hai vội ngoảnh lại giật mình ngạc nhiên thấy một con quái thú dị hình cổ kim
không có từ sau mành thác xé nước chồm ra như tên bắn. Con ngựa giật cương,
hoảng hồn, Minh Thần thấy con thú sán tới, lập tức nhảy vọt ra chặn lối.
– Con quái kia đứng lại!
Con thú cứ phóng, chàng trai vung tay đánh vụt một nhát phản phong.
Bùng! Kình phong trúng con thú, con thú bắn lùi mấy thước, nhưng gượng được
ngay, nó rống lên, nổi hung phóng tới. Chát! Quản Kình phóng tiếp liền một
lưỡi đao, xuyên lớp rêu cỏ, đứt bay khóm hoa lan, con thú dùng đầu, bắn tung
dao lên trời, nó xé nước chồm tới chỗ Võ Minh Thần, chàng trai đánh “bùng”
một nhát phản phong nữa, con thú bật nhào xuống suối, hoa cỏ vỡ tung từng
mảng, nhưng nó mạnh tợn hết sức, rống chồm luôn dậy.
Quản Kình chụp cây súng trường, Minh Thần nhác thấy quát:
– Chớ bắn! Lạ dữ! Con thú này mình đồng da sắt… coi như con Long Mã,
để bắt sống!
Con thú xé ngang bờ tây, định phóng vào cánh rừng bên, Minh Thần vụt
chặn đường, hét:
– Quái vật! Chạy đâu thoát! Xem mi chịu nổi đòn này không?
Chỉ nghe “véo” tiếng như xé lụa, rêu cỏ hoa lá trên mình con thú bay xoay
tít như gặp cơn lốc, nhưng lạ thay con thú vẫn không hề gì, chỉ thấy nó chồm
dựng hai chân sau thở phì một hơi mạnh, vùng đầu, ngoắt quay chạy về phía
Quản Kình. Quản Kình áp lại định chém, nhưng Võ Minh Thần vùng hô lớn:
– Khoan! Đừng đâm chém nữa, tốn sức! Không loại gươm giáo nào chém
nổi nó đâu! Đúng là con “Mạc” rồi!
Ngạc nhiên, Quản Kình hỏi:
– Con “Mạc” là con chi! Cậu hai sao biết?
Võ từ tốn:
– Con Mạc thú này không có cha mẹ, không thai sinh, nó chính là giống
khí sinh. Nó thọ chất kim khí dưới đất mà sinh ra, bản chất nó là kim khí nên
kim khí không phạm tới được! Miền Trùng Khánh phủ này vốn là vùng có
nhiều mỏ, kim khí kết tụ tinh chất thành Mạc thú! Xưa nay hãn hữu, chỉ có về
đời Đông Châu có lần xuất hiện!
Nói xong, bằng tay không, Minh Thần tiến lại, mắt liếc con dị thú. Lạ
thay! Con thú này không bỏ chạy, nó cứ giương mắt dòm, nhãn tuyến nó đỏ
khé như con mặt cọp ăn đèn săn.
Lẹ như tên, chàng trai vọt lên lưng, bóp chặt cổ, con Mạc thú ằng ặc ngạt
thở, nằm lăn xuống dãy đành đạch, chết liền.
– Hảo thần lực! Con quái vật tắt thở rồi!
Quản Kình la to, chạy lại.
Thấy con thú đã chết hẳn, Quản Kình bèn lập tức nhóm lửa đốt da nó cho
mềm ra, xong hai thầy trò lội da, lóc thịt lấy mớ xương lớn rửa sạch bó lại, rồi
hai người dắt ngựa, tiếp tục lên đường theo lối mòn xuyên sơn nhằm biên thùy
đi miết.
Rừng già quạnh quẽ, mặt trời đã xuống gần rặng núi phía Tây, cảnh lâm
tuyền đang chuyển sang màu đỏ úa, sương lam bắt đầu chặn ngang đèo. Vài
tiếng gà rừng eo óe gáy cuối thung… buồn tênh.
Vượt qua hai cánh rừng, đường mòn xuyên qua một hẻm núi đá, hai người
vừa vào đầu hẻm, bỗng nghe có tiếng chó sủa nẻo trước, tiếng rống lên chợt tắt
như nức nghẹn.
Đi mười thước, lại nghe có tiếng người rú, giọng kim nhọn hoắt, như con
heo bị thọc huyết, cũng vút cao, rồi chợt tắt, cảnh rừng chiều lại im lìm đến
rợn người.
Võ Minh Thần hơi nhíu mày lẩm bẩm:
– Tiếng xa lắm! Có lẽ bên kia hẻm núi! Chắc có kẻ bị nạn?
Quản Kình nhìn quanh bảo:
– Nẻo trước có một con đèo hiểm trở, năm nào cũng có người ngã xuống
vực!
Hai thầy trò rảo bước qua hẻm núi, vừa sang đầu bên kia, chợt thấy một
con ngựa nằm chết dưới chân núi, ngay cửa hẻm. Hai người lại gần, càng ngạc
nhiên thấy mõm con ngựa bị bửa đôi, như bửa gáo dừa, ngoác tận cổ họng,
máu me bê bết, dòm kỹ, cả bộ óc ngựa biến sạch, chỉ còn cái sọ rỗng.
Dòm xuống bụng con vật khốn nạn, chỗ ngực bị thủng lỗ lớn, vừa bàn tay
người, một dãy mỡ bầy nhầy bê bết máu vắt vung vãi.
Đi thêm mười bộ nữa, ngay cửa rừng lại một con vật nữa, nhưng là một
con chó lớn lông vàng, cũng bị phanh như con ngựa. Hai người ngó quanh.
Rừng chiều im lìm, chợt Quản Kình gọi giật khẽ:
– Kìa cậu Hai!
Võ nhìn theo tay Kình trỏ, thấy một chiếc hài sảo vắt trên cành cây lòa
xòa. Cả hai tiến lại, cây cối um tùm, gió thổi rào cành lá. Quản Kình dắt ngựa
đi sau chủ, bỗng giật mình, thoáng bị một bàn chân trên cao thò xuống khều
trúng trán, Kình vốn tay gan lỳ, phải kêu “rú” lùi phắt lại, rút dao quắm.
Võ ngoái lại, cũng giật mình, thấy rõ bàn chân người đu đưa vắt vẻo khều
khều. Kình định chém, Võ kịp xua tay, vì trên bàn chân, không có gì cả. Ngó
kỹ, thì ra đó chỉ là một bàn chân người đứt tận háng nằm vắt trên mớ giây leo,
gió đưa võng, coi không khác người núp trên thò xuống khều.
Quản Kình trợn mắt thờ phì, thò tay nắm ống cẳng người lôi xuống. Ống
chân đàn bà còn nguyên ống quần chẽn đẫm máu, giầy văng đâu mất, sờ cẳng
chân còn nóng hổi, đúng vừa lìa khỏi thân thể!
Võ Minh Thần bảo Quản Kình:
– Bọn gái đó chắc bị nạn dữ rồi! Nhưng sao không nghe súng nổ, người
kêu đầu hẻm? Chỉ có tiếng rú tít xa…? Không lẽ thổ phỉ? Cô gái áo đen võ nghệ
cũng khá, nếu gặp thổ phỉ sao không bắn kịp một phát súng?
Cả hai đều cho quái gỡ, Quản Kình nhìn vết thương đứt nham nhở như bị
hàm răng nhọn sắc gặm cắn, người đàn ông tứ chiếng này bỗng nắm lấy vạt áo
tiểu chủ, kêu thì thào:
– Cậu Hai! Không phải giặc cỏ! Trời! Nếu vậy đúng “nó” rồi! “nó”… con
quỷ rừng chuyên ăn tim óc mật người ta, ăn cả tim óc loài vật!
Ngạc nhiên, Võ hỏi dồn:
– Chú bảo sao? Nó… con quỷ rừng? Chú đã thấy nó?
Mặt Quản Kình chợt hiện nét kinh hoàng:
– Chưa cậu! Hai năm trước, tôi có việc đi Hà Giang, thoáng thấy “nó” moi
tim một cô gái Mèo… coi hình thù con quỷ rừng đó giống con đười ươi cực lớn,
cái đầu nó to bằng cái thúng! Suýt tôi bị nó thấy. Thổ dân bảo con quỷ này
biến hiện như cơn gió thoảng, bắt gặp ai, kẻ đó khó thoát. Nó thích nhất đàn
bà con gái!
Câu nói của Quản Kình khiến Võ Minh Thần nghĩ ngay tới vụ bắt cóc
Thủy Tiên trên đường Yên Bái Tuyên Quang, chàng trai vùng bảo:
– Nếu vậy bọn cô gái lạ nguy rồi! Ta thử lên đèo coi! Chú đi sau!
Dứt lời, chàng lập tức dùng thuật khinh công, phóng qua thung lũng, lên
đèo. Nhưng được chừng một trăm thước, lại gặp một cái thây nữ bị xé rách
xiêm, đầu bửa đôi, chỉ còn sọ rỗng, người cũng bị khoét thủng lỗ lớn, mất hết
tim gan mật, máu me đầm đìa, thây còn nóng hổi, coi hết sức thê thảm! Chàng
trai dòm dưới đất thấy nhiều dấu chân lớn gấp rưỡi chân người in nhầu mặt cỏ,
cau mày lẩm bẩm:
– Chân người không to thế này! Đúng dấu đười ươi dã nhân chi đó!
Bèn vọt đi ngay, tới giữa thung lũng, bỗng nghe có tiếng chó sủa rộ, phía
trước, Võ Minh Thần tiến về hướng phát âm, gặp một con suối chảy ngang,
chàng trai ẩn sau một thân cây lớn thấy một con chó săn chạy chếch về nẻo
Tây, vừa chạy vừa ngoái cổ hếch mỏm sủa, vụt từ sau một lùm cây có một hình
thù quái dị bắn ra, rượt bắt con chó.
Hình này cao độ thước bẩy, giống hình người, hai tay hai chân, lưng bằng
cái phản, to trùng trục, đầu gần bằng cái thúng, trán dồ, mắt lồi, mồm rộng
ngoác như chậu máu, hai nanh chìa trắng ởn, khắp mình lông lá xồm xoàm, kẻ
bạo gan ngó thấy cũng phát ớn.
– Đười ươi! Con này còn lớn hơn con bắt Thủy Tiên! Có lẽ con “quỷ đười
ươi” Quản Kình vừa kể chăng?
Võ Minh Thần lẩm bẩm. Con quái vật này thân xác to lớn, nhưng chạy
nhanh dị thường, loáng cái nó đã đuổi sát con chó săn. Con chó vừa chạy tới
gần bờ suối lập tức co cẳng nhảy vọt ra. Không dè con quái vật kia lẹ đến thế,
chỉ thấy nó chúi nửa mình, thò vụt bàn tay lông lá ra, đã vồ được ngay cẳng
sau con chó, lúc con chó còn lơ lửng trên cao.
Con chó dãy dụa, kêu ẳng ẳng, con đười ươi to đầu cầm dốc ngược con
chó, nó đứng bờ suối, nhe răng cười ré lên, ngoảnh mặt dòm mặt trời đang lặn
phương Tây, qua màn sương lam, to như chiếc mâm đồng nung đỏ. Con chó
kinh hoàng dãy đành đạch, cố ngoái cổ lên cắn tay đười ươi, con đười ươi thò
tay kia vỗ vào mõm chó làm nó khiếp sợ kêu ẳng ẳng.
Võ Minh Thần thấy con đười ươi cầm con chó lớn như bêu con ngóe,
không khỏi phát gớm, nghĩ thầm:
– Người ta vẫn bảo giống đười ươi thường vồ con mồi, đứng dòm mặt trời
lặn mới ăn thịt, nay thấy quả không sai, xem chừng nó chạy nhanh như gió,
chẳng biết bọn cô gái kia có người nào thoạt nạn? Nếu thoát, sao không nghe
tiếng súng nổ?
Bèn vận điện công, toan nhảy lại chém con đười ươi quỷ, nhưng Võ vừa
chuyển mình sắp phóng ra, xịch nghe tiếng động, từ phía mặt trời lặn vọt ra
một con thú dị bốn chân, rêu phong hoa cỏ giây leo đầy mình.
Trong bụi vọt ra, nó hùng hục nhảy vụt qua suối, đâm thẳng về phía con
đười ươi đứng cách năm, sáu sải, nó chồm đứng hai chân sau, rống lên dữ dội,
con quỷ sống dòm ra, thấy con thú bốn chân, nó lập tức nhe răng nanh cười ré
lên khủng khiếp, tay bêu con chó, đưa ngay lên miệng cắn “bốp” cái, bửa đôi
đầu con chó, nó thò tay kia khoắng óc, bóp óc bỏ tộp mồm nhai nhồm nhoàm,
lại đưa gáo dừa lên húp chùn chụt, óc trắng bã dính máu be bết hai bên mép,
nó lại móc ngực con chó, moi tim gan mật ra, lòng thòng cả ruột non ruột già,
nó nuốt chửng tim gan, con chó đánh đu trước bụng nó cắn đứt “phựt” bộ lòng
cùng con chó ngã rớt bịch xuống đất, còn dãy đành đạch như đỉa phải vôi!
Con quỷ sống bửa sọ hút óc moi tim, nuốt chửng, cử động thần tốc, chỉ
mất mấy giây, gọn như người ta móc túi lấy kẹo bóc ăn, khiến Võ Minh Thần
cũng phải ghê, con thú dị hình long mã xông luôn vào húc, đá, “bịch bịch”
trúng bụng con đười ươi, con quỷ sống này nổi giận xông vào, vồ “chát” vào cổ
con thú, hai con quái vật cùng vật nhau kêu rống vang động lâm tuyền, con thú
dị táo tợn hết sức, húc đầu vào ngực con đười ươi.
Con đười ươi vừa bóp cổ vừa nhe răng táp ngoạm “chát” trúng mõm con
thú vẫn không đứt, nhưng có vẻ đau, nó rống lên vùng đẩy mạnh đười ươi, con
thú bắn dội tới hai thước, ngã huỵch, lẹ như chớp, con đười ươi nhảy chồm lại
đè lên con thú, con thú chồm dậy, đội cả con đười ươi lên, nhưng con đười ươi
cứ kẹp cứng hai bên hông, nhe răng cười ré, bóp cổ.
Võ Minh Thần đứng coi, chứng kiến con quỷ sống bửa đầu hút óc con
chó, đánh với con thú kia, xem chừng thắng thế, chàng trai nhảy vọt lại, quát
lớn:
– Con quỷ đười ươi! Không được làm dữ! Tao chém mày, trừ hại cho dân
biên thùy! Thú bốn chân không sợ! Tao giúp mày!
Đang bóp cổ, con quỷ sống to đầu, nhác thấy bóng người, nó có vẻ thích
trí quay dòm, hai con mắt ốc nhồi sáng đỏ tựa đèn pha, nó cười ré lên quái gở,
Võ Minh Thần đã xẹt tới đến bên này suối vụt chém tay ra.
“Véo” soạt tiếng xé lụa liễu đao nhoáng vòng cầu, chém xả xuống đầu con
đười ươi nhanh như làn chớp lóe.
Đang cười ré, con quỷ im bặt, nó vung luôn tay ra gạt luồng sáng bạc,
không dè luồng thép mạnh kinh người, “phựt” trúng tay con quỷ đứt luôn hai,
ba đốt, ánh thép bổ xuống, con quỷ giật bắn mình cúi vội, thép liếm xoẹt
mảng thịt vai sau khi phạt đứt phăng mảng lông tóc bù xù.
Con đười ươi rống lên, chừng lúc này đã hiểu sức mạnh lạ thường của
luồng thép nhoáng, nó vùng bỏ con thú dị, nhảy vút vào bụi rậm gần đấy. Võ
chém với liền mấy đường, rào cành lá bờ bụi đứt bay xơ xác, sau mớ lá cành lả
tả, chàng trai thoáng thấy bóng con đười ươi chạy biến về hướng Đông.
Không chậm trễ, Võ nhảy vọt qua suối băng trước đầu con đười ươi dị thú,
nhưng đến được chỗ bụi rậm, dòm chẳng thấy dáng con quỷ sống đâu nữa.
Chàng trai cứ cắm cổ lao về hướng đó. Được quãng ngắn bỗng nghe tiếng rống
sau lưng, chàng vội ngoảnh lại mới hay con dị thú đang hùng hục đuổi theo
như gió.
Chàng trai vùng quát:
– À con quái này! Mi còn muốn làm dữ với ta sao?
Con thú chạy xé lên. Võ chạy chậm chân, con thú xẹt vòng qua chàng, nó
rống lên dựng chồm cách năm, ba bộ, khiến Võ phải đứng lại, định chém.
Lạ thay! Bỗng thấy nó vụt tới trước mặt Võ, rống một hồi rồi nó phủ phục
luôn xuống gật gật cái đầu, hai chân trước quỵ. Kinh ngạc, Võ Minh Thần trố
mắt nhìn, quát:
– Quái thú! Mi phục trước mặt ta, có ý chi? Mi không muốn ta rượt giết
con quỷ đười ươi đanh ác kia?
Rất lạ, con dị thú lắc đầu nhai khan, gầm gừ, Võ ngó thẳng mặt nó, hai
con mắt sáng quắc xếch nhọn ẩn giữa lớp rong rêu cành là rườm rà, quát:
– Vậy mi muốn ta đuổi theo con quỷ?
Như hiểu tiếng người, con thú này gật đầu, phát ra những tiếng “hích,
hích”, ra vẻ mừng rỡ hết sức.
Càng lấy làm lạ, Võ Minh Thần đăm đăm ngó con thú, vẫn chẳng hiểu nó
là loài gì, nhưng vốn sống từ nhỏ tại sơn lâm, chàng trai đã rõ tính linh mẫn
của nhiều giống vật, nên lập tức bước lại thử cưỡi lên lưng nó.
Rất nhanh, con dị thú này kêu lên mấy tiếng chồm luôn dậy hếch mõm,
quay đầu về phía Bắc chạy nhanh như tên bắn. Bình sinh, Võ chỉ thấy con lừa
ốm của sư phụ là chạy mau nhất, không ngờ con dị thú này sức phóng không
thua, bên tai gió thổi vù vù, chàng trai dòm quanh, chẳng thấy bóng quỷ đười
ươi đâu, thung lũng rừng cây quạnh vắng, ánh chiều xiên khoai, đang ngả màu
đỏ úa, thỉnh thoảng một vài con gà rừng bay xào xạc, chàng trai càng lạ khi
thấy con thú không chạy về hướng Đông là hướng con đười ươi vừa lùi, mà lại
đưa về hướng Bắc.
Thoáng đã vượt khỏi thung lũng tới một rặng núi đá, có con đèo nguy
hiểm Quản Kình cho hay. Con dị thú chạy thốc lên đèo. Đường đèo quanh co
gập ghềnh khúc khuỷu rất khó đi, thường người ngựa phải đi từng bước, nhưng
con thú có tài vượt núi đá giỏi như sơn dương, giây lát đã lên tới ngọn.
Võ Minh Thần ngồi nhấp nhổm trên lưng con thú, thấy lưng nó nhô như
bướu lạc đà. Chưa hiểu nó tới đây làm gì, chợt con thú đi ngừng lại. Rồi nó đi
chầm chậm, rón gót, hình như tránh gây tiếng động. Được quãng ngắn, bỗng
nó đứng yên, đảo dòm quanh, kêu “hích, hích” nho nhỏ, rồi nó quỵ hai chân
trước. Hiểu ý, Võ đưa mắt nhìn quanh.
Ngọn đèo cao chót vót, bốn bề quạnh quẽ đìu hiu, ngay bên phải là vực
sâu hun hút, xa xa rừng già đồi núi điệp trùng chạy tít qua biên địa mờ sương,
bên trái, vách đá chập chùng, cây cỏ đá phiến rong rêu, nước chảy róc rách,
buồn tênh.
Bỗng chàng trai giật mình thấy một xác con chó mực nằm chết quắp dưới
chân một khóm hoa dại lá rũ xanh um, Võ tiến lại coi, mới rõ con chó này
cũng bị bửa đầu, moi tim như mấy con trước. Võ nhìn quanh, ngọn đèo cao u
tịch, hoang vu, đang quan sat, bỗng nghe mơ hồ có tiếng đàn bà kêu rú đâu
đây, vẳng chìm khuất không khác gì con heo bị chọc tiết.
Rồi lại có tiếng cười chờn vờn, ma âm như từ ruột núi gió đèo “ảm” ra. Võ
dòm chỗ con chó nằm chết, thấy có vết cỏ dập bèn thử rẽ vào, qua một phiến
đá, chợt thấy một chiếc hài sảo vương bên kẹt, chàng nghĩ thầm:
– Chắc con quỷ đười ươi bắt người vào đây? Lạ thật! Không thấy vết máu!
Bèn lẳng lặng vượt qua, chỗ này ngọn đèo đá mọc nhấp nhô, cây cối
rườm rà, rêu trơn trượt, Võ leo lên tụt xuống, nhắm hướng Tây ngọn đèo vượt,
rặng núi này rất lớn, chạy xa tít, nhưng Võ vượt được năm, bảy chục bộ thì hết
lối, trước mặt là một cái vực sâu hút, mù cát bụi, rộng đến hơn hai mươi bộ,
bên kia là một ngọn núi còn cao hơn bên này chút. Võ men theo dọc bờ vực,
chừng vài mươi bước, vực thắt hẹp lại năm, sáu bộ, bên kia vực có một khóm
cây xòa cành hoang dại, không một dấu người qua lại.
Đang tần ngần, bỗng lại nghe tiếng đàn bà rú lê thê mơ hồ hư thực,
nhưng hai tai thính của Võ đã định được hướng phát ra, xế bên “kia ngọn núi
đá”. Bèn nhảy vèo sang, vượt chếch lên đá phiến chập chùng, cách ngọn
chừng năm, sáu thước cao, sức nghe rõ tiếng đàn bà rên rỉ, tiếng khóc tỉ tê,
giọng sơn cước líu lô thống thiết đứt quãng!
– Chúa… sài quẩy… ăn thịt… sợ…
Lại có tiếng ré lên cười ma âm, giọng chờn vờn như cào mang tai, rõ tiếng
Thổ nói Quan Hoa:
– Ha há há! Sài quẩy cho đi thiên thai… Cây cao bóng mát đời đời…
Giọng lơ lớ rất khó nghe, âm phát giữa khu cao sơn hoang tịch, tưởng
không phải cõi dương, khiến Võ Minh Thần càng lấy làm lạ. Võ bíu mỏm đá,
leo lên ngọn núi, vừa nhô đầu ghé mắt dòm qua kẻ lá, chàng trai bỗng giật
mình ghê tởm trước một cảnh tượng gớm ghiếc vừa đập vào mắt.
Bên kia mỏm đá là một khu lòng chảo rộng hơn một thước vuông hình cổ
chày thắt, cây nhỏ giây leo hoa dị mọc đầy kẹt đá, hai, ba phía vách dựng
thẳng về nẻo cuối lòng chảo có ba, bốn cô gái đứng ngồi không cử động như
mấy pho tượng, xiêm y rách bươm, mắt mở to còn in rõ nét khiếp sợ khác
thường.
Xế trước mặt bọn này, có một cô gái đứng co ro, thân hình gần như lõa
thể, vẻ sợ cực độ, hai tay chới với, đối diện cô gái này, có một hình thù gì đó,
nhưng hình này bị vách đá lưng chừng che khuất, bỗng cô gái này lùi nửa bộ,
từ sau thò ra một bàn tay gầy guộc như xương xẩu, đỏ khé chẳng khác bàn tay
sơn son.
Lộ thêm một quãng ống tay cũng gầy đét như ống sậy, coi giống bàn tay
người, khác năm đầu ngón đều có vuốt dài cong vút nhọn tựa năm mũi dùi,
bàn tay sơn này túm nghiến lấy ngực áo cô gái kia kéo “soạt” cái, rách bung,
vuốt tay cào cào nhẹ từ trên mặt cô nàng xuống lòng ngực căng phây, rồi một
bàn tay nữa, hai bàn tay vuốt vuốt quều quào trên làn da mịn, làm cô gái nạn
nhân teo dúm người lại cuống cuồng đưa tay gỡ, miệng kêu líu lô, chợt năm
ngón tay nhọn cào cào vào chỗ tam tinh, năm ngón cào ngay khoảng tim dưới
gầm nhũ.
Cô gái không bị điểm huyệt, bị móng vuốt cào tam tinh, nàng cúi dòm, sợ
run bắn người lên có lẽ đã hiểu rõ số phận sẽ dành cho, nàng liền hất hai bàn
tay đó ra vùng chạy. Nhưng bàn tay này lẹ như chớp, chỉ vờn cái đã túm được
búi tóc cô gái kia. Vì nàng chạy mạnh búi tóc sổ tung thành dòng móc ngay
đầu vuốt.
Nó kéo riết nàng lại, xoay mặt, vuốt vai, giữ cứng, mười móng tay ấn tam
tinh, lồng ngực, cô gái dãy lên đành đạch, kêu ré. Võ Minh Thần tưởng nó
xuyên thủng ngực, nhưng không, móng vuốt chỉ cắm nhẹ vào da thịt, cô gái
này chỉ kêu ré lên tiếng rồi im, thân hình cũng bất động, chỉ thở dốc, hai con
mắt mở to, tay buông thõng. Có tiếng khó chịu gay gay phát ra:
– Chúa sài quẩy ban ân lên non Bồng, hưởng lạc đời kiếp trên núi Vu! Tu
ngàn năm chưa đến được Bồng Lai! Nhìn mắt chúa sài quẩy, nàng sẽ thấy cửa
non Bồng, núi Vu!
Cô gái bỗng nhếch miệng cười đê mê, kiếng chân, rón gót, rướn cong
mình, đưa hai bàn tay lên vuốt vuốt nhẹ bàn tay đỏ, lồng ngực phập phồng,
rùng mình liên hồi, vẻ đê mê quải gỡ pha trộn lẫn đau đớn, cô gái kêu lên khe
khẽ, suýt xoa, nhưng ánh mắt càng đờ ra như đã mất tinh lạc, nàng từ từ bước
tới, bàn tay đỏ cầm tam tinh gần nhũ cũng chầm chậm khuất dần, khuất dần,
nháy mắt, chỉ còn thấy giòng tóc cô gái sơn cước bay lộng lấp ló, giữa những
tiếng rên rỉ nho nhỏ, đứt quãng, không hẳn vì đau đớn, cũng không hẳn mê
cuồng.
Võ Minh Thần lấy làm quái gỡ, nhoài hẳn lên, dòm sang, nhưng vách thắt
cổ chày che khuất hẳn, chỉ còn thấy mấy cô gái kia đứng ngồi như tượng, thân
không cử động, nhưng hai con mắt vẫn liến láo dòm xem cảnh tượng đang
diễn ra, vẻ kinh hoàng hết sức.
Thình lình, từ sau vách khuất, có tiếng ré ma âm nhọn hoắt đến rợn ốc,
nghe giống hệt tiếng Võ vừa nghe từ cuối thung lũng, tiếp liền có tiếng đàn bà
rú kinh hồn, kéo lê thê chẳng khác con heo bị chọc huyết, rõ ràng kẻ rú đang
chịu đau buốt cực độ!
Chưa hiểu chuyện chi, Võ Minh Thần nghĩ thầm:
– Đúng nó moi tim cô gái rồi! Lạ thật! Sao không thấy cô gái chủ kia đâu?
Hay đã bị hại?
Bèn vận hết nhân điện, vận khinh công nhảy vọt qua lòng khu chảo, bíu
lưng chừng vách thắt nương cành lá lòa xòa, ghé mắt dòm. Cảnh tượng phía
trong đập vào mắt. Chàng trai xuýt bật kêu lên kinh hoàng vì cảnh tai quái lạ
lùng chưa hề thấy.
Cuối lòng chảo, dưới tàn cây xòa, cô gái nạn nhân người uốn cong bán
nguyệt đang dãy đành đạch như con thạch sùng bị chặt đứt, và ngay vách đá
rêu phong xanh mướt, tranh tối tranh sáng, có một hình thù cao ngót hai thước
Tây, coi rất quái dị, hình thù này đỏ hỏn như đứa bé mới đẻ, gầy guộc xương
xẩu, chân tay quều quào lêu nghêu như ống sậy, đặc biệt hai bàn tay đỏ mọng,
coi giống con muỗi, vừa uống máu no soi trước ánh đèn.
Quái nhân gầy, đỏ này đầu tóc bù xù như tổ quạ, kỳ dị nữa là râu tóc, lông
ngực trắng phơ rõ đang chuyển sang màu đỏ mọng râu ngô, dòm kỹ càng cổ
quái. Hình thù này, mũi quặp như mỏ con vẹt, mồm nhọn, trán đồ, hai con
mắt đã mù một, mắt còn lại tròn xoe trố đỏ như tiết lộ hung quang, nó nhe
hàm tăng trắng nhởn kêu ré, hệt con thù đói vớ được mồi ngon, nhác coi rõ
hình thù ma quỷ mang lốt người.
Võ Minh Thần vụt hiểu nó đang làm gì, chàng trai nghĩ thầm:
– Con quỷ đỏ hỏn này với con đười ươi có liên hệ với nhau chăng? Coi
hình như nó đang dùi xương tủy nạn nhân. Nó hút tủy não, hay nó hấp luyện
yêu công? Nghe tôn sư dạy: Trong thiên hạ có mấy phái ma giáo ma quỷ vẫn
chuyên phép “hấp tinh đạo khí” người ta để hoàn nguyên tinh lực, kéo dài
cuộc sống, con quỷ mỏ vẹt này thuộc loại đó chăng? Phải cứu mạng mấy cô
gái xấu số này ngay mới được.
Bèn vận điện công, thò tay định chém, nhưng đã muộn, một cô gái đã ré
lên tiếng cụt, thân hình chợt bắn vọt sang bên kia, giáng “bịch” vào vách đá
nằm rũ gục, mặt mày da thịt xám ngoét, từ tam tinh tuệ nhãn, trái tim, máu rỉ,
tím xỉn chết tươi.
Tự nhiên, mạch máu sôi sục, Võ Minh Thần suýt chém vụt tay, nhưng kịp
thời kìm lại. Óc tò mò thôi thúc, chàng trai cố nén để coi con quái mũi vẹt dở
trò gì nữa.
Đã thấy nó lè lưỡi liếm tận chỏm mũi mồm nhai khan chóp chép, con mắt
sòng sọc tia đỏ khé, nó cười thé nhọn, dòm mấy cô gái đứng ngồi lố nhố trước
mặt:
– Hé hé “gái rừng” tinh lực khỏe hơn đàn ông. Một trăm đồng nữ, chúa sài
quẩy hoàn nguyên, một trăm đồng nữ chúa sống bằng quy tượng.
Nó lắc lư quều quào đi một, hai bước nghiêng ngó quét lia nhãn tuyến một
vòng, thò bàn tay gầy guộc vẫy vẫy cô gái trẻ đứng sững xế bên. Rào cơn gió
thoảng, tự nhiên cô gái này vùng cử động. Nàng dáo dác chực chạy nhưng vừa
ngoảnh mình đã như bị một sức vô hình kéo nghiến lại, quái nhân mũi vẹt túm
lấy bờ vai, dòm tận mặt bỗng ngay khi đó, có tiếng hú quái đản vọng lại, quái
nhân cười ré lên, ngửa mặt hú một tràng, đẩy thốc cô gái trẻ về chỗ cũ.
Tiếng quái đản vọng quay van vát, rõ ràng theo vật chạy từ dưới thấp lên
cao, ập tới xế sau lưng Võ Minh Thần. Chàng trai vội rời chỗ vọt ẩn sang bên,
sau một lùm cây rậm, bỗng nghe rào cành lá, tiếng chân thình thịch đổ tới rất
mau, rồi một hình thù quái hiện sừng sững trên mỏm đá phía Đông. Con quỷ
đười ươi vừa nãy, mép còn đỏ lòm máu tươi. Nó nhảy xuống lòng chảo, chạy
vù vào chỗ quái nhân mũi vẹt, kêu “hích hích” tay chỉ trỏ, làm điệu bộ, chợt
nghe quái nhân cười, phát tiếng nhọn hoắt:
– Ánh sáng chém mày đứt ngón tay? Gặp chúa, chúa sài quẩy bắt cả ánh
sáng. Phần mày kìa.
Con quỷ đười ươi ngoái dòm, thấy cái thây ma đàn bà, nó nhe răng cười
rú, nhảy sổ tới liền.
Rồi hình như nó không hài lòng ngon miệng thấy cái thây này “nhạt, ươn”
vì mất hết tinh huyết, nó quay dòm mấy cô gái “tươi” kia mồm chóp chép, bất
thần nhảy sổ tới thò bàn tay lông lá vồ luôn cô gái vừa bị đẩy ra, cô gái khẽ rú
lên khủng khiếp vùng vẫy kêu la. “Bịch” quái nhân thò tay túm lấy vai con
đười ươi đẩy nó vào vách, quát:
– Chưa đến lượt mày. Chúa sài quẩy chưa ăn. Vào lôi gái chủ ra đây.
Con đười ươi đập đầu trúng vào vách, nó xoa đầu, thở phì phì lừ đừ đi
vòng sau mấy cô gái. Nó nghiêng ngó dòm, đưa tay bẻ rắc cành xòa đi vào.
Mới hay chỗ này có một cái hốc, cành lá che khuất, thoắt con đười ươi đã bước
ra, lôi theo một cô gái trẻ đẹp hết sức.
Chừng đã triệt công, á khẩu, cô gái bị con đười ươi lôi ra trước quái nhân
không chống nổi. Quái nhân phất tay một cái, cô gái vùng chớp mắt, dòm con
đười ươi, miệng hét lớn, chửi rủa om xòm.
– Hà hú… gái rừng đẹp thơm lắm! Ngoan, chúa sài quẩy ban ân cho nàng!
Hà hà!
Quái nhân kéo cô gái chủ lại, móng vuốt lướt nhanh dọc thân áo chẽn,
bung luôn hàng khuy nút, để lộ lồng ngực trắng ngà căng phây nét nhũ, phập
phồng sau mảnh lụa nịt đen mong manh. Cô gái công lực chẳng còn, phản ứng
của nàng chừng càng khiến quái nhân thích thú, rộ lên tràng cười the thé ma
quái.
Nấp ngoài, Võ Minh Thần chứng kiến từ nãy giờ cảnh quái nhân mũi vẹt
“hấp sát” nạn nhân, vụt tưởng lại lời nghĩa phụ kể chưa trọn vẹn về cái chết
thảm thê của mẹ, lòng chàng sôi sục mối căm phẫn, bi thương, xen lẫn cả
nghi vấn. Thấy cô gái chủ sắp bị hại đến nơi, Võ quyết định ra tay, quát lớn:
– Không được hại người!
Cùng lúc quăng mình xuống, tay thả luôn ngọn phi đao liếm “xoẹt” trốc
đầu quái nhân, tay kia đánh ra một nhát phản phong hất bắn con đười ươi vào
vách đá, đổ dụi.
Đang say mồi ngon, thình lình bị phá đám, quái nhân vội đảo tránh lưỡi
thép, một tay ôm chặt cô gái sơn cước, tay kia múa tít một sợi xích có gắn lưỡi
thép hình trăng khuyết đánh trả.
“Chát!”, phi đao quật trúng mảnh trăng khuyết tóe lửa, quái nhân tê chồn
tay, sợi xích văng mất, y lật đật buông cô gái vận công đánh ra một phát phản
phong. “Bùng!” cái nữa, ngón đòn gió chạm phải kình lực phóng ra của Võ
Minh Thần, sức phản chấn khiến quái nhân bật lùi mấy bộ, cảm thấy khí
huyết nhộn nhạo, choáng váng muốn sụm xuống.
– Hừ! Chúa Sài quẩy moi tim óc, ăn thịt ngươi… Hà hú!
Quái nhân hú lên man rợ, vuốt chờn vờn như sắp xông tới, song y chỉ dọa
dẫm, làm điệu bộ. Minh Thần thu liễu đao, quát chìm:
– Ngươi là ai, sao dám bắt gái luyện tà công, làm điều xấu xa bại hoại?
Miệng nói, tay Võ phát nhẹ một luồng kình phong đẩy cô gái chủ lui ra
sau lưng đề phòng quỷ mũi vẹt giở trò, quả nhiên y chợt chúm mồm thổi “phù”
một hơi dài, tay vuốt thả “bóp” một trái khói mù nhân tạo, nhảy vọt chếch
sang bên hữu, nháy mắt cả khu lòng chảo đã bị mờ mịt khói, chẳng thấy gì.
Sợ cô gái bị hại, Võ vừa bế huyệt chống độc khí, kéo luôn nàng ấn ngồi
xuống sau một mô đá, tay kia thả vụt liễu đao chém nhầu theo địch thủ.
– Hà hú! Muốn tìm ta hãy đến Mã Đầm Sơn… Hà hà! Chúa Sài quẩy sẽ
đợi mi ở đó! Hà hú!
Tiếng hú lê thê, kéo dài hút chìm sau vách đá. Minh Thần dùng phản
phong xua khói, khí độc tanh khẳm rồi co chân nhảy vọt lên mỏm núi đảo mắt
dòm quanh. Bóng quái nhân đã mất dạng, ngó lại, cả con quỷ đười ươi cũng
trốn đâu mất. Không còn dưới lòng chảo.
Võ nhảy xuống chỗ có mấy cô gái sơn cước đứng ngồi, chỉ còn thấy ba
nàng trơ như gỗ, còn một nàng trẻ nhất đã biến theo quái nhân mũi vẹt.
Võ xua nốt tà khí, giải huyệt cho ba nàng, chợt cô gái chủ chạy tới thỏ
thẻ:
– Con quỷ son… trốn mất rồi! Trời ghê gớm quá. Quỷ két, quỷ đười ươi…
nanh ác.
Chàng trai vội giải huyệt, quy hoàn võ công cho cô gái lạ, cả bọn còn bốn
nàng chưa dứt kinh sợ, cùng chấp tay tạ ơn cứu mạng. Hỏi mới hay cả bọn
đang rượt con dị thú tới đầu thung, bỗng thấy con quỷ đười ươi nhảy ra vồ,
chưa kịp nổ súng bỗng nghe “bóp bóp” từ trong làn bụi khói đỏ bay ra, tới đâu
hít phải tứ chi bủn rủn, mắt hoa, đầu váng, rớt hết súng dao, ngựa chạy tán
loạn, người ngất đi chừng tỉnh đã thấy nằm trong lòng chảo này, trước mặt con
quỷ hai chân mõm két, một mắt, cũng không biết có kẻ nào chạy thoát chăng?
Cô gái lạ cùng mấy nàng tùy tòng kể qua tai nạn, lòng vẫn bàng hoàng
chưa hết kinh dị, cảm tạ chàng Võ hết sức. Võ cũng kể cho mấy nàng nghe
chuyện con dị thú, ai nấy càng cho là lạ. Võ Minh Thần thấy mặt trời sắp gác
núi, bèn từ tốn bảo:
– Nay con quỷ mũi vẹt và con quỷ đười ươi đã chạy xa, cô nương mau
xuống đèo, còn rời khỏi vùng này trước khi trời tối, chớ nán lại có khi mang
họa vào thân.
Đoạn cùng nhau đi thu nhặt xác chết, kiếm quanh khu lòng chảo được
hai, ba cái thây nữ trần xám ngoét, tim óc đều mất, coi cực kỳ thê thảm. Xong
đưa nhau ra đường mòn lần xuống chân đèo Nam, lên tiếng hú gọi vang động
rừng chiều.
Bỗng thấy hai nàng hầu gái sống sót cưỡi hai con ngựa chạy tới rồi lại
thêm hai con chó săn nữa, Quản Kình từ phía thung lũng dắt ngựa tới chừng
hay chuyện mừng hết sức, lập tức giục lên đường. Cô gái lạ cùng gái tùy đào
hố chôn xác người bất hạnh, xong vòng tay, thánh thót bảo:
– Vùng thiếp ở cách đây vài giờ ngựa, nay trời đã về chiều, xin thỉnh ân
nhân quá bộ tới chơi, cho thiếp được tạ ân sâu.
Võ Minh Thần chắp tay từ tạ, dịu dàng:
– Cứu nhau lúc hoạn nạn là việc thường của kẻ xuôi ngược rừng núi, cô
nương bất tất phải bận tâm. Tôi rất muốn đưa cô nương về tận nhà, tiếc tôi
đang có việc phải đi luôn, không thể trì hoãn được, dám xin miễn thứ.
Mời đôi ba lần không được, cô gái lạ cùng mấy cô gái tùy sống sót đành
chấp tay bái biệt, lưu luyến chẳng muốn rời, hỏi họ tên, Võ khiêm tốn không
cho biết.
Võ cùng Quản Kình đưa mấy nàng xuôi hết con thung, mới chia tay, đoạn
hai thầy trò dắt con ngựa độc nhất, nhắm mạn Bắc biên thùy đi miết.
Hoàng hôn đổ xuống biên địa rất mau, đồi điệp trùng, rừng già rậm rạp tứ
bề hoang dã không một bóng người qua. Lối mòn xuyên sơn, cỏ mọc tới đầu
người có lẽ từ nhiều tháng nay, không mấy ai đặt chân tới.
Thỉnh thoảng lại có tiếng gà gáy chiều eo óc buồn tênh càng thêm đậm
nỗi sầu lữ thứ, nghĩ lại chuyện quái ác vừa xảy ra, cả hai thầy trò đều tiếc
không triệt được hai con quỷ sống, nhưng lại mừng biết được con quỷ mũi vẹt
có dính dấp tới “Núi Đầu Ngựa”.
– Không ngờ gì nữa, chú Sềnh chỉ trối được mấy tiếng đó, chẳng rõ chú
bảo tìm Chúa Đầu Ngựa để làm gì? Ân nhân hay thù địch? Nay con quỷ mũi
vẹt nanh ác tàn khốc, lại cũng ở núi Đầu Ngựa, vậy chắc Chúa Đầu Ngựa là
phường quỷ quái ma đầu đã giết hại song thân ta rồi. Cứ lời cha ta thốt trước
khi bị bắn trộm, lối sát hại mẹ ta phải chịu, cũng tựa cảnh ta vừa thấy trên
ngọn đèo, rõ ràng cũng bầy quỷ rừng đồng tông. Vái trời cho sớm gặp cừu
nhân, tìm được nguồn gốc cũ.
Mải suy nghĩ, trời sầm tối lúc nào không biết, trông xuống chân, ngọn cỏ
phân mao đã nhòa trong bóng dạ thần, Quản Kình kiếm lối xuyên Tây, đưa
tiểu chủ tới bản Mèo trên núi.
Vừa tới đầu bản nghe “tách” một phát tên nỏ bay vút bên tai cắm phập
vào thân cây, cả hai giật mình lùi lại, Quản Kình nói lớn:
– Ai bắn đó? Khách vượt biên tới trọ nhờ đây! Quản Kình Yên Bái đây.
– A, cái ông Quản đồn điền!
Có tiếng bật kêu mừng rỡ, rồi hai, ba người Mèo lực lưỡng xách súng hỏa
mai, cung nỏ chạy ra, thắp lên một ngọn đuốc lớn. Ba người đàn ông Mèo lực
lưỡng, dẫn đầu là một chàng trai vạm vỡ cúi chào lễ phép, Quản Kình ngạc
nhiên hỏi ngay:
– Sao dạo này canh gác dữ thế? Thổ phỉ bên Tàu sang?
Chàng trai lắc đầu:
– Cái ông Quản không biết mà. Hai tối liền, quỷ núi hiện về bắt đàn bà cô
gái ăn thịt mà. Nó bắt năm, sáu người cô gái rồi.
Quản Kình quay nhìn chủ, bảo chàng trai Mèo:
– Đây là cậu hai chủ tôi. Ông Phìa có nhà chớ?
– Dạ!
Chàng trai lập tức cầm đuốc đưa thầy trò Võ Minh Thần vào bản đến một
căn nhà dài, lố nhố có nhiều người, chừng đang họp bàn chi đó. Một ông già
Mèo trạc lục tuần, mặc chiếc áo dạ cứt ngựa, chít khăn rế, coi quắc thước, ra
đón, thấy Quản Kình lão có vẻ mừng hết sức, Quản Kình giới thiệu tiểu chủ,
lão Mèo rước vào trà nước, truyền người nhà sửa soạn ngay cơm rượu đãi
khách. Thấy dân bản tụ đông, vẻ lo buồn hết sức, Võ Minh Thần vội bảo Quản
Kình trấn an, đoạn bảo ông già Phìa – đứng đầu địa phương:
– Bản đèo heo hút, cây rậm tối tăm, nhà ở cách nhau, rất khó canh giữ.
Con quỷ này nhanh như cắt, ẩn hiện khôn lường, tráng đinh có canh quanh
bản, cũng không ngăn nổi, mà có thể chết như chơi. Tốt nhất cứ cho tạm tập
trung lại quanh một, hai nhà dễ bảo vệ hơn. Tiện đây, Quản Kình sẽ giúp một
tay.
Ông Phìa khen phải, lập tức bảo người hang động kéo tới quan nhà lão
ngủ tạm phòng bất trắc, dắt luôn cả gia súc theo. Dân tuân lệnh, chỉ hơn nửa
giờ sau đã tập trung đầy mấy căn nhà khu ông Phìa ở, nhà ông Phìa có hai cô
cô gái chưa chồng, ông Phìa cho cô gái hang động đến cả đây cho tiện. Quản
Kình giúp cắt đặt trai tráng thay phiên gác bí mật mấy phía bản quanh mấy
căn nhà, còn tất cả đóng cửa để trống.
Đêm đó, trăng lên vàng bệch. Sương chăng quanh đồi núi như dải “voan”
mờ xám, biên thùy lạnh ngắt. Bốn bề quạnh quẽ, vài tiếng hoẵng kêu ngơ ngác
dưới thung lũng, buồn xa xăm.
Võ Minh Thần qua nhiều cuộc hành trình chiến đấu, cơm no, rượu say,
đắp chăn nằm bên mâm đèn ngủ vùi lúc nào không biết. Quản Kình bị chủ
nhân ép hút mấy khói, nằm một góc, gãi rồi cũng chợp mắt mất.
Dân hang động hầu hết đã ngủ thiếp, bọn gái Mèo cũng vậy, nhà chỉ còn
mấy chàng trai canh gác cũng gục nốt, sau mấy canh yên ổn, ai cũng cho là
quỷ đã đi miền khác.
Chỉ còn ông Phìa già nằm thao thức bên ngọn đèn dầu, vừa tiêm vừa kéo
liên miên.
Lão vẫn chưa hết kinh dị về mấy cái thây nữ quăng ngoài máng nước cuối
đông, mấy cái thây nát bấy, bị gặm nham nhở, đứt cả nhũ hoa, coi phát sợ.
– Tai họa! Tai họa! Cổ kim hãn hữu, quỷ về bắt gái, lạy trời nó đi phương
khác!
Bỗng một cơn gió lùa kẽ liếp mang theo một mùi hôi thối lẫn hương hoa
rừng đêm. Một thứ mùi khăm khẳm như mùi phân cọp tạt vào mũi làm ông
Phìa nghĩ ngay tới chuyện “ông Ba mươi” rình bắt heo dưới sàn, vẫn nằm, lão
nhè nhẹ ngóc cổ lên dòm.
Người Mèo chuyên ở trên đồi cao, tạo riêng “một thế giới trên mây mù”
cách biệt với các sắc dân khác, nên nhà cửa cũng không giống dân Mán, Thổ,
Mường… Các sắc dân này ở từ sườn đồi xuống thung lũng, nhà sàn hai tầng
cao lớn như nhà lầu dưới xuôi, gia súc dưới gầm sàn.
Còn nhà Mèo lại từa tựa như người Kinh dưới xuôi vách đất, đắp “bờ bò”
đất dày, nhà Mèo cũng thấp, vách cũng đắp đất dưới chân để chống khí núi
gió lạnh sương mù, sàn nhà chỉ cao hơn thước, làm chuồng nuôi heo, gà vịt…
cửa sổ có chỗ đan mắt cáo, có chỗ để trống dùng liếp che mùa lạnh đêm
sương sa.
Cửa sổ quanh buồng ông Phìa đều đóng kín mít, nhưng từ trong nhìn qua
cửa thông, thấy khu cửa sổ hậu, xế giữa, có một cái cửa rộng che liếp. Lúc này,
trăng đã lên mờ bệch, bỗng ông Phìa rởn gáy, thấy rõ một cánh tay lông lá to
như một cái cột thò vào nhấc liếp để sang bên. Rồi một cái đầu thò vào.
Một cái đầu to như cái thúng, trán dô, mồm ngoác, hai con mắt lồi sáng
tựa đèn pha láo liên dòm vào nhà, thấy trong nhà người người ngủ kỹ, đàn bà
con gái nằm mấy dãy bên bếp than hồng suốt từ đầu buồng bên kia ra đến
ngoài, nó nhe răng cười nhăn nhở. Sương mờ tẩm trăng lờn vờn táp vào cái
mặt quái đản coi càng phát gớm, ông Phìa lạnh xương sống, quơ vội cây nỏ tạ
treo đầu ván, bắn “tách” phát, “phập” trúng mặt quái.
Nó quay mặt dòm vào buồng, tay rút mũi tên, răng nhe trắng nhởn, hai
con mắt chiếu chung quanh. Ông Phìa này vốn có võ, bắn nỏ liên châu, giương
bằng khuỷu tay, vẫn ngồi trên ván thả liền hai, ba mũi tên cắm trúng mặt, cổ
con quái, chân khều mạnh Quản Kình.
Kình vùng mở mắt thấy ông Phìa bắn nỏ, biết có biến, lăn ào xuống sàn
dòm ra và chỉ thoáng thấy cái đầu to loáng hiện giữa khung cửa, đã nghe tiếng
đàn bà con gái ré lên khủng khiếp nhà ngoài.
Võ Minh Thần bò nhổm dậy, phẩy tắt ngọn đèn ẩn góc buồng. Quản
Kình, ông Phìa quơ súng vọt ra ngoài, bọn đàn ông gác đàn bà con gái choàng
dậy la hoảng nhốn nháo rầm rập:
– Có bàn tay lông lá vồ người, nó chụp qua vai tôi…
– Quỷ đười ươi! Con quỷ đười ươi! Tôi thấy thoáng bóng nó nhảy vào.
Cả nhà xôn xao, nhưng chẳng còn hình thù nào, cửa sổ vẫn mở toang,
ngoài kia sương trắng mịt mùng cành lá. Quản Kình cùng bọn ông Phìa vọt ra,
chỉ dòm thấy bốn bề vắng lặng như tờ, vài tiếng hoẵng ngơ ngác từ cuối thung
lũng xa sâu dâng lên mơ hồ.
Kiểm điểm lại, ai nấy thất kinh, thấy mất cô gái Mèo mười sáu tuổi, mặt ai
nấy tái xanh. Ông Phìa trợn tròn mắt, vừa định hô tráng đinh xuống vườn
nương sục sạo, bất thần nghe có tiếng khàn rè chờn vờn hắt vào:
– Phìa! Phìa! Phìa Mèo khôn, gom đàn bà con gái lại, không thoát nổi đâu.
Đêm nay Chúa Sài Quẩy đến bắt con gái Phìa, đem nộp một đứa, Chúa Sài
Quẩy đi động khác, không nộp, Chúa cho quỷ đười ươi bắt hết con gái động ăn
thịt.
Tiếng quái gở chẳng rõ âm hướng nào, Quản Kình ra hiệu dụi lửa, chỉ còn
ánh than hồng, Kình rón rén lần quanh nhà dòm ra, không thấy gì, các chàng
trai tráng chia nhau phục chĩa súng hỏa mai, cung nỏ ra, bỗng rào một cơn gió
thốc lại, mùi hôi hám sực mũi, nghe tiếng con gái rú lên khủng khiếp sau nhà
rồi im lìm đến rợn người, ai nấy nhìn nhau xanh mặt.
Hàng trăm cô gái sợ hết hồn, chúi cả vào buồng của ông Phìa, ông Phìa
thủ tên nỏ canh chừng, không ai lên tiếng, chỉ đợi quỷ ló dạng là bắn, chợt
nghe tiếng quát lại cất lên, lần này nhọn hoắt như dùi tai người:
– À, tại thằng Phìa này dám trái lệnh Chúa Sài Quẩy! Tao sẽ cho bắt hết
gái động này!
Lời vừa dứt, bỗng từ trong trăng sương mù mịt, có một bóng mặc váy lao
vọt qua khung cửa sổ trống nằm sóng soài cạnh bếp lửa. Lẹ như chớp, Quản
Kình bắn luôn một phát về phía đó. Lập tức có tiếng rú xa xa. Kình nổ phát
nữa, bảo mọi người:
– Con quỷ trúng đạn rồi, cứ nấp kỹ, thấy bóng bắn liền. Nhớ truyền nhà
nào ở nhà đó, không ai được rời chỗ.
Ông Phìa lôi cái thây vào xó khuất, xúm coi. Cái thây nữ, xiêm y rách
bươm, đầu bửa đôi, ngực thủng, rỗng tuếch, tim óc mất hết. Chính cô gái Mèo
vừa bị mất tích. Ai nấy rởn óc, Quản Kình nổi giận quát chửi inh ỏi, thách con
quỷ. Có tiếng chờn vờn:
– Hé hé…é. Tao vào đấy bắt hết đàn bà. Bọn mi tưởng súng ống cung tên
ngăn nổi Chúa Sài Quẩy một mắt?
Lời dứt, bỗng nghe tiếng “vút” một vật to như trái cầu bay vào, ông Phìa
cùng hai, ba trai tráng trương luôn hỏa mai, nỏ bắn luôn. Đoàng! Tách! Vật lạ
vỡ tan rớt xuống bếp than hồng, “bùng” lên một cụm khói lớn, rào cơn gió
khuya, mùi thơm hắc, mùi tanh hôi lan sực căn nhà, Quản Kình thất kinh định
quát, bỗng đầu choáng váng, mắt hoa, cả mấy gian nhà đàn ông, đàn bà hắt
hơi, ngã huỳnh huỵch nằm bất tỉnh.
Quản Kình, ông Phìa, trai tráng, đàn bà, con gái, trẻ con, ông già, bà lão
không kẻ nào thoát khỏi, có mấy người nhanh chân chạy vù ra phía cửa trước,
cũng vẫn bị luồng khói mê cực mạnh táp vào mũi, ngã nhào xuống cầu thang.
Chỉ trong nháy mắt, cả căn nhà sàn dài lúc nhúc người, vụt trở nên im
lìm, sầu thảm, thứ im lìm rờn rợn như trong quan tài, khiến những kẻ tập trung
trong nhà bên đều kinh sợ, không hiểu chuyện chi đã xảy ra.
Có kẻ bạo dạn định kéo sang, nhưng có kẻ khác ngăn lại, vì nghiêm lệnh
của ông Phìa. Giữa cảnh im rợn bỗng có tiếng cười gai gai nhọn hoắt phía sau
nhà ông Phìa:
– Há há…á Thằng Phìa cùng bọn đàn ông ngủ hết rồi. Trong nhà này, có
hàng trăm đứa gái tơ. Quỷ đười ươi vào bắt hai đứa con gái thằng Phìa cho
Chúa Sài Quẩy, bắt thêm tám đứa gái nữa đem về động, còn bao nhiêu cho mi
cả. Muốn ăn đứa nào tha hồ. Thằng Phìa Mèo dám trái ý Chúa Sài Quẩy, Chúa
Sài Quẩy trừng phạt cả động nó. Đứa nào chạy sang, quỷ đười ươi hút óc moi
tim.
Trong đêm sương trăng mờ ảo, tiếng quái gở chờn vờn xoáy vào tai, vang
âm rợn óc, khiến ai nấy xanh mặt, đứng im thít, lấm lét dòm sang căn nhà
Phìa vắng ngắt. Không ngờ trong xó buồng ông Phìa, vẫn còn chàng khách
Kinh chưa ngất, Võ Minh Thần tính nước cờ tối hậu, mặc cho con quỷ sống
hoành hành xông khói mê, chàng trai cứ bế huyệt ngồi kẹt trong tối đợi.
Quả nhiên, tiếng quát vừa dứt, bỗng có tiếng quái vật hú vang động, rồi từ
trong lùm cây ậm sau nhà Phìa, vụt hiện ra hình thù con quái đầu to bằng cái
thúng, mắt sáng tựa đèn pha, nó lắc mình mấy cái đã đứng sững bên khung
cửa sổ hậu.
Vai nó bị một phát đạn, còn nhỏ máu long tong, sức nó mạnh tợn, như
không biết đau, nó thò đầu to vào, trố mắt lồi đèn pha dòm quanh nhà, ghé
mõm loa thổi phì phì, ngọn lửa bếp than hồng cháy bùng lên, soi rõ bóng
người nằm ngổn ngang.
Ánh lửa vờn trên thân thể bọn gái mèo nằm nghiêng nằm ngửa từ trong
buồng con gái Phìa ra khu bếp thứ hai, ngực căng phồng, nhiều nàng mép
“phá” hoảng hốt cuộn quá đầu gối để lộ cặp đùi thuôn lẳn phốp pháp, con
đười ươi quái thấy quá nhiều mồi ngon, nó dòm hau háu, ré lên từng tiếng rắn,
sắc, răng nhe trắng nhởn, nó bíu thành cửa đu vọt qua nhanh như vượn, đứng
lù lù trong nhà, nó lắc lư tiến về phía bọn gái Mèo nằm lũ lượt, mỗi bước đi
thình thịch lún cả sàn, gia súc bên dưới phá chuồng chạy tán loạn kêu inh ỏi.
Võ Minh Thần ngó ra, thấy rõ con đười ươi tiến vào, chàng trai muốn
chém lại tiếc con quỷ mũi vẹt, cố nín thở đợi. May sao ngay khi đó, sực có
tiếng con quỷ mũi vẹt ban chiều hắt vào, nghe đã gần:
– Vào buồng đó! Hai đứa con gái Phìa nằm trong đó! Nó đeo đầy vòng tay
vòng chân vòng cổ, nó nằm trên phản!
Tiếng nói như “đi” lại gần cửa sổ. Võ Minh Thần rón rén men ra gần cửa
buồng, dán vào vách dòm qua kẻ hở thấy chỗ lùm cây cách cửa sổ chừng mười
sải, thấp thoáng có một hình thù động đậy lá cành cách mặt đất chừng hai
thước.
Nhưng gió khuya lay động, chưa dám chắc. Chàng trẻ tuổi phân vân,
trong khi đó, con quỷ đười ươi to phàm đã bước vào chỗ gái Mèo nằm, nó đứng
cách chỗ Quản Kình, ông Phìa gục độ năm, sáu bộ, nó cúi dòm đám con gái,
nàng mặc quần sà cạp, nàng mặc váy, dưới lửa hồng, toàn những con mồi
ngon lành đang độ thanh xuân tràn đầy sinh lực, con đười ươi tuy thành quái
vật tinh khôn như người, nhưng chỉ là giống thú, thấy mồi ngon, thơm, nó nổi
luôn tính thú, đang tiến vào buồng, nó dừng ngay lại, cúi xuống túm luôn một
cổ chân cô mèo mặc váy dốc ngược lên, nó rít lên “hí hí”, vẻ thích chí cuống
cuồng, nó thò luôn vuốt nhọn, xé “xoạc xoạc” hai, ba cái đã rách bung cả xiêm
cô gái này. Khăn sổ tung, tóc chảy dài, con quỷ sống giật nốt ít vải lót, dưới
vùng sáng lửa chập chờn, nạn nhân bị dốc ngược trắng nhễ nhãi như con ếch
lột da, coi gớm ghiếc hết sức.
Con quỷ thấy mồi trần, nó bêu cao, dí tận mũi hít lia lịa, không khác con
cọp đói thấy mùi thịt hươu tơ, nó cuống cuồng lè lưỡi liếm quèn quẹt, nhe răng
cười nhởn nhơ, quờ quạng bàn tay lông lá tìm tim móc. Võ Minh Thần ghé mắt
trong ra thấy con quỷ đang hít con mồi, biết nó sắp moi tim, chàng trai lập tức
vận điện công, toan vọt ra chém, bỗng lại nghe tiếng quát nhọn hoắt:
– À, con quỷ đười ươi kia không tuân lệnh Chúa Sài Quẩy! Tao chặt đầu!
Bỏ đấy! Vào bắt hai đứa gái nhà Phìa!
Con đười ươi ngoái cổ lại dòm, vẻ sợ sệt, dáo dác, nhưng có lẽ nó thèm
quá, nó hồng hộc, nhai khan nhồm nhoàm, nó xách luôn cả con mồi, bước vào
phía buồng hồi đằng kia, dẫm bừa trên đám phụ nữ nằm ngổn ngang chồng
chất, vừa bước đi vừa trượt, hình thù nó lắc lư coi như tên say rượu.
Biết nó xách vào chỗ khuất ăn vụng, Võ Minh Thần buộc lòng phải tính
xuất thủ, rồi sẽ liệu, may sao đúng lúc đó, Quản Kình nhè nhẹ bò nhỏm dậy.
Thì ra Quản Kình đã dược Võ cho uống thuốc chống thuốc mê, y chỉ ngộp
chút, đã tỉnh dậy, thấy con đười ươi xách cô gái Mèo đi vào phía buồng, y
chồm nhẹ dậy, giương súng bắn liền.
Nào dè, đúng lúc đó, từ ngoài cửa sổ bay vụt vào một vật sáng loáng lẫn
tiếng hú gai nhọn lao thốc vào Quản Kình, may sao Quản Kình đã chồm sau
cây cột sàn lớn, “phập” luồng sáng liếm phăng mảnh gỗ lớn như búa đẽo, giữa
tiếng “vút, xoảng” xé gió con đười ươi xoay người lại kịp thấy có người chĩa
súng, nó nhảy vọt ra, “đoàng”, đạn trúng bả vai bên tay xách cô gái Mèo, nó
quăng bịch xuống, ẩn ngay sau cây cột gần đấy. Quản Kình nghe tiếng xé gió,
giật mình, xoay nhìn ra, luồng sáng đẽo mảnh cột xong bay xoẹt sát vai Quản
Kình liếm phăng mảnh áo lạnh như băng, rồi loằng ngoằng đảo vụt lại.
Thất kinh, định bắn phát nữa, không kịp, vội hụp đầu tránh, nhưng luồng
sáng xẹt vòng cầu thấp, Kình phải liều vung súng đỡ quật mạnh. Keng chát!
Kình bị nó xô dúi vào chân cột, ngọn súng bị tiện đứt đôi, văng ra xa, tay y tê
chồn, nhưng luồng sáng cũng bật ngược lên cao hơn sải, loạng choạng, hiện rõ
hình là một mảnh thép hình dạng trăng khuyết, có sợi xích buộc dài vài gang
tay. Nhưng mảnh thép lại chỉ sa xuống lảo đảo chút, đã xé lên rồi chém xả
xuống, mạnh hết sức, con đười ươi nhác thấy Quản Kình bị tiện mất súng, lập
tức rời cột nấp, phóng tới chụp.
Tình thế rất nguy cho Kình, Võ Minh Thần không thể chần chờ nữa, vùng
giơ tay phải chém vụt ra một ngọn liễu diệp đao. Sức điện công của chàng trai
uy mãnh hơn người, chỉ nghe “vèo” soạt như xé lụa, ngọn liễu đao đã nhắm
trốc đầu Quản Kình bắn tới, đánh trúng mặt nguyệt khuyết đến “keng” tiếng
dội vang ra tận mặt tiền.
Quản Kình vùng cuộn dây, rút được con dao lan dắt vành khăn, thì con
đười ươi vừa xông tới, nhưng nhác thấy luồng sáng trong buồng vọt ra quật bắn
mặt nguyệt khuyết, nó có vẻ sợ hãi như con chim bị tên sợ cây cong, nó dừng
phắt lại, xé chạy ra phía hậu. Kình lẹ tay thả “phập” trúng mõm con đười ươi,
nó hung tợn đợp “cạch” ngậm cả dao chạy.Quản Kình vừa toan rượt theo, vụt
nghe tiếng Võ quát:
– Cứ đứng yên!
Kình khựng lại dòm, vừa kịp thấy luồng liễu diệp đao chém “chát” nhát
nữa, bắn dúi luôn mặt nguyệt khuyết ra ngoài cửa sổ đứt đôi, luồng đao liễu
liền xẹt ngược lại, chém “phập” lướt sau gáy cạo mảng lông, bay mảng thịt vai,
con quỷ sống, rú lên khom mình, bắn qua cửa sổ, Võ Minh Thần chém vắt
theo, trúng bắp đùi con quái, con quái sa huỵch xuống bụi rậm ngoài xa ngót
tám thước Tây. Và ngay lúc chém, Võ xoay mặt theo, rẽ luồng nhãn tuyến,
thoáng thấy lùm cây gần đấy lay động lấp loáng như có bóng vật chi, Võ chém
luôn tay trái. Lưỡi đao liễu phạt rào xả vào lùm cây, rụng lả tả. Võ vọt ra đứng
bên cửa khuất xỉa “véo véo” hai ngọn liễu đao miệng quát:
– Quỷ mũi vẹt! Tác hại người lành, mi trốn như chồn cáo, sao không dám
ra mặt?
Bỗng có tiếng thé nhọn:
– Thằng con nít mày học nghề đứa nào, chặt nổi cặp liễu dao? Có phen,
tao mổ bụng mày, moi tim, hút óc!
Nghĩ thoáng giây, Võ vừa xỉa vừa quăng mình ra chỗ con đười ươi vừa ra,
nhưng bóng lá loang lổ, mở trăng sương, chỉ thấy một, hai vũng máu đọng trên
mặt cỏ, kéo lết lỗ chỗ hơn thước, cỏ dập nát, rất nhanh, Võ thu về một đao xòe
tay ra trước mặt, kình điện phát ra có thể kiểm soát hàng vài mươi bộ, bỗng
chạm luồng điện lạ, chàng phóng luôn dao theo.
“Thụt!” Dao xuyên qua bờ bụi, tỉa một hàng lá rơi đứt lả tả, cắm mạnh vào
một vật gì, sâu lút cán, chàng trai thấy rúng động cả cánh tay, kình điện như bị
tảng núi chắn hút lấy, không hút ra được. Lạ lùng, Võ xẹt lên ba thước, vận
dụng lực kình, giật mạnh hai cái mới rút ra được. Bèn vọt tới, mới hay đã đến
ngọn đồi, lưỡi dao đã cắm vào một thân cây lớn lút cán, loại cây có nhiều
nhựa, gần gốc cây, có mảng thịt dính da thú như cánh bướm đậu ngọn cỏ rây
máu.
Võ nhìn quanh, ngọn đồi đầy nương sắn, bắp, rau cải, có những tàn cổ thụ
vươn cao, um tùm, úp dưới là cánh rừng sâu chạy tới rặng núi đá nhấp nhô và
chàng trai cả mừng, chợt thấy hai bóng dị dìu nhau chạy lao vùn vụt dưới tàn
cây sương trắng trăng mờ, cách sáu bảy chục thước. Chàng trai hét lớn:
– Quỷ mũi vẹt! Đứng lại! Ta có điều muốn nói! Chịu trả lời, ta thề không
hại đâu!
Hai bóng cứ chạy tiếng cười thé hắt lại:
– Thằng con nít Thổ rừng! Có ngày Chúa Sài Quẩy mổ bụng mi! Mi phá
hỏng việc Chúa Sài Quẩy hai phen rồi!
Võ vận sức quăng mình đuổi nhanh như gió nhưng khi tới cách khoảng
năm mươi bộ, bỗng nghe “bục” tiếng khá lớn, khói mù tỏa rộng như tạc đạn
khói, chừng Võ xẹt vòng tới, lại nghe “bục” hai, ba tiếng nữa, khói mù tỏa một
hình cung, xóa mờ hết cả cây cối bờ bụi, Võ Minh Thần quát lớn:
– Quỷ mũi vẹt! Có giỏi nói rõ nơi hang ổ, ta sẽ tìm tới… trừ hại cho người
lành!
– Hé he é é! Con nít to gan! Mi đến sao nổi động chúa núi Mã Đầu? Há há
á! Anh em tao sẽ đón moi tim mày nhấm rượu! Chúa Mã Đầu chỉ thích ăn gan
uống mật trai tơ như mày, không như tao chỉ thích gái tơ! Mã Đầu, hà hà, bên
kia biên thùy phân mao không xa đâu, cứ đến nộp mạng!
Tiếng cười quái gở nanh ác, vờn xoáy vào tai, Võ Minh Thần chạy vòng
phía Bắc, chặn ngang, nhưng chỉ thấy rừng khuya quạnh quẽ, gió thổi rì rào,
côn trùng rên rỉ, bóng hai con quỷ sống đã nương khói mù, biến vào đêm dày,
mất dạng. Ồn ào, có nhiều tiếng quát gọi ời ời, ba, bốn bón thổ dân từ phía đó
chạy ra ngơ ngác, hỏi chẳng ai thấy bóng quái chạy ngã nhào, nhưng mấy kẻ
mặt mày còn nhớn nhác vì nghe tiếng súng nổ phía bản trong.
Võ Minh Thần đành cùng bọn này quay vội về nhà ông Phìa. Đã thấy
Quản Kình cùng đám dân Mèo đang xúm nhau, dấp nước, lay gọi bọn người bị
mê, thấy Võ về, xúm hỏi. Võ bèn phụ với bọn Quản Kình, thổ dân, đem thuốc
riêng cứu tỉnh mọi người dậy.
Phút chốc cả nhà ông Phìa cùng bọn gái Mèo, trai tráng tỉnh dậy, bàng
hoàng, người người chưa hết kinh sợ, dáo dác dòm quanh. Võ Minh Thần phải
lên tiếng an ủi cho biết rõ hai con quái đều bị thương khá nặng tuy chưa vong
mạng, nhưng chắc không dám lần tới ngay.
Ông Phìa cùng hang động cảm tạ thầy trò chàng vô cùng, coi không khác
thần nhân giáng hạ xuống cứu dân bản. Ông Phìa xin hai thầy trò ở nán lại ít
hôm, cứu nạn, nhưng Võ cố từ tạ, nói phải đi có việc cần kíp, sau thấy hành
động khẩn khoản quá, chàng đành cho biết, sẽ tới thẳng hang ổ con quái để
trừ diệt!
Sáng sau, Võ Minh Thần, Quản Kình từ giã bản Mèo trên núi cao, lên
đường. Ông Phìa sai vật heo làm gà tiễn khách, nhất định tặng con ngựa khỏe,
không chịu lấy tiền. Lại kéo cả động đưa khách xuống núi lưu luyến không
muốn rời.
Võ Minh Thần, Quản Kình nhắm biên thùy phân mao ra roi, bỏ vùng đất
Việt, vượt ranh, sang thẳng nước Tàu. Dọc đường không xảy chuyện chi bất
trắc, nhưng tới địa phận Trung Hoa, vào mấy bản xạ phang đều thấy nhà nhà
đóng kín canh phòng cẩn thận, không khí chết chóc bao trùm, hỏi ra mới hay,
vùng này mới bị quỷ đười ươi lần tới bắt dàn bà con gái ăn thịt gieo khủng
khiếp khắp nơi, có nhà phải di tản.
Hai người đi sâu vào nội địa, gặp đâu hỏi thăm đấy, lẩn quẩn khắp miền,
chỉ được biết Quảng tây có ngọn Mã Đầu Sơn nhưng không hiểu ở chỗ nào.
Mãi hai, ba hôm sau, một bữa cả hai vừa đi tới một cánh rừng kia, về nẻo
Đông Bắc biên, ngựa vừa xuống chân đèo, bỗng gặp một cuộc chạm súng ngay
dưới thung lũng.
Đứng trên trông xuống, thấy một toán nhân mã năm, bảy bóng lực lưỡng
mang cây cờ hiệu nhỏ đi nước kiệu băm ngang qua thung lũng, bỗng có một
bọn vài chục tay súng trong từng vọt ra chặn lối, quát tháo chửi mắng nhau inh
ỏi, Pạc Hoọc nổ dòn tan nửa phút, chợt chỉ còn nổ lác đác, có tiếng quát như
sấm phía bọn người mang cờ hiệu:
– Tỉu nà! Mày là quân chó đói nào dám chặn đường gây sự? Không thấy cờ
hiệu à?
Có tiếng cười thét:
– Đừng trương cờ hiệu cho bẩn mắt thiên hạ, về bảo chủ tướng mày trương
cái quần đàn bà còn hơn! Tỉu nà! Thổ phỉ, hiếp dâm, ăn thịt người, nạt đàn bà
con gái!
Hai bên “tỉu” inh ỏi, không bắn nhau nữa, bỗng Võ Minh Thần dột lòng,
lắng tai nghe, tiếng tên khách mang cờ hiệu hét:
– Tỉu nà! Tao đi thu thuế dọc biên cho chủ tướng à! Cả năm nay, người Mã
Đầu mới đến vùng này, mày là thằng nào dám nói càn, làm bậy à!
– Hà hà, tao cũng ăn cướp như chúng mày, nhưng tao không cướp giật của
đồng nghiệp, không bắt vợ con thiên hạ! Tao có việc qua miền này, tụi mày
bắt vợ con tao, tao phải giết hết tụi Mã Đầu! Tỉu nà! Mã Đầu cẩu quẩy! Tao
không thèm ỷ đông, có giỏi đánh tay đôi với tao?
– Tỉu nà! Thằng điên cuồng không biết phải trái! Đầu lĩnh Mã Đầu cũng
đập chết được Tài Wang núi khác à!
Hai bên hét thủ hạ dạt xa, đoạn lập tức vọt ngựa chếch tới ngay chân đèo
Võ đứng, chỗ có một khoảng trống bên con suối khá rộng. Thầy trò Võ thấy rõ
tên khách cầm cờ hiệu trạc hơn ba mươi, râu ria xồm xoàm, đeo Pạc Hoọc, mã
tấu, tay cầm đầu đám hơn ba mươi thủ hạ kia cũng là tên khách Quảng Tây
lực lượng, râu quai nón, trạc tứ tuần, cả hai đều mặt mày coi táo tợn, đúng
hàng lục lâm thổ phỉ biên giới!
Tên khách tứ tuần này cầm một quả chùy gai xông tới, đập liền, hai tên
quần thảo, búa, chùy quật nhau chan chát, rất hăng, mãi chưa phân thắng bại.
Võ Minh Thần sốt ruột quay bảo Quản Kình:
– Coi hai tên thổ phỉ cũng khỏe đó, nhưng có lẽ đồng sức, đánh đến tối
chưa xong. Chú xuống can chúng, làm quen với tên người Mã Đầu đi!
Hiểu ý chủ, Quản Kình sốc áo bảo:
– Làm quen không bằng làm thân! Dầu có bắt sống nó, nó cũng chẳng
chịu khai sào huyệt. Chi bằng bênh nó… Như thế… Như thế…!
Võ gật đầu, Quản Kình vọt luôn xuống, xông vào can, quả nhiên gã khách
tứ tuần râu quai nón mê trận, nạt lui liền, Kình cả giận mắng lớn:
– Tỉu nà “nị”? “Úa” thấy đánh lộn, tốn cơm, “úa” can, sao dám hỗn! “Ní”
đón đường gây sự, còn không biết lỗi à?
Tên khách kia vác chùy xông tới đập luôn, miệng chửi như điên:
– Mày là đứa nào? Mày đồng đảng với tụi bắt vợ con tao?
– Tao không quen! Nhưng mày không thấy chữ đề trên cờ hiệu ư? Mã Đầu
Sơn danh lừng biên giới, bên Nam tao cũng nghe tiếng, mày dân Tàu không
biết sao? Thôi bỏ!
Tên khách giận trợn ngược mắt, lăn vào, tên kia thấy thế có cảm tình liền
sấn tới đỡ cho Kình hét lớn:
– Thằng điên này không biết phải trái à! Người bạn nước Nam giang ra,
để ngộ cho nó mấy búa!
Quản Kình rút mã tấu gạt y ra, đánh với tên kia. Kình còn lẹ hơn một bực,
qua mấy đường đã cho luôn hai nhát nhưng chém bằng sống mã tấu. Tên kia
tức quá, hét như sấm, đám thủ hạ từ đàng xa reo hò múa súng kéo tới, tên Mã
Đầu giật mình kêu lên:
– Nó đông dữ à! Coi chừng!
Nhưng Quản Kình cứ đánh dồn tên kia lui mãi, khi đám thủ hạ đã tới gần,
Kình nhè quay sống mã tấu nện một cái vào cườm tay, rớt luôn chùy, Kình vọt
sang điểm huyệt, ra hiệu cho tên Mã Đầu, hét:
– Đứng lại! Đứa nào lại gần tao cho nó xuống âm ty! Hầy à! Rút nhanh,
tao tha cho nó!
Bọn này đông nhưng thấy chủ tướng đã bị tóm đành chửi thề, uất ức dạt
ra xa, bọn thủ hạ Mã Đầu kéo tới xua bạt ra, tên khách đầu lĩnh cười ha hả vẻ
khoái chí hết sức.
Quản Kình đứng sau thân cây lớn, giải huyệt á khẩu cho tên khách cầm
chùy gai, vỗ đốp vai khô giọng:
– Đuổi tụi nó đi xa cho rồi! Ngộ sẽ thả chú mày sau!
Tên này giận xung thiên, bị kẹp cứng, túng thế, đành chịu phép, vừa đuổi
thủ hạ đi.
Quản Kình nhặt cây chùy gai, vẫy gọi Võ Minh Thần xuống, đoạn ra hiệu
cho bọn Mã Đầu Sơn cùng phi ngựa về phía Bắc, xế tới một rặng núi đá chờn
vờn tạt vào chân núi, Quản Kình vờ hỏi tên cầm chùy:
– Nguội chưa? Giờ ngộ thả nị nhé? Chuyện mất vợ mất con bỏ, đi kiếm lỗ
phồ khác!
Tên khách này hét:
– Tỉu nà! Vợ con tao đẹp nhất nước Tàu không kiếm đâu được à! Còn sống
ngày nào, tao quyết báo thù, tao đốt hết núi Mã Đầu, bắt hết vợ con tụi nó bán
cho nhà thổ à! Mày bên Nam sang, mày bênh nó, tao bắt cả vợ mày!
Quản Kình cười khà:
– Vị này nóng như Trương Phi, thôi chịu khó ngồi xem khỉ vượn giây lát,
tụi ngộ có lời chào!
Dứt lời, Quản Kình lấy dây thừng trói y ngồi trên lưng ngựa, buộc chặt vào
một thân cây lớn, cắm chùy gai trước mặt, vỗ vai y nói lớn:
– Chịu khó lăn cán chùy mà cứa dây thừng à! Hơi lâu đó, nhưng không hề
gì? Nước chảy đá mòn, cứa lâu dây đứt! “Chẩu” à?
Nói xong, cùng mọi người bỏ đi sau khi giải huyệt cho y. Tên khách vùng
vẫy, tỉu inh ỏi, làm con ngựa y phát hoảng, chạy lồng đi, thành y bị treo lơ
lửng vào thân cây, cách mặt đất hơn thước, tên đầu lĩnh Mã Đầu ngoái dòm
lại, cười hô hố, ra phần hứng chí, vừa chạy ngựa ra đường mòn, vừa hỏi Quản
Kình :
– Hầy à! Người bạn bên Nam phạt tội nó ngộ dữ à! Mà sao người bạn lại
bênh ngộ? Hẩu lớ! Hẩu lớ!
Quản Kình nói luôn:
– Ngộ cùng cậu chủ đây nghe tiếng Mã Đầu Sơn từ bên Nam, bọn ngộ rất
thích nghề lạc thảo, bọn ngộ muốn nhập bọn à?
Tên khách nghe nói thế, càng khoái, y ngó Võ Minh Thần, hơi ngạc nhiên
vì vẻ dáng thư sinh, lại đeo cái dù sau lưng, y cười ngất:
– Này! Cậu học trò này cũng thích nghề không vốn? Ngộ dữ à! Tưởng gì,
muốn nhập bọn, có ngộ nói, chủ tướng ngộ nhận ngay à! Chủ tướng ngộ thích
người giỏi võ, nị giỏi võ, được làm tùy tướng ngay!
Thầy trò Quản Kình hết sức mừng thầm, vội lên tiếng nhờ cậy. Tên đầu
lĩnh rút trong túi một tấm thẻ đồng tròn như đồng bạc, đưa cho Quản Kình.
– Ngộ còn phải đi thu thuế, nửa tháng nữa mới về! Nị cứ đến Mã Đầu Sơn
nộp cái thẻ bài này cho đồn ngoại phòng, sẽ được lên núi à! Nhưng phải cẩn
thận chủ tướng ngộ tính nóng như lửa, khéo mất đầu à?
Thầy trò Quản Kình nhìn tấm thẻ, thấy khắc hình cờ đầu con ngựa, dưới
có ghi số hiệu, tên tuổi, cấp bậc mới hay tên y là Tchang Xây, đầu lĩnh biệt
phái doanh quân lương thuộc hàng cao trong đoàn quân thu thuế. Tchang Xây
lại chỉ cả đường nước tới núi Mã Đầu không hề ngờ vực, vì thấy Quản Kình
bênh vực y rất nồng nhiệt.
Biết rõ nơi sào huyệt Mã Đầu rồi, Võ Minh Thần, Quản Kình lập tức từ giã
viên đầu lĩnh Tchang Xây, hai bên chia tay, đi hai ngả, lòng mừng rỡ không
ngờ việc giữa đường
Biên địa Tàu, Quảng Tây tiếp giáp Cao Bắc Lạng hầu hết là những vùng
núi đèo hiểm trở, nhiều chỗ còn hoang vu hơn cả bên đất Việt, xưa nay vốn là
đất dung thân của giặc cỏ nên rất khó đi.
Ngoại trừ một vài con đường vẫn được dùng làm các trục giao thông của
quan binh Tàu, khách thương dân chúng, nhưng đương thời không khí “ngoài
vòng pháp luật” vẫn bao trùm, thổ phỉ như rươi, dựa vào địa thế thiên hiểm
hoành hành, khách đi xuyên sơn thường bị cướp đoạt, mất mạng, nhưng vùng
nào có tay thổ phỉ mạnh còn đỡ, tay lạc thảo nào quét hết giặc cỏ tạp nham,
thu thuế, thu tiền mãi lộ, nghiễm nhiên thành một thứ “Tài Wang” nhất thống,
đặt ra luật lệ riêng, dân chúng, khách thương tuy khổ, nhưng còn đỡ hơn chịu
cảnh thổ phỉ như rươi, đại vương nhiều hơn chó đá, nơm nớp sợ mất của mất
đầu như chơi. Nhất gặp được tay “Tài Wang” nào có đầu óc tổ chức, biết cai
trị, biết nuôi dân để dân nuôi lại, ai cũng vui lòng.
Hai thầy trò Võ Minh Thần cứ noi theo các sơn lộ, đi qua các khu rừng
rậm, bản dân, phần lớn là dân xạ phang thổ phỉ sắc dân lai Thổ, Nùng, Tàu…
thường gặp tại biên giới, giống người dữ tợn, ít học, hay đi ăn cướp, giết người
nên người ta quen gọi giặc cướp biên giới là thổ phỉ, tuy thổ phỉ mạn Thái
Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang cũng nhiều rồi đến dân Tàu.
Hai thầy trò lấy làm lạ, đi quanh co ngót hai ngày, không gặp thổ phỉ gì
cả, mà gặp mấy trạm thu tiền mãi lộ, toàn của Mã Đầu Sơn, chỗ nào, khách
vãng lai cũng nộp nườm nượp, đi bộ một mức, cưỡi ngựa một mức, tải hàng
hóa một mức… đâu vào đấy. Đặc biệt có một trạm còn thấy cả một tốp quan
quân vùng nào đó đi qua cũng vào nộp, nhưng bọn đứng trạm không lấy. Thầy
trò Võ vào, đưa tấm thẻ của Tchang Xây, bọn này cũng miễn thuế. Nhưng tới
một cánh rừng rậm kia, bỗng gặp một bọn hơn mười tên ra đòi tiền mãi lộ,
khách ngược xuôi buôn bán cho biết đường này nộp rồi, bọn kia “tỉu” inh ỏi,
bảo chúng không biết Mã Đầu Sơn và toan cướp đoạt của cải hàng hóa, thầy
trò Võ phải ra tay đánh đuổi, bắt sống tên đầu đảng, tra vấn mới hay, Chúng là
quân Mã Đầu Sơn, nhưng thuộc núi Ngưu Đầu sát nhập, nhân có việc qua đây,
bàn nhau “ăn mảnh” một chuyến. Chúng van lạy như tế sao, khiến Võ động
lòng, tha cho, đoạn tiếp tục lên đường. Lòng ngạc nhiên bảo Quản Kình:
– Lạ thật! Xem chừng cả miền thiên địa này, đều nằm trong vòng thế lực
của Mã Đầu Sơn có vẻ yên ổn hết sức không như miệt giáp Trùng Khánh phủ
Cao Bằng ta. Có lẽ vùng đó chưa vào vòng kiểm soát của chúng. Nếu vậy tên
chúa đảng Mã Đầu Sơn này rất lợi hại, vừa tàn ác vừa khôn quỷ, ta phải cẩn
thận mới được.
Thực ra, chính Quản Kình cũng chưa rõ tiểu chủ y tìm đến sào huyệt núi
Đầu Ngựa làm gì?Y chỉ đoán phải có chuyện quan hệ lắm nhưng không bao
giờ hỏi. Nay nhân tiện Võ bàn, Quản Kình bèn góp theo mới hỏi cho biết. Võ
Minh Thần không biết bày tỏ nhiều, khi tất cả còn mờ mịt. Võ chỉ bảo:
– Việc này dính dấp đến mẫu thân tôi. Người bị chết thảm, sau khi sinh
tôi, phụ thân chưa kịp tiết lộ, thì bị giết, chú Sềnh dặn “đi tìm chúa Đầu
Ngựa”. Khi tôi hỏi đến kẻ đại thù!
Quản Kình khẽ thở dài, thương tiểu chủ hết sức.
Chiều đó vào khoảng gần năm giờ, hai người tới vùng núi Đầu Ngựa. Một
vùng thâm sơn cùng cốc, núi cao, rừng rậm, hoang vu, cô tịch, chỉ thấy chim
kêu, vượn hú chon von, bốn bề không một bóng nhà thổ dân.
Theo đúng lời chỉ dẫn, hai người đứng trên đèo cao nhìn về phương Đông
Bắc quả nhiên thấy một ngọn núi cao chót vót giống hệt một cái đầu ngựa
khổng lồ, in vào nền trời như đang đớp mây bay, coi rất hùng vĩ.
Bèn cho ngựa nghỉ ngơi giây lát, đoạn lóc cóc xuống đèo, đi vào một con
thung lọt thỏm giữa mấy rặng núi đá dựng thành. Nhìn địa thế hiểm trở, hoang
dã, Võ Minh Thần bảo Quản Kình:
– Nay đi vào sào huyệt Mã Đầu đầy thổ phỉ, cạm bẫy, vào sinh ra tử, tôi
định gặp tên chúa Mã Đầu, rồi sẽ tùy cơ ứng biến. Vạn nhất, nếu rõ chuyện
năm xưa rồi, tôi sẽ bắt sống nó, vừa tế vong hồn mẹ tôi vừa để ra khỏi sào
huyệt của nó cho dễ, hoặc sẽ lâm nguy, sẽ rút theo đường núi, nếu chú cùng đi,
sẽ bất lợi mà lại nguy hiểm nữa. Vậy chú nên đợi tôi ở bên ngoài, nội đêm này
sẽ gặp nhau!
Quản Kình không chịu, quyết đòi theo, khẳng khái bảo:
– Tôi là kẻ theo cụ nhà đã lâu, mối thù của cậu hai là mối thù của tôi, nếu
không được chia sẻ, mai sau tôi còn mặt mũi nào ngó hai cụ dưới suối vàng!
Tôi tuy võ nghệ kém nhưng cũng đã phụ cậu hai nhiều thứ, cậu hai cứ cho tôi
đi. Phàm vào nơi ổ giặc, dàn mặt sợ nhất nó bắn trộm, có tôi không phải thừa
đâu!
Võ Minh Thần đành chịu. Hai người cho ngựa bước một tiến vào thung
lũng. Đường mòn chạy qua một bên núi dài, quanh co, chớn chở, càng vào
càng thắt lại, hai bên núi cây cối rườm rà, địa thế hiểm trở.
Lóc cóc! Lóc cóc! Vó ngựa nổi khua mặt đá gập ghềnh vang âm, sạo gợn
mặt trời mùa thu lạnh đã hạ gần ngọn núi Tây, qua sương chiều, ánh sáng úa
thoi thóp đổ xuống hẻm, mỗi bước đi như có tử thần rình rập, không khác
Bàng Thống qua Lạc Phụng Ba! Hai người vừa chậm bước lỏng buông tay khấu
vừa liếc mắt nhìn quanh, tuy chí báo thù sôi sục, lòng uất thầm lo con quỷ mũi
vẹt đã kịp mò về trước, đang nấp sau đá rình “đón tiếp”.
Quản Kình cầm tấm thẻ bài giơ trốc đầu, khoa nhẹ, ngựa mới vào được
non một trăm bộ, bỗng nghe “đoàng đoàng” hai tiếng Pạc Hoọc nổ dòn đạn
“chíu chíu” trước mũi. Cả hai cứ tiến, vừa tới một chỗ hình thước thợ quanh
bỗng lại có hai phát tên nữa bay qua, cắm chéo hai bên cây rồi từ đâu một cây
giáo dài phóng ra, “phập” chắn ngang trước đầu ngựa.
Rồi từ trên mỏm đá cao hơn mười thước, nhô ra một tên khách cao lớn dữ
tợn, cầm một lá cờ đuôi nheo đỏ phất tía, quát như sấm:
– Hầy à! Hai người kia đi đâu? Không biết đây vào đất Tài Wang Chúa Mã
Đầu à? Đứng im!
Hai thầy trò nhìn quanh, thấy súng ống chĩa xuống tua tủa khắp trước sau,
Quản Kình khoa thẻ bài nói lớn:
– Có việc vào gặp Chúa Mã Đầu! Ngộ có bài hiệu của Tchang Xây đây!
Lập tức tên khách phất lia cờ, từ hai bên núi, hơn chục tên thổ phỉ kéo
xuống, hỏi qua, rồi tên khách cầm cờ sai khua một tràng thanh la, ít phút sau
một toán bảy tên cưỡi ngựa, đội mũ rộng vành, xách súng chạy ra, Quản Kình
đưa thẻ bài bảo:
– Tchang Xây trỏ đường cho bọn ngộ tới! Bọn ngộ có việc cần gặp Chúa
núi!
Gã đầu mục nhìn chòng chọc, hỏi:
– Hai “sếnh sáng” gặp có việc gì?
Võ Minh Thần từ tốn bảo:
– Mỗ có việc quan hệ, nị cứ đưa mỗ vào!
Gã đầu mục nhe răng cười khẽ:
– Tài Wang lo việc lớn, còn các việc thường thường, đầu lĩnh đầu mục lo
lấy, Tài Wang ngộ bận luyện võ à!
Thầy trò Võ đành tỏ ý muốn nhập bọn, gã đầu mục cười bảo:
– Hầy! Vậy phó tướng ngộ cũng định được rồi!
Giật mình, Quản Kình hỏi vội:
– Phải phó soái mũi vẹt, một mắt?
Gã đầu mục thoáng ngơ ngác, lắc đầu:
– Mã Đầu ngộ có hai, ba ông phó! Có một ông một mắt thứ hai, nhưng có
cái mũi cũng cong cong à! Nhưng ông phó nhất khác!
Hai người không nói nữa. Lập tức gã đầu mục dẫn hai người vào núi. Đi
hết đường hẻm qua một con thung hiểm, đã thấy doanh trại san sát tựa vào
răng núi lớn, có cả bãi tập bắn giáo trường, khe suối quanh co, đồn binh rải
rác, cờ hiệu bay phấp phới, coi ngăn nắp, chỉnh tề lắm. Thổ phỉ đi qua lại tấp
nập, hai người lấy làm lạ, thấy cả đàn bà, trẻ con, chừng vợ con tụi chúng.
Thấy tên đầu mục dẫn hai người mặc quần áo Thổ đi qua, ai nấy trố mắt
dòm, tên đầu mục đưa thẳng vào chân núi, tới một căn nhà rộng, trước cửa có
ba bốn chục tên đang đấu võ, đấu mã tấu, reo hò inh ỏi. Có hai, ba gã đừng
trên thềm coi, thỉnh thoảng chỉ trỏ, cổ võ, tên đầu mục đưa thẳng tới, nói líu
lo, một gã dáng đầu lĩnh nhìn tấm thẻ bài ngắm hai người, hỏi vài câu, đoạn
gãi râu bảo:
– Hai sếnh sáng muốn lên trại gặp phó tướng hãy để súng lại đây!
Không do dự, thầy trò Võ làm theo, Quản Kình rút cây súng trận, súng cối,
cùng khẩu súng mười hai của Võ trao cho chúng, trao luôn cả mã tấu. Gã đầu
lĩnh vẫy tay cho tụi đầu mục trở ra, đoạn sai lấy ngựa đưa hai thầy trò lên núi.
Đường lên quanh co khúc khuỷu, hệt đường đèo, còn qua hai trạm gác
nữa mới tới lưng chừng núi. Mới hay trên núi còn mấy khu dinh trại rải rác
quanh sườn, coi như các vị trí cố thủ phòng bị tấn công.
Gã đầu lĩnh xuống ngựa, ra hiệu cho hai người buộc trước trạm, cho bộ hạ
giữ, đoạn dẫn hai người qua một lối đá, đi vòng ra phía sau. Thấy một khu lòng
chảo khá bằng, có mấy căn nhà nho nhỏ dựa ghềnh, thấp thoáng có bóng
người qua lại. Y đưa vào một cán, đầy giây leo, phong lan, có hai tên vạm vỡ
dữ tợn, đứng coi một tên gầy đét cao lêu nghêu, mặt mũi xanh rờn đang ngồi
chuốt một bàn tay thép.
Tên này cụt tay mặt có lắp bàn tay thép vào, giống hệt bàn tay năm ngón,
nhưng ngón nào cũng nhọn hoắt sắc như dao, xòe úp xuôi đều, thành năm mũi
giáo, hai bên là hai lưỡi đao.
– Thiết Thủ Đại Vương phó tướng đó!
Thấy động, cả mấy gã ngoảnh trông ra, viên phó tướng Mã Đầu vừa hỏi
lớn vừa xỉa vụt bàn tay về phía cuối nhà, “soạt” tiếng, cả bàn tay sắt đã bay
vút ra, “phập, phập” đứt lìa phăng hai cái tai pho tượng gỗ lắc lư khật khưỡng
nhe “ông lật đật”, cách khoảng mười lăm bộ, chỉ thấy nháng sáng, hai cái tai
rụng xuống, y đưa tay lên gãi ria mép, tay y đã lắp nguyên bàn tay thép như
cũ.
– Việc gì đó? A Hếch? Khách à?
Tên đầu lĩnh tiến vào, lễ phép trao tấm thẻ bài Tchang Xây, nói líu lo một
hồi, viên phó tướng ngó hai thầy trò Võ cười lớn:
– Hầy à! Chú kia coi được còn chú học trò xách ô kia cũng thích hành
nghề lạc thảo? Ngộ dữ à! Có ngón gì hay góp với tụi ngộ?
Vừa dứt lời, lẹ như chớp, viên phó tướng Mã Đầu Sơn xoay nghiêng người,
xỉa vụt ra chỗ thầy trò Võ Minh Thần.
Lúc đó cả hai còn đứng giữa khung cửa, thủ pháp hắn nhanh hết sức, lại
nhằm Quản Kình tuy cũng có bản lĩnh, nhưng chỉ đủ sức đỡ gạt ra thôi, may
Võ Minh Thần đã vận công sẵn lập tức phất “soạt” tay, điện kình bay ra vừa
chặn vừa hút luôn bàn tay thép, Võ đảo nhẹ cái bàn tay thép đã lắp luôn vào
đầu ngón tay chàng, êm như không.
Cả mấy tên đầu lĩnh cũng tròn xoe mắt, viên phó tướng có tên Thiết Thủ
Đại Vương giật mình ngơ ngác, lặng đi mười khắc trước thủ pháp lợi hại phi
thường của chàng thư sinh coi vẻ trói gà không chặt. Vẫn thản nhiên như
không, Võ Minh Thần đưa tay gại gại lưỡi thép, khen:
– Hầy! Bàn tay này sắc dữ à! Xỉa trâu cũng chết, chắc cứa cổ nhiều người
rồi! Trả “Tài Wang”!
Dứt lời, Võ lẳng nhẹ cái, bàn tay sắt bay vụt tới viên phó tướng Mã Đầu.
Hắn có thể xỉa đứt tay tượng gỗ, nhưng lại chưa đủ sức điện công để thu bàn
tay từ tay kẻ khác phóng ra, nên hắn giật mình hụp luôn đầu xuống tránh.
Bàn tay xé gió vút tới, nhưng bất thần ngừng lại ngay chốc đầu hắn, hắn
thấy im lặng, lom khom ngửa lên trông, càng kinh, thấy bàn tay đậu lơ lửng
chao qua chao lại, rồi sà xuống trước mặt hắn. Võ chìa tay như trao vật gì,
điềm đạm bảo:
– Kìa mỗ trả lại Tài Wang mà! Cầm lấy chứ!
Viên phó tướng Mã Đầu lùi một bước, đứng lên, bàn tay cũng dâng lên
chao qua lại, như có bàn tay vô hình phất phất, tung êm ru, hắn cũng phát ghê
uy lực, vì điều khiển được vật cách không êm và chậm, phải là tay có sức điện
kinh người, Võ giục đến lần thứ ba, hắn mới thò tay chụp lấy bàn tay thép, giật
mình suýt buông rời vì bàn tay nóng như nung ở lò lửa vậy! Bao nhiêu vẻ oai
vệ biến mất, viên phó tướng Mã Đầu thở phì, vùng hỏi:
– Nị sếnh sáng học trò giỏi hơn cả thầy ngộ… lại đến nhập bọn lạc thảo?
Giỏi dữ sao không làm Chúa núi một mình?
Võ Minh Thần từ tốn:
– Mỗ mới học hạ sơn, chưa ra đời bao giờ, mỗ nghe tiếng Chúa núi Đầu
Ngựa, mỗ thích, tìm tới! Hãy cho bọn ngộ được gặp!
Viên phó tướng này qua phút kinh hãi, đâm ngờ, hắn lắc đầu nghi hoặc:
– Không phải đến nhập bọn! Có chuyện khác à! Người như sếnh sáng,
không phải hạng thích nghề ăn cướp!
Võ Minh Thần cố giải thích, hắn cứ hỏi vặn, chàng trai đành bước vào,
nào dè hắn càng sinh nghi lùi lại bất thần hắn quơ tay vào vách từ trên trần,
bỗng vụt xuống một tấm lưới thép chụp nghiến lấy chàng trai. Quản Kình la
lên, cả ba tên đầu lĩnh vùng chỉa súng nhưng đáo sự mới hay bản lãnh Võ
Minh Thần đã luyện tới mức siêu việt, ứng phó rất tinh khôn, không phí một
giây, thấy lưới chụp xuống, trái với người khác thường tính ngay chuyện tung
lưới thoát, Võ không thế, chàng phản ứng ngược lại, cứ đứng yên, thò vụt chỉ
thủ điểm thốc vào tên phó tướng Mã Đầu, xoay nửa bộ điểm luôn ba tên đầu
lĩnh đứng lố nhố quanh, Võ xuất chỉ phong điểm cách không đúng lúc lưới
chụp xuống lẹ và bất ngờ đến nỗi cả bốn đều là tay có nghề cũng không kịp
trở tay, trúng đòn, gục hết.
Quản Kình đứng ngoài phải sững sờ trước sự nhanh tay nhanh trí của tiểu
chủ, Kình vọt vào, lúc này chàng trai Võ mới ung dung lia dao khoét lưới, bước
ra.
Đến nước này không thể trá nhập được nữa, Võ Minh Thần ra hiệu cho
Quản Kình trấn cửa đoạn túm viên phó tướng Thiết Thủ lôi dậy giải huyệt, hỏi:
– Chủ tướng mi đâu? Nói mau! Đừng để mỗ phải nặng tay khảo!
Thiết Thủ Đại Vương lừ lừ nhìn Võ, vẻ giận xung thiên:
– Muốn gặp chủ tướng ta làm gì? Báo thù hay chiếm núi?
Võ khẽ tiếng:
– Không phải việc nị? Cứ đưa mỗ tới gặp sẽ biết! Tên phó tướng quỷ mũi
vẹt về đây chưa?
Thiết Thủ ngó sững:
– Mới về! Ngươi cũng có thù với y?
Võ Minh Thần lại hỏi:
– Phải y có một mắt?
– Chính thế! Y bị móc mắt đã mười năm! Mười năm nay y luyện võ để trả
thù!
Võ thở phào, nhẹ nhõm, quay bảo Quản Kình:
– Không còn ngờ gì nữa! Con quỷ mũi vẹt một mắt đúng quỷ tặc trên núi
Đầu Ngựa này! Thiết Thủ! Chịu dẫn chứ?
Viên này thất thế, mắt nảy lửa, cười gằn:
– Được! Ta dẫn tới! Nhưng mi đừng hòng thoát khỏi Mã Đầu Sơn!
Quản Kình xách ba gã đầu lĩnh đặt ngồi mấy phía, đoạn thủ luôn cây
súng ngắn dắt kín trong mình, cùng Võ Minh Thần áp điệu Thiết Thủ Đại
Vương ra ngoài.
Hắn bị triệt võ công đi trước, Quản Kình bám sát, đường lên núi quanh co
khúc khuỷu rải rác phía trên và có một vài khu nhà nửa chừng của bọn phó
tướng đầu lĩnh với một ít lâu la trực hầu canh gác. Thỉnh thoảng có một, hai
tên khách từ trên đi xuống, chào hỏi Thiết Thủ đều bị Võ điểm huyệt gục bất
thần, giấu vào kẹt đá bụi rậm.
Chừng nửa giờ sau, mới lên tới đỉnh núi, ngọn “Đầu Ngựa” sừng sững đớp
trời, còn le lói ánh nắng thu tàn. Sương lam khí đá đùn chăng vơ vẩn, ngay
dưới cổ ngựa là một khu lòng chảo khá bằng phẳng, coi như cái đài sen loe,
tòa ngang dãy dọc ngổn ngang, rải rác bóng người ngựa qua lại, nhưng không
đông mấy, có lẽ chỉ là một số tùy thuộc viên chủ tướng, thấy cả bóng đàn bà
thấp thoáng.
Thiết Thủ đưa hai người qua lòng chảo, trại doanh trung ương, bọn giặc
thấy chào rất lễ phép. Đi đến chân cổ ngựa, chợt thấy một cô gái Tàu đi ra,
Thiết Thủ hỏi luôn:
– Chủ tướng đang làm gì đó, A Múi!
Cô gái chào, ngó bọn Minh Thần, líu lô:
– Tài Wang sếnh sáng đang tập võ! Có cả Tài Wang bên núi Đầu Trâu!
Em xuống sửa soạn tiệc rượu à!
Mắt Thiết Thủ sáng hẳn lên nhưng không dám khác ý vì Quản Kình đã
vượt lên một bước, dòm chừng. Hai bên chia tay, đi vòng sang bên kia cổ
ngựa, vụt hiện ra một khu rất u nhã.
Cây cối mọc kẹt đá xanh um, hoa nở tốt tươi coi vẻ hoa viên, dưới tàn cây
có hai, ba căn nhà xinh xắn, dựa cổ ngựa là một căn nhà gỗ hai tầng, kiểu nhà
sàn, dưới vách trống, hoa leo mọc dày che kín cột, đàng gian đầu là tàu ngựa,
gà vịt, chim câu hàng đàn. Giữa vườn hoa, có một con hổ vằn đang uống nước
coi vẻ cọp nuôi làm cảnh.
Đoán chắc có cạm bẫy, Võ Minh Thần nắm tay Thiết Thủ, trầm giọng:
– Việc mỗ tới đây là chỉ cần gặp chủ núi, mỗ không muốn nị chết oan!
Phải căn nhà sàn kia?
Thiết Thủ gật đầu, dẫn thẳng tới, y men sát vách đá, vòng ra phía trước,
đứng trước một chiếc thang mây vắt chếch lên thềm lầu. Con hổ vằn thấy
người, lững thững bước tới hít ống quần, Thiết Thủ đưa hai người lên thang
mây, lại thấy một con báo gầm đi tới, Võ Minh Thần liếc thấy hiên dài chừng
hơn ba mươi thước, gian đầu vắng không, chỉ có một tên đầu lĩnh to lớn bắc
ghế ngồi đó.
Vừa thấy bọn Thiết Thủ, y đứng lên chào, định bỏ đi luôn, Võ Minh Thần
lẹ tay búng véo một cái, tay kia thọc luôn vào sườn Thiết Thủ, Quản Kình đỡ
tên đầu lĩnh, Võ đỡ Thiết Thủ, vác vào đặt xó buồng. Đoạn nhẹ gót xuyên cửa
thông sang buồng bên, đây là một căn rộng dáng phòng khách, bầy biện rất
nhã.
Qua buồng khách, tới đầu bên kia, sau rèm cửa thông, thấp thoáng hai, ba
bóng nam nữ, nấu nước, pha trà, gọt trái rót rượu…ra vào căn buồng phía sau
sát vách đá. Đợi chút hai ả vào, còn một, Võ dặn Quản Kình trấn ngoài, đoạn
rón rén nương đồ vật tiến vào, hạ luôn một gã khách lớn vừa đi ra. Nhờ có
ngón điểm cách không á khẩu, Võ đột nhập êm ru ngồi thụp, vén rèm, dòm
vào.
Buồng trong, cửa đóng kín, khói um, mùi thơm ngầy ngật tỏa ngào ngạt,
một cảnh huyền ảo hiện ra, lặng lẽ như trên màn ảnh câm. Xế cuối buồng, xa
xa có một cái sạp rộng, có hai tên khách nằm hút thuốc phiện, dưới chân, một
ả tàu đang ngồi tiêm thoăn thoắt luôn tay. Hai ả hầu vặt gần đấy.
Ánh đèn dầu lạc lung linh hắt lên người, vật quyện khói thuốc lờ mờ, cả
hai đều mặt xường xám chấm gót, lưng quay vào trong, mặt hướng ra ngoài,
một tên gầy gò coi ốm yếu như que củi, trạc hơn bốn mươi lăm, bốn mươi sáu,
để ria dài, không cân, mặt coi đanh thép phong trần, còn tên kia trái lại to như
con trâu mộng, cụt một chân, lắp chân gỗ, râu quai nón xồm bàn chải, cằm
bạnh, mắt diều hâu, vừa oai vừa dữ hết sức!
Nhìn kỹ, mới hay chỉ có tên khách ốm nằm hút liên miên không ngớt, còn
tên kia nằm không, cả hai đều nhắm mắt. Để ý, còn thấy bên kia đầu tên
khách ốm có đặt một khẩu “moóc chê tám mươi mốt” bên một sợi dây lưng to
bản, dắt đạn tám mươi mốt nằm một hàng như đàn lợn con.
Võ Minh Thần ngạc nhiên, nghĩ thầm:
– Quái nó nằm hút thuốc phiện, sao con hầu lại bảo nó luyện võ? Hay nó
luyện bí kíp? Phù Dung Công? Mà tên nào là Chúa Mã Đầu? tên gầy hay tên to
lớn kia? Chưa rõ nó lợi hại đến mức nào? Tình thế này, kéo dài bất lợi, thủ hạ
nó đổ tới, sẽ ngay?
Phải nhân bất ngờ đột nhập, giải nhập là hơn!
Bèn vén rèm xẹt luôn vào, đứng tựa lưng vào vách, nhanh như chớp búng
lia mấy nhát chỉ phong vào mấy kẻ hầu gục ngã, quát chìm:
– Nằm nguyên! Ta có chuyện muốn nói!
Lời vừa dứt, dù đã cắp nách, chĩa vào sập, tay phải xòe cong, trong tư thế
sẵn sàng chụp. Võ Minh Thần chiếu cặp mắt điện vào hai tên khách. Đang
nằm nhắm mắt hút, sực nghe động âm, tiếng quát, cả hai tên khách cùng mở
choàng mắt ra nhưng có điều hơi lạ là cả hai đều không ai giật nẩy mình, cứ
nằm yên, đủ tỏ cả hai đều cao tay bản lĩnh. Vừa mở mắt trông ra, thấy một
chàng trai điển đứng sững dưới ánh đèn dầu vàng sệt, mặt lạnh như băng,
nách lại cặp một cái dù trắng, coi rất ngộ, tên khách to lớn vùng cất giọng lệnh
vỡ hỏi gọn lớn:
– Nị là ai?
Dằn nhẹ bàn tay xòe trảo, Võ Minh Thần hất hàm, khẽ tiếng Quảng
Đông:
– Trong hai người, ai là Chúa núi Mã Đầu?
Hai tên nhìn nhau, tên gầy ốm nhếch mép cười lạnh lẽo:
– Hỏi Chúa Mã Đầu có chuyện gì? Coi sát khí đầy mặt, phải đến báo thù?
Cách sáu, bảy bộ, Võ Minh Thần tiến thêm một bước dài, dằn giọng:
– Muốn hỏi ai là Chúa Mã Đầu?
Viên khách ốm vẫn không nhúc nhích:
– Ta đây! Nhưng ta rất ghét kẻ ăn nói khiếm nhã! Muốn hỏi gì cũng phải
cho lễ độ chứ? Chú mày còn trẻ tuổi, tưởng có tài lên được tới đây, là muốn sao
cũng được à?
Cảnh tượng con quỷ mũi vẹt sát hại gái tơ trên ngọn đèo hiện trong óc, Võ
cười khinh nhạo:
– Lễ độ? Hừ! Ngươi nói nghe tử tế lắm nhưng có thể nào lễ độ với tụi moi
tim, moi óc, hút tủy, hiếp sát gái tơ chăng?
Tên khách ốm quắc mắt:
– Ngươi từ đâu đến, có thể nhục mạ Mã Đầu Sơn đến thế ư? Hãy thận
trọng, ta không quen giết người khi chưa rõ bạn, thù! Nhưng lệ đó có thể phá
bỏ nếu ngươi dám lăng mạ oai danh Mã Đầu?
Võ Minh Thần cười nhạt hất hàm:
– Ngươi không dám nhận chuyện ghê tởm. Hừ! Ta tới đây cũng vì chuyện
đó? Giờ hãy ngồi lên, ta hỏi? Còn người kia vô can, cứ nằm nguyên! Chớ quên
ta có thể xuống tay, nếu cưỡng động!
– A Lìn! Tiêm! Tao không quen nói chuyện với kẻ khiếm nhã!
Viên chủ núi Mã Đầu hất hà ra hiệu cho ả ngồi tiêm, ả này nhấc luôn cái
dọc lớn “múa đao liền”.
– Bỏ xuống! ta cần nói với chủ ả!
“Véo” từ lòng tay Võ vụt ra một luồng thép sáng chặt “chát” cái, đứt
phăng cây dọc, một khúc rụng xoảng xuống mâm đèn. Ả giật nảy mình, dáo
dác, chưa kịp ngoái lại đã bị một bàn tay vô hình túm lưng áo lôi phăng xuống
đẩy dụi góc buồng.
Cặp mắt hai tên khách thoáng long lên, tên gầy ốm đánh vụt tay ra lẹ như
chớp. Tưởng y đả kình, nhưng chẳng thấy gì cả, y đưa tay xuống gãi đùi. Nào
dè từ tay y đã phát ra một luồng độc khí mê hồn bay vút vào mặt Võ, mùi
thuốc phiện thơm lừng.
Chính đòn “Phù Dung Công” hấp luyện tới mức cao, kẻ khác ngất mê
luôn, nhưng Võ đã bế huyệt, vận công ngầm sẵn cứ đứng trơ trơ, tuy cũng hơi
choáng váng chút. Tên khách kêu “hầy” sửng sốt, Võ vừa toan xẹt tới, bỗng
nghe “sầm” cả xó buồng đen rầm lại, sập mâm đèn hai tên khách biến mất,
một tấm sắt dày đã ập xuống kín mít.
Nhanh đến nỗi Võ chỉ thấy trước mặt vụt tối thui không kịp trở tay, nhưng
chàng trai kịp phản ứng nhảy vọt lên kèo nhà sát vách, dòm xuống dưới ánh
trời chiều hắt soi mờ mờ, chỗ chàng đứng cũng tụt luôn sàn sâu thăm thẳm qua
cả nền nhà dưới, vút vút, năm sáu sợi dây xích từ mấy phía quất lia ra xiết
xoắn lấy chỗ đó vừa tầm người riết lại thành một nút bòng bong.
Lập tức có tiếng cười ngạo nghễ hắt ra:
– Chú mày giỏi! Còn đấy chứ? Hà hà! Thoát được Phù Dung Công cũng đã
tay điêu luyện đó! Ta còn ngờ nên mới bắt sống, nếu không chú mày nát thây
rồi!
Võ cứ đậu trên, không lên tiếng. Chợt lại nghe rõ tiếng lệnh vỡ, chắc tên
khách lớn chủ núi Đầu Ngựa:
– Chưa chắc đâu! Coi hắn lợi hại dữ à? Nhưng hắn sỉ nhục đại huynh moi
tim moi óc là thế nào? Hay có tên Mã Đầu nào làm bậy?
Nghe tiếng, Võ chợt thấy ngạc nhiên hết sức, xem bề ngoài bọn chúng có
vẻ thận trọng ung dung không quái đản như chàng tưởng, khi gặp tên phó
tướng quỷ mũi vẹt. Chàng trai nhíu mày, đảo mắt sực nghe tiếng vọng ra, lần
này dõng dạc và nghiêm:
– Chú áo chàm còn đấy chứ?
– Tất nhiên! Ta vượt biên thùy đi ngàn dặm tìm núi Đầu Ngựa, đâu lại vào
cạm bẫy dễ thế? Nếu cần ta có thể chém nát tấm thép chắn của ngươi! Lánh
mặt ư! Coi đây!
Lời dứt, tay chém xả liễu đao, “chát” tóe lửa. Tấm thép này dày tới nửa
đốt tay, liễu đao của Võ vốn loại cổ truyền không kém loại kiếm “Ngư Trường”
của Hạp Lư xưa, vừa chạm tấm thép, cả tấm rung chuyển ầm ầm, thủng luôn
một đường dài ngót gang tay, xuyên tận bên kia, phóng nhát thứ hai đã khoét
một lỗ hổng tam giác bằng bàn tay. Bỗng có tiếng hô giật:
– Khoan! Ta có nhiều nghi vấn! Đấu chiến sau cũng được! Ngươi là ai? Tới
Mã Đầu Sơn làm gì? Cho ta rõ vì lẽ gì?
Võ nghĩ thầm:
– Nói chuyện cho ra lẽ, rồi báo cừu sau cũng được! Ngoài cừu hận, ta còn
phải truy tìm thân thế nữa! Như lời chú Sềnh trối trăng Chúa Đầu Ngựa biết rõ!
Bèn nghiêm giọng nói lớn:
– Ta là giọt máu thừa mười bảy năm xưa đấy! Đứa bé bất hạnh, mẹ nó
chết thê thảm trên biên địa phân mao, chiều hôm đó. Ngươi là kẻ ta tìm khắp
thiên sơn, ngươi có mặt chiều đó, bàn tay ác độc thủ phạm… ngươi đã nhớ ra
chớ?
Bỗng nghe tiếng bật kêu sửng sốt:
– A… đứa bé, mười bảy năm trước, miền biên giới phải vùng có cỏ phân
mao thuộc đất Cao Bằng?
Nín thở, Võ đáp nhanh:
– Đúng! Chiều hôm đó. Một linh hồn đã phải lìa khỏi xác, vì sa tay quỷ sứ
biên thùy! Chúa núi Đầu Ngựa, con quỷ nanh ác biến người đàn bà đó thành
“cái túi da”… mẹ ta… trời ơi! mẹ ta chết thê thảm dưới nanh vuốt quỷ… Ngươi
nhớ chứ? Nhớ chú khách Tắc Sềnh, nhớ ông già họ Võ chứ?
Giọng chàng rung mãnh liệt, nghẹn nức, Võ cắn chặt răng, cảnh tượng
ghê gớm chờn vờn, bỗng nghe tiếng hai tên khách líu lo toàn tiếng lóng giang
hồ, rồi tiếng tên gầy ốm bật cao:
– Hầy! Ngộ nhớ rồi! Trời mười bảy năm… mười bảy năm… còn sống lần
về… Ngộ nhớ rồi… ngộ không phải Chúa Mã Đầu! Ai bảo nị tới đây?
Lạnh lùng Võ buông gọn:
– Tắc Sềnh và cha ta, hai người sống sót!
Vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng Quản Kình hú báo động, rồi có nhiều tiếng
quát tháo líu lô, súng lên đạn cành cạch, có tiếng quát như sấm:
– Tài Wang? Tài Wang? Có hai đứa lạ bắt mất Thiết Thủ phó tướng à! Nó
vừa lẻn lên đây! Nó kìa!
Đoàng đoàng! Súng nổ đì đẹt, tiếng Quản Kình hét:
– Đứng dưới! Thằng nào mò lên, tao nổ vỡ sọ?
– Trở ra! Xông lên! Nó không bắn kịp!
Võ Minh Thần giật mình, biết đã lộ. Chàng trai chưa kịp tính đối phó
cách nào bỗng giữa cảnh rầm rập náo loạn, có tiếng tên khách quát vọng ra:
– Ngừng bắn! Không được bắn càn! Khách Tài Wang Chúa soái à!
Lập tức súng im, tiếng kia lại hắt ra:
– Cứ đứng đó! Ngộ ra đây!
Tấm sắt từ từ chạy lên cao, mâm đèn, mọi thứ lại như cũ. Thì ra vách núi
có hang sập lọt vào tấm cửa sắt là đóng.
Hai tên khách ngồi sập, vẫy gọi Võ Minh Thần, đã sẵn chủ ý, Võ nhảy
xuống liền. Tên khách cười vuốt ria trỏ tên râu xồm:
– Bạn ngộ bên núi Ngưu Đầu, Thiết Mộc Đại Vương, còn ngộ Thần Pháo
Tài Wang, tụi nó quen gọi “sếnh sáng” à! Ngộ là chủ tướng núi Mã Đầu này,
còn chủ soái Đại Vương ngộ đi Vân Nam mấy năm chưa về, Chúa soái ngộ có
ba núi à!
Đoạn viên chủ tướng núi “Đầu Ngựa” mời chàng trai họ Võ ngồi tạm, y
bước ra ngoài thềm quát lớn:
– Hai sếnh sáng là khách quý của Tài Wang Chúa, anh em Mã Đầu đâu về
đó, không được kinh động nữa!
Võ Minh Thần theo ra, thấy quân tướng Đầu Ngựa lũ lượt xách súng, tản
đi hết, chàng bèn gọi Quản Kình hạ súng, cùng theo vào. Lại giải huyệt đạo
cho Thiết Thủ Đại Vương cùng mấy thủ hạ nam nữ của viên chủ tướng, nói lời
xin lỗi, đoạn bảo y:
– Mỗ tên Minh Thần, còn người này là quản gia thân thuộc! Bọn mỗ vì đau
thù bậc sinh thành, cam thất lễ, dám mong sếnh sáng bỏ qua và xin cho rõ
đầu đuôi, ơn rất trọng!
Thần Pháo Đại Vương cười bảo:
– Cũng may, ngộ ngờ ngay vì câu mắng nhiếc của công tử à! Từ mấy năm
nay, theo lệnh chủ soái, cả ba núi Mã Đầu, Ngưu Đầu, Kê Đầu đã bỏ cướp
khắp vùng biên địa, chỉ đánh thuê, buôn lậu, làm nghề bảo tiêu, lấy quân
lương sống. Mỗi năm lại xuất sơn, đi “đánh mướn” cho quân phiệt các nơi, một
hai chuyến cũng dư tiền sống, nên nghe công tử mắng, bọn ngộ sinh nghi à!
Xin cho ngộ rõ!
Thầy trò Võ nghe qua, nhìn nhau, cũng lấy làm lạ vì gặp bọn đại vương
thổ phỉ lại không làm nghề ăn cướp. Nhưng hai người tin ngay, vì đương thời
bên Tàu đất rộng người đông, giặc giã như ong, mấy nghề đó bọn “anh hùng
thảo dã” làm ăn rất phát đạt, và rất đắc dụng.
Thiên hạ đánh nhau loạn xa, nhất nghề buôn lậu, đánh giặc mướn, bảo
tiêu, càng vượng vì các ông tướng quân phiệt lớn nhỏ vẫn đánh lẫn nhau, ai
cũng cần tay súng giỏi, quan đi làm lạc thảo cũng lắm, lạc thảo ra mà quan
cũng nhiều.
Nhưng giữ nguyên “thế lạc thảo hùng cứ dải rừng xanh” để đánh thuê, thu
thuế, không đầu ai, chẳng phải tay nào cũng làm nổi! Nhớ đến tên phó soái
mũi vẹt, Võ ngó Thần Pháo, Thiết Mộc hỏi:
– Trên đường đi kiếm Mã Đầu sơn, mỗ có gặp chuyện lạ rất tàn khốc. Có
một quỷ nhân mũi vẹt một mắt phá phách khắp một dải biên thùy khu giáp
phủ Cao Bằng, nó bắt gái tơ hãm hiếp, luyện ma công, rồi cho quỷ đười ươi
móc tim, hút óc, coi rất ghê sợ. Hiện có nhiều bản Tàu mới bị tan hoang,
Tchang Xây đi thu thuế bị chặn đánh cũng vì thế. Mỗ tình cờ gặp chém hụt
nó, nó xưng là phó soái Mã Đầu Sơn thách mỗ tới. Mỗ tới, mới hỏi qua, quả có
chủ soái mũi vẹt, một mắt là thế nào?
Thần Pháo, Thiết Mộc cùng trợn mắt nói lớn:
– Hầy à! Con quỷ mạo danh! Mã Đầu có người mũi vẹt, chột mắt thường
gọi là Độc Nhãn Đại Vương, nó nóng như lửa, nhưng không làm chuyện ma
quái! Con quỷ kia có lẽ là Độc Nhãn Tinh rồi! Năm trước nó bị bọn ngộ đánh
suýt chết, nó thù đi luyện võ độc, mạo danh bôi xấu, tích oán cho thiên hạ thù
ghét đánh phá bọn ngộ đó!
Võ hỏi:
– Nghe nói y đi vắng chưa về.
– Vừa về đây! Thiết Thủ à! Bảo nó kiếm Độc Nhãn lên đây!
Thiết Thủ quay đi, chủ khách chưa uống xong tuần trà, đã thấy y dẫn lên
một tên khách hình dung cổ quái, da đỏ, mũi vẹt, chột mắt, bụng còn giắt một
lưỡi bán nguyệt có giây xích, coi giống con quỷ rừng hết sức.
Nhưng Võ nhìn kỹ, quả nhiên không phải! Viên này mập hơn chút, mũi
không quắp nhiều bằng, rõ nhất là chẳng có dấu chém mới nào. Võ nói luôn:
– À con quỷ kia đội lốt bôi xấu tiếng Mã Đầu! Mỗ cam thất lễ, xin sếnh
sáng cho biết chuyện năm xưa! Mỗ lòng như lửa đốt.
Thần Pháo nhắp trà, nhìn ra xa, vẻ mơ màng, trầm hẳn mặt:
– Rất tiếc ngộ không được biết đầu đuôi nguyên ủy! Vì Chúa soái không hề
cho biết kỹ, nhất là ngộ, mới về núi này được mấy năm. Nhưng trước kia vốn
là chỗ quen biết nhau và ngộ từng giúp chủ soái sang đánh thành Hà Giang
bên Nam. Mười bảy năm xưa, tình cờ ngộ tới núi này chơi vào dịp chủ soái
ngộ mới sang Nam về.
Người có vẻ buồn rầu, sai đóng một cỗ áo quan thật đẹp, đặt trước một
bàn thờ, ngày đêm đèn nhang khấn vái. Chẳng biết trong đựng gì, ngộ hỏi,
người không nói. Bữa kia, nhân lúc vắng, ngộ lẻn vào buồng, mở nắp ván coi,
thấy một cái xác người khô đét coi dễ sợ. Người vừa sịch vào, rầu rĩ bảo:
– Người đàn bà này là một bậc quốc sắc, mắt ta thấy, chỉ mấy phút sau,
thành cái túi da vì con quỷ bốn chân ngoài biên thùy. Ta cũng bị nó vồ, tha
khắp rừng, may thoát, vì người bôi đất, rắc thuốc độc. Ta chứng kiến nó ép
nàng làm vợ không được, nó biến thành nàng cái túi da, coi kinh khiếp cực kỳ.
Con quỷ bốn chân này oai lực gớm ghê, nó theo vồ bắt đứa con nít con nàng,
không gặp dị nhân cứu, chắc bị tay nó chết rồi. Ta ướp xác này, đợi đứa nhỏ
lớn lên gặp, ta sẽ cho xem cái di tích thảm thê này! Chú đừng hỏi nữa! Và hãy
quên đi! Nếu đến tai con quỷ, chắc không thoát được! Vỏn vẹn, mỗ chỉ biết
thế! À! người còn nói, đứa nhỏ vòng xanh!
Võ chìa tay đeo vòng hỏi:
– Giờ người hiện ở đâu? Và xin cho rõ tên người?
– Chủ soái ngộ tên Thoòng Mềnh, thiên hạ vẫn gọi là Pạc Hoọc Đại
Vương, vì bắn “Pạc Hoọc” hay nhất nước Tàu. Hiện người đi theo Chúa tướng
lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn!
Hơi ngạc nhiên, Võ Minh Thần từ tốn hỏi:
– Thoòng lão tiên sinh trong tay có quân gia đông mạnh, sao không ở nhà,
làm chúa tướng lại đến tận Vân Nam tôn phò người khác?
Thần Pháo, Thiết Mộc, Thiết Thủ, Độc Nhãn nhìn nhau cùng cười lớn,
chủ tướng núi Mã Đầu vuốt ria bảo:
– Công tử chưa biết rõ ẩn tình đó thôi! Chúa Thập Vạn Đại Sơn oai võ như
thần, thông suốt thập bát ban võ nghệ, nội ngoại thần công, nhâm cầm độn
toán kỳ môn dị pháp ngoại thuật thôi miên lục thao tam lược, bắn súng như
máy, vẩy tắt đom đóm ban đêm, bố trận bày binh, hành quân tác chiến, trên
nước, dưới bộ, không món nào không giỏi, thiên hạ đương thời liệt vào hàng
thượng thừa bá chủ. Tính lại quang minh chính đại, nghiêm như thần, đức
dung người như biển, quan chức mấy cõi Tây Tàu cũng phải trọng, huống chi
bọn ngộ? Được theo hầu là may à! Nguyên năm bảy năm trước, chủ soái bọn
ngộ mấy lần đối địch bị thua được người tha mạng sau lại giúp ngón võ nước
Nam bí truyền, khiến chủ soái ngộ báo được mối thù sát hại toàn gia, hạ được
hai anh em Kiệt, Trụ hết sức lợi hại à, mới thu gồm hai núi Ngưu, Kê Đầu vào
cùng Mã Đầu nên chủ soái bọn ngộ mới quyết xin theo hầu Chúa tướng Thập
Vạn Đại Sơn! Hiểu tử thương hiếu tử, nên chủ soái ngộ mới cố đem xác về Tàu,
cất giữ, cố đợi may ra gặp lại con nạn nhân chăng? Nay công tử đã trưởng
thành, chủ soái ngộ gặp chắc vui dữ à!
Võ Minh Thần nghe qua, lòng bồi hồi cảm động, khẽ thở dài, rung giọng:
– Chẳng hay sếnh sáng có rõ hiện di hài người mẹ oan thác của kẻ này
quản giữ tại đâu chăng?
Thần Pháo Đại Vương đáp:
– Hồi ngộ đến chơi, xác được để trong hốc tả ngọn núi, ngay sau căn nhà
này! Nay chẳng hiểu còn đấy không, vì từ đó, không ai được nhắc tới, sợ lậu
ra, thấu tai con quỷ dữ! Thử vào coi! A Lìn! Kiếm cây đuốc!
Cô gái hầu chặt ra đem vào. Bó đuốc thông cháy lép bép. Thần Pháo cùng
mấy viên khách lục lâm kia đưa thầy trò Võ vào trong, tít sau có một cái hang
ngách, cửa đóng im ỉm. Thần Pháo mở cửa đầy bụi, coi đuốc, đưa Võ vào lòng
hang, quả nhiên thấy có cái bàn độc đặt đó đóng lớp bụi đá dày, ngoài đồ thờ,
còn có một cái bài vị sơn son hệt lối bài vị bên Nam.
Không khí âm u lạ, nhưng tìm quanh chẳng thấy quan tài xác đâu. Thất
vọng, Võ cùng bọn Đại Vương Mã Đầu soi đuốc, thấy trên bài vị có đề mấy
hàng chữ:
“Vô danh nữ
Mệnh phụ quốc sắc
Vị tiết vong thân đại thảm khốc cận giới tuyến phân mao thảo Nam bang
chi địa đích do quỷ chúa sài lang tứ túc Hồng Cẩu Quẩy bạo hành hiếp sát,
Thoòng Mềnh lạc thảo Mã Đầu sơn đồng lâm nạn thị kiến nhãn tiền. Khắc
đỏ hoàng hôn hạ tuần bát nguyệt đệ… niên”
Vừa đọc xong mấy hàng chữ trên mặt bài vị tự nhiên nước mắt chàng tuổi
trẻ mồ côi chí hiếu chảy ròng ròng, lòng đau như cắt, rung động kêu lên thống
thiết:
– Mẹ, mẹ! Giọt máu thừa của mẹ mười bảy năm xưa đã về đây! Con mẹ
lạc loài sống sót về đây… mà xác mẹ, hồn mẹ đâu rồi! Con đây! Đứa bé mồ
côi không biết cha, biết mẹ, không biết cội nguồn gốc rễ, nhờ ân tôn sư dưỡng
phụ nó đã sống tìm về cố quốc, quyết tìm thù báo oán, mà chẳng rõ nguồn
cơn, gốc rễ! Thiên địa mịt mù oan thù mờ mịt, thân thế mơ hồ, cha con là ai?
Còn sống hay chết? Con quỷ Hồng Cầu Quẩy là gì? Ở đâu? Hồn mẹ khôn
thiêng hãy phù hộ cho con tìm được cội nguồn, kẻ đại thù hiếp sát! Một giọt
máu thừa này, con xin dâng cho thù hận, giọt máu mẹ đẻ ra đây sẽ rửa sạch
nhục thù cho mẹ được nằm yên trong cõi u minh!
Than xong, lại thắp hương, phục xuống trước bàn thờ, khấn vái, khóc rất
thảm thiết. Quản Kình cũng phục sau, lễ bái, cầu vọng oan hồn người đàn bà
chết thảm về phù hộ cho hiếu tử phục thù. Mãi lúc đó, Quản Kình mới hay Võ
Minh Thần là dưỡng tử của ông già chủ y nhưng lòng không thay đổi vì cảm
nghĩa họ Võ.
Thấy hai người khách Nam than khóc, đám đại vương lạc thảo hết sức
ngậm ngùi, đứng im lặng, tỏ dấu kính trọng chàng hiểu tử và nghĩa bộc. Mươi
phút sau, thầy trò Võ theo bọn Thần Pháo ra ngoài. Chàng trai hỏi thăm đường
tới Thập Vạn Đại sơn, Thần Pháo lấy trong tủ ra một tấm bản đồ có vẽ đường
vào miền Mười Vạn Núi, trỏ dặn kỹ, đoạn bảo:
– Miền Đại Sơn, núi non trùng điệp cực kỳ thiên hiểm, kiếm được bản
doanh chúa tướng Thần xạ không phải dễ, xưa nay chưa có kẻ nào vào tới nếu
không có phép “người”… Dùng võ thuật lẩn vào rất nguy. Nhưng công tử
không ngại, chủ soái ngộ có để lại một cây lệnh tiễn, tới ngoại vi căn cứ bắn
sẽ có người đưa vào.
Dứt lời, với ống bương bên vách, rút ra một cây tên tặng Võ. Võ đỡ coi,
thấy dài hơn ba gang, nơi cánh tên có ghép mấy ống trúc tựa sáo diều, chế tạo
rất khéo, thân tên có khắc mấy chữ Hán: “Thập Vạn Đại Sơn”, Võ Minh Thần
nhận lấy, cảm tạ, xin từ giã. Viên chủ tướng Mã Đầu lưu lại khuyên:
– Thù như lửa đốt, nhưng chưa phải quá gấp! Đường Vân Nam còn dài,
công tử nên nán lại, mai đi là hơn! Xin hãy bình tâm, chớ nóng quá, dễ sinh
ám trí à!
Võ đành nghe theo. Đêm đó, hai thầy trò Võ ăn uống xong, lưu lại ngủ
trên ngọn Mã Đầu sơn ngay tại tư dinh Thần Pháo Đại Vương. Sớm mai, đám
tướng lạc thảo đặt tiệc tiễn hành rất trọng thể.
Thần Pháo lại sai thủ hạ lo sẵn lương khô, vật dụng, chọn hai con ngựa rất
khỏe tặng hai người, thay ngựa cũ.
Bọn Thần Pháo tiễn ra tận trại ngoài mới trở về, không quên biếu hai cây
súng trường, hai cây cung phòng dụng tới. Lòng phơi phới, hai thầy trò cứ theo
lộ trình dặn sẵn lóc cóc xuyên Quảng Tây, nhằm lãnh địa Vân Nam đi miết,
vừa đi vừa hỏi thăm thổ dân, đêm nghỉ ngày đi, đường xuyên sơn quanh co bất
trắc, phải đánh nhau với thổ phỉ hai, ba trận, qua không biết bao nhiêu dải núi
cao rừng rậm, mặt thư sinh đầy bụi viễn hành.
Rồi một bữa kia, hai người đã đến vùng hùng cứ của Chúa tướng Thần Xạ.
Tính sơ lại, đã bỏ lại sau lưng ngựa không biết mấy vạn ngọn núi lớn nhỏ,
đứng trên đèo cao nhìn về mạn Bắc, chỉ thấy vực thẳm, rừng sâu, núi ngửa
trời, chẳng biết bao nhiêu đợt nữa. Quả là một miền địa hình địa vật trời dành
sẵn cho các tay anh hùng thảo dã có chí dọc ngang ngoài vòng pháp luật.