Lỗ Nhất Khí im lặng lắng nghe lời lão Xoa, sau đó quan sát tỉ mỉ những tảng đá ngầm, xem chúng có biến hoá gì hay không.
Quả nhiên, trong đám đá quỷ, có một tảng đá thoạt tiên trông giống như một cây nấm lùn mập mạp, sau khi con thuyền đi thêm một đoạn, liền biến thành chiếc búa cán ngắn, một lát sau lại biến thành chiếc mũ.
Bên cạnh “cây nấm” có một tảng đá hệt như hình ông lão ngồi xổm, một lát sau đã biến thành hình hài một người đàn bà, tiếp đến lại biến thành một bộ mặt quái dị với cái miệng há hoác.
Lỗ Nhất Khí vừa di chuyển ánh mắt khỏi bộ mặt quái dị kia, đã vội vã giật ngay ánh nhìn trở lại. Bởi vì chính trong lúc đó, cảm giác đã mách bảo cậu rằng, bộ mặt quái dị kia có điều gì đó rất bất thường.
o O o
Ở vùng Đông Bắc, hiện tượng băng vỡ sông chảy luôn tuân theo quy luật của thời tiết. Nếu như băng vỡ quá sớm, thời tiết lạnh lẽo trở lại, sẽ khiến mặt băng nơi hạ lưu tiếp tục đông cứng. Và như vậy, băng trôi ở thượng lưu sẽ xô dồn lại chồng chất lên mặt băng ở hạ lưu, gây cản trở đường sông, tạo nên cảnh tượng sông dâng nước lụt. Lúc này mới qua tiết Lập đông chưa lâu, mà băng đã nổi kín mặt sông, lúp xúp như vảy cá, mai rùa, song nước vẫn chảy băng băng, một dòng thông suốt. Không hiểu là do đã có Thiên bảo trấn áp hung huyệt, hay vì núi lửa sụt lún đã khiến nhiệt độ mặt đất tăng lên.
Đứng trên tảng băng trôi, đột nhiên Lỗ Nhất Khí cảm thấy dưới chân chòng chành chao đảo, cơ thể bất giác loạng choạng đổ nhào về phía trước, sém chút đã rơi tõm xuống lòng sông.
Bò rạp trên mép băng, cậu nhìn thấy một khuôn mặt đang từ từ nổi lên trong làn nước đen đặc giữa những tảng băng trôi. Tiếp đó, một cánh tay trắng bệch chằng chịt những vết thương sâu hoắm thò lên khỏi mặt nước, sau vài cú chụp hụt mới bám được vào mép băng, chật vật kéo nửa thân người lên trên.
Lỗ Nhất Khí vội đưa tay ra, định lôi người đó lên, bởi lẽ ông ta chính là Lạp thần Lang Thiên Thanh.
Nhưng Lạp thần lắc đầu mà nói:
-Việc của tôi đã xong rồi, tôi phải đi thôi. Lời hứa năm xưa với lão Nhậm giờ coi như đã trả xong. Bầy sói và chó của tôi đều đã chết hết, cánh tay lại bị thương nặng, không thể giúp thêm gì cho cậu nữa!
Lỗ Nhất Khí không đứng lên, mà nghiêng người ngồi dậy trước mặt Lạp thần, cánh tay vẫn vươn về phía ông ta.
-Ông cứ lên đây đã, đợi đến nơi thích hợp hãy ra đi, không nên ngâm mình dưới nước lạnh mãi như vậy!
-Cậu chớ bận tâm, hãy yên lặng nghe tôi nói vài câu đã! Đây đều là những lời lão Nhậm dặn dò lại. Vợ hắn qua đời từ rất sớm, chỉ để lại một mụn con trai. Nhưng thằng bé này tính tình ngỗ ngược, nghịch ngợm vũ khí sắc nhọn của cha mà ngộ sát người tốt. Hắn cảm thấy hổ thẹn trong lòng, nên mới trốn ra Quan Ngoại, cũng mượn lý do này để dốc toàn tâm toàn lực giúp đỡ Lỗ gia hoàn thành đại sự, gửi gắm con trai cho sư phụ mình quản giáo. Lần này cậu xong việc trở về Quan Nội, nếu có cơ duyên, nhất định phải dẫn theo con trai hắn cùng tham gia việc lớn, để cậu ta có cơ hội thành người.
-Vậy phải tìm cậu ta ở đâu?
-Cậu không cần phải tìm! Lão Nhậm đã gửi thư tín giang hồ cho sư phụ từ trước, họ sẽ tự tới tìm cậu. Biển người mênh mông, gặp được là duyên, không gặp được là số. Chỉ cần nhớ rằng, sư phụ của hắn có ba tay! – Lạp thần khẽ cựa quậy bàn tay đang bám chặt lấy mép băng rồi nói tiếp – Ngoài ra, giang hồ có đồn rằng, các ngả đường tới phía nam đều có cao thủ đón đường muốn bắt cậu, nên giờ đây, tốt nhất cậu cứ xuôi theo dòng nước xuống hạ lưu, tới cảng Nha Đầu. Lão Nhậm có dặn rằng, sau khi tới đó, hãy tìm gặp một tay chủ thuyền tên là Bộ Bán Thốn, hắn từng chịu ơn Lỗ gia, sẽ đưa các cậu xuống phía nam theo đường biển. Còn nữa, bên cạnh cậu có người không đáng tin cậy, song không phải do bản tính bất lương, mà là bị kiểm soát bởi nút lẫy côn trùng ký sinh quái dị. Song nút lẫy côn trùng ăn vào thịt đã quá lâu, muốn giải thực không phải dễ!
-Tôi biết rồi! – Trong lòng Lỗ Nhất Khí bỗng trào lên một niềm chua xót. Lời có nói ra cũng đã muộn rồi, Quỷ Nhãn Tam trúng nút lẫy côn trùng, giờ đã vùi thây trong lòng núi lửa.
-Biết rồi thì tốt! Tôi cũng cảm thấy dựa vào bản lĩnh của cậu, nói ra những điều này chỉ là dư thừa. Đã không còn chuyện gì nữa, tôi đi đây!
Lạp thần nói đi là đi, không chút đắn đo do dự, lập tức thả tay lao người xuống nước, tay khua chân đạp bơi đi, để lại trên mặt nước đen ngòm một đường máu đỏ lờ nhờ. Sau khi lách qua mấy tảng băng trôi, ông ta đã gần như kiệt sức, bèn khó nhọc leo lên một tảng băng nhỏ khác, rồi nằm vật ra bất động, không biết còn sống hay đã chết. Tảng băng nhỏ trôi rất nhanh, mỗi lúc một xa dần, cuối cùng không còn thấy tăm hơi đâu nữa. Lỗ Nhất Khí nhìn theo, một mối đau xót buồn thương bỗng chốc dấy lên trong tâm khảm. Bất giác, một giọt ấm nóng ứa ra bên khoé mắt, rồi đông cứng lại như giọt nhũ băng lấp lánh trên khuôn mặt lạnh băng.
Giọt nước mắt đông cứng trên khuôn mặt, nhưng tảng băng trôi dưới chân cậu lại đang mau chóng tan ra, nguyên do là vì nhiệt độ và tốc độ chảy của nước sông. Nếu cứ theo tốc độ này, chẳng bao lâu nữa ba người Lỗ Nhất Khí sẽ mất đi vật nâng đỡ duy nhất trên mặt sông chảy xiết…
Trên mặt biển sóng gợn lăn tăn, phản chiếu ánh mặt trời lấp loáng như một tấm lưới vàng kim rực rỡ. Trên tấm lưới vàng dập dềnh trải rộng, một chiếc ngư thuyền mũi sắt đuôi én hai cột buồm làm bằng gỗ ngô đồng đang băng băng lướt sóng. Con thuyền này khác hẳn với thuyền đánh cá thông thường, với đầu nhọn đuôi rộng, lòng thuyền hẹp sâu uốn thành hình cánh cung nhọn hoắt. Lối thiết kế này giúp cho con thuyền rẽ sóng tựa cày băng dao cắt, giảm đáng kể lực cản của nước, chuyển hướng cũng hết sức linh hoạt. Hai mép khung ở phía đuôi thuyền chẽ ra tạo thành hai chạc như đuôi én, phía dưới là đuôi trượt với hình dáng thuôn dài. Kiểu thiết kế này vừa có thể đảm bảo giữ thăng bằng cho thuyền khi ngoặt gấp, vừa có thể mở rộng không gian chứa đựng của khoang sau. Mũi thuyền được đúc bằng sắt, nhằm gia tăng độ kiên cố của thân thuyền, có khả năng bảo vệ rất tốt khi con thuyền va phải đá ngầm hoặc đụng vào thuyền khác, mặt khác, còn có tác dụng tăng thêm trọng lượng của đầu thuyền, đảm bảo cho đầu thuyền nhỏ hẹp được cân bằng với đuôi thuyền nở rộng. Toàn bộ thân thuyền không lớn, song lại dùng tới hai cột buồm, nhằm đảm bảo được tốc độ cần thiết.
Nhìn vào mực nước bên mạn, có thể biết được rằng con thuyền không chở bao nhiêu vật nặng, nên lướt đi có phần chao đảo. Mặt biển chỉ gợn sóng lăn tăn. Với người quen nghề đi biển, điều này chẳng hề hấn gì, nhưng với người chưa hề biết biển là gì, lại càng chưa từng một lần ngồi thuyền vượt biển, chắc hẳn khó tránh ruột gan phèo phổi lộn nhào, nôn thốc nôn tháo.
Lỗ Nhất Khí còn chưa bao giờ nhìn thấy biển, chứ chưa nói đến chuyện ngồi thuyền vượt sóng. Lão mù và Thuỷ Băng Hoa cũng vậy, song phản ứng của ba người họ lại hoàn toàn khác nhau. Lỗ Nhất Khí hệt như một cây cọc ràng chão cắm trên thuyền, không cần bám víu vào thứ gì vẫn có thể đứng thẳng mà không hề chao đảo, đi lại trên thuyền thoải mái như dạo bộ vườn nhà. Thuỷ Băng Hoa thì nôn ra cả mật xanh mật vàng, chẳng mấy chốc đã lịm đi trên khoang thuyền. Lão mù tuy có bản lĩnh khinh công bất phàm, cũng không tránh khỏi hoa mắt chóng mặt, suốt mấy ngày trời ăn không ngon, ngủ không yên.
Song kỳ thực, người có khả năng giữ thăng bằng tốt như Lỗ Nhất Khí không nhiều. Dù là thuỷ thủ cả đời lăn lộn trên biển cả cũng khó tránh chuyện thường xuyên té ngã, vẫn cần phải có thứ bấu víu. Thăng bằng là một khả năng thiên phú, dù rằng việc thường xuyên rèn luyện có thể nâng cao được khả năng này, song cũng không thể đạt đến mức độ hoàn mỹ như Lỗ Nhất Khí. Bởi vì khả năng thiên phú này được bắt nguồn từ cảm giác của cậu. Cảm giác siêu phàm đã mách bảo cho cậu biết trước sức mạnh, góc độ và phương hướng của cú nghiêng lắc tiếp theo, đồng thời cũng mách bảo cậu nên phản ứng thế nào để thuận ứng theo sự chuyển động của con thuyền, theo thế mà thuận thế, nương lực mà nhờ lực, khiến tâm linh và cơ thể luôn ở trong trạng thái tự nhiên, hài hoà làm một với mọi thứ xung quanh.
Lúc này, Lỗ Nhất Khí đang đứng vững chãi nơi mũi thuyền, phóng mắt nhìn ra mặt biển mênh mông bất tận. Còn phía đuôi thuyền, đứng bên cạnh bánh lái là một hán tử trung niên đen đúa gầy sắt, đang đưa cặp mắt sắc nhọn tựa hải âu nhìn Lỗ Nhất Khí với vẻ hiếu kỳ rất mực.
Người này chính là tay chủ thuyền mà Lỗ Nhất Khí đã tìm thấy ở cảng Nha Đầu – Bộ Bán Thốn.
Tảng băng chở ba người Lỗ Nhất Khí cứ thế trôi xuôi theo dòng sông Tát Cáp Liên, đến khi nó đã bị bào mỏng ra đến mức sắp sửa không chở nổi ba người nữa, con sông bỗng xuất hiện một khúc ngoặt gấp. Dòng nước xiết đã cuốn tảng băng văng vào khúc ngoặt.
Ba người lập tức leo lên bờ. Họ không trở xuống lòng sông đầy băng trôi nữa, mà thuê xe tiếp tục đi dọc theo bờ sông. Trên đường đi, họ đã phải đổi sạch sành sanh những thứ đáng tiền trên người để chi trả các khoản ăn ở, xe cộ. Hơn hai mươi ngày sau, cuối cùng họ cũng tới được cảng Nha Đầu.
Tháng chạp giá buốt căm căm, lại không phải phiên chợ hàng biển, đột nhiên xuất hiện ba người lạ mặt tại khu cảng hiu quạnh, chưa tới một canh giờ sau tất cả dân cư đều đã hay tin. Bởi vậy, ngay khi họ vừa đặt chân tới đây, Bộ Bán Thốn đã chủ động tìm tới họ, và dễ dàng nhận ra ngọc phù Lộng phủ lấp ló nơi cổ áo Lỗ Nhất Khí.
Vùng biển rộng ba trăm dặm vuông quanh cảng Nha Đầu là một ngư trường tuyệt hảo, với một trữ lượng phong phú các loài cá đù vàng lớn, nhỏ, cá chim phương bắc, cá thu ngừ, hải sâm và tôm. Chính ngư trường giàu có này đã đem lại cho gia tộc cư trú nơi cảng biển một cuộc sống giàu có, sung túc.
Đời cha chú của Bộ Bán Thốn vốn là dân du cư từ nơi khác đến mưu sinh, cả nhà già trẻ lớn bé đã may mắn được gia tộc ngư dân nơi đây cưu mang, mới thoát khỏi cuộc sống lang thang đói rét. Bởi vậy, khi xuất hiện một đám thuyền nhân từ phương Nam đến định chiếm đoạt ngư trường ngoài cảng, gia tộc họ Bộ đã khảng khái gánh lấy trọng trách “thi đấu” với đám người kia để giữa lấy ngư trường.
Nội dung thi đấu rất đơn giản, chính là vào cuối tháng đó, khi triều rút chưa lên, thả mười con cá heo trắng vây lam vốn được mệnh danh là “cáo biển Bắc” vào trong ngư trường, hai bên mỗi bên lái một con thuyền ra khơi, bên nào bắt được nhiều hơn và nhanh hơn sẽ chiến thắng.
Triều rút chưa lên, tức là lúc dòng hải lưu chuyển hướng. Khi đó, dưới lòng biển có hai dòng chảy ngầm giao nhau, luồng nước biến hoá đa đoan, dễ sinh sóng lạ nước xoáy. Trong tình huống này, nếu muốn chiến thắng, nhất định phải cần đến một con thuyền đặc biệt.
Cha của Bộ Bán Thốn đã đi suốt đêm ròng vượt vài trăm dặm đường đến vùng Quan Ngoại tìm gặp thiết thủ kỳ công Nhậm Hoả Cuồng, Nhậm Hoả Cuồng lại nhờ giang hồ truyền tin nhắn mời anh em Lỗ gia lúc này đều đang ở Bắc Bình tới giúp, cùng vượt đường đến cảng Nha Đầu, cấp tốc chế tạo ra con thuyền mũi sắt đuôi én hai cột buồm bằng gỗ ngô đồng chỉ trong ba ngày hai đêm, cuối cùng đã giúp nhà họ Bộ chiến thắng trong cuộc thi, giữ được ngư trường.
Để đền đáp công ơn của Lỗ gia, Bộ gia hứa sẽ cử người trợ giúp Lỗ gia hoàn thành đại sự, đồng thời nhận lấy bản chép tay một kỹ pháp của Lỗ gia. Người được Bộ gia giao phó cho nhiệm vụ này chính là Bộ Bán Thốn.
Bộ Bán Thốn không phải là tên thật của hắn, mà vì hắn có khả năng giữ vững bánh lái thuyền ngay cả trong gió dữ, bàn chân không bao giờ xê dịch quá nửa thốn[1], nên mọi người mới đặt cho hắn biệt danh là Bộ Bán Thốn.
Khác với Lỗ Nhất Khí, Bộ Bán Thốn kiểm soát bản thân dựa vào định lực của hạ bàn, tức là sức bám của lòng bàn chân. Sau nhiều năm rèn luyện, đôi bàn chân của hắn giờ hệt như hai bàn hút, đừng nói là để chân trần, ngay cả khi cách một lớp giày mỏng cũng có thể bám chặt lấy sàn thuyền trơn bóng. Nhưng gặp những lúc sóng to gió lớn, Bộ Bán Thốn cần phải vận lực suốt từ lòng bàn chân lên chân, đùi, eo, tới lưng, vai, cổ mới có thể trụ vững thân hình. Cũng vì đã bao nhiêu năm nay hắn đã quen với việc này nên vận dụng nhẹ nhàng như không, nếu không, chắc hẳn là vô cùng tốn sức. Còn cách của Lỗ Nhất Khí là hoàn toàn thuận theo tự nhiên, theo lực mà nương lực, nên chẳng mấy mệt nhọc, đứng ngồi đi lại trên sàn thuyền ung dung tựa như trên đất bằng, thử hỏi sao không khiến Bộ Bán Thốn hiếu kỳ cho được.
Bộ Bán Thốn là kẻ kiệm lời, mà Lỗ Nhất Khí vốn cũng không thích hỏi han, bởi vậy từ sau khi lên thuyền, bọn họ qua lại chưa nổi vài câu, song Bộ Bán Thốn vẫn rất có ý thức về trách nhiệm của mình. Năm xưa khi xảy ra cuộc thi đấu tranh giành ngư trường giữa Bộ gia và đám thuyền nhân phương Nam, hắn mới chỉ là một đứa trẻ nít. Còn giờ đây, hắn đã thành bậc cha anh, song lời hứa của mấy chục năm trước vẫn luôn khắc sâu trong tâm khảm. Lỗ gia đã ra tay nghĩa hiệp trợ giúp cả ngư thôn giành lại sinh kế ấm no cho bao thế hệ, ân huệ này cần phải dốc cả tính mạng để báo đáp, nếu không, thực hổ thẹn với hai chữ tín nghĩa trong tâm.
Trong sáu công phu của nhà họ Lỗ, Bộ Bán Thốn được trao cho công phu Lập trụ (dựng cột), công phu này đã trợ giúp hắn rất nhiều trong việc lái thuyền. Về lý mà nói, những người có sức mạnh xuất chúng như Quan Ngũ Lang luyện công phu Lập trụ sẽ có hiệu quả chóng vánh hơn gấp bội, giảm bớt được rất nhiều kỹ xảo và công đoạn. Thế nhưng kỹ nghệ của Lỗ gia vốn dĩ là để cho người bình thường rèn luyện, nên “lấy khéo bù lực” mới là tông chỉ. Bởi vậy, những kỹ pháp “dùng khéo tạo lực” trong công phu này đã giúp Bộ Bán Thốn thu được ích lợi to lớn. Ví như khi dựng cột buồm, thông thường phải cần tới ba, bốn thuỷ thủ mới có thể dựng nổi, vậy mà hắn chỉ cần dùng sợi dây chão tam giác nối vòng liên hoàn một chùng hai rút, một mình đã có thể dựng xong, lại chắc chắn vô cùng, không bao giờ nghiêng đổ. Hay như những việc cuốn chão, thả neo, thường phải cần đến nhiều nhân lực, song hắn chỉ cần dùng tới một vài dụng cụ cũng có thể một mình hoàn thành.
Trên thuyền ngoài Bộ Bán Thốn, Lỗ Nhất Khí, lão mù và Thuỷ Băng Hoa, còn có thêm ba người nữa.
Người thứ nhất là một gã trẻ trai hoạt bát lanh lẹ, tên là Âu Tử, gã đang đứng trên tầng gác, dõi mắt xa xăm. Nghe nói gã có thể nhận biết được vị trí, chủng loại và số lượng của đàn cá qua hình dạng sóng nước và ánh lân quang trên mặt biển từ khoảng cách rất xa.
Người thứ hai là một lão già với vết sẹo dài ngoằng trên mặt, mọi người đều gọi lão là lão Xoa, là một cao thủ bắt cá lớn cừ khôi. Vì lão có khả năng phóng phi xoa[2] nối thừng thiện nghệ, nên những con cá lớn ở trong phạm vi bốn thân thuyền[3], dù có bơi nhanh tới đâu cũng không thể thoát khỏi ngọn phi xoa của lão.
Người thứ ba là một gã trung niên tráng kiện, cơ bắp nổi cuộn từng múi trên cơ thể, tựa như một toà tháp sắt, hình dáng hung dữ đáng sợ, song lúc nào cũng thấy cười toe toét, đúng là bộ mặt Di Lặc trời sinh, tên là Sa Khẩu[4], theo thuyền với nhiệm vụ mổ cá phơi khô, kiêm việc bếp núc cho cả thuyền.
Con thuyền luôn đi men theo bờ biển. Đi như vậy nếu chẳng may gặp phải điều gì bất lợi, chỉ cần xoay thuyền trở lái, chẳng mấy chốc đã táp vào vùng nước cạn gần bờ, mau chóng rời thuyền lên bộ.
Có điều đường đi như vậy đôi khi cũng khá rắc rối. Ví dụ như lúc này đây, họ đang đi vào vùng biển gần bờ với núi chờm ra sát biển, đá ngầm nhấp nhô.
-Tới bờ biển Đoạn Đầu Nhai rồi! Chú ý đá quỷ Bách Biến! – Âu Tử đứng trên gác thuyền lớn giọng nhắc nhở.
Bộ Bán Thốn khẽ chau mày, rồi chậm rãi gật đầu một cái.
Lỗ Nhất Khí không mấy chú ý tới bộ dạng của Bộ Bán Thốn, song tiếng hô của Âu Tử lại khiến cậu thấy hơi ngạc nhiên. Họ đã đi qua rất nhiều đá ngầm, đảo nhỏ, song không hề thấy Âu Tử thông báo gì, tại sao vừa tới nơi này, gã đã vội hô rõ địa danh, hơn nữa cái tên này vừa xướng lên, nghe đã có phần đáng sợ.
Lão Xoa vốn phụ trách bảo vệ các loại ngư cụ, lúc này đang đứng bên cạnh Lỗ Nhất Khí, sửa sang chuỗi móc câu hoa hình tràng pháo[5]. Nghe thấy tiếng hô của Âu Tử, thì cũng lên tiếng, giọng nói rất khẽ, không rõ là đang giải thích cho Lỗ Nhất Khí hay là tự nhủ với chính mình:
-Nhìn từ các góc độ khác nhau, hình dạng cũng sẽ khác nhau. Trời mưa, ngày nắng sẽ khác nhau, ban ngày, ban đêm cũng khác nhau. Đây là con đường Lục Lâm trên biển, là nơi mai phục lý tưởng của hải tặc!
Lỗ Nhất Khí im lặng lắng nghe lời lão Xoa, sau đó quan sát tỉ mỉ những tảng đá ngầm, xem chúng có biến hoá gì hay không.
Quả nhiên, trong đám đá quỷ, có một tảng đá thoạt tiên trông giống như một cây nấm lùn mập mạp, sau khi con thuyền đi thêm một đoạn, liền biến thành chiếc búa cán ngắn, một lát sau lại biến thành chiếc mũ.
Bên cạnh “cây nấm” có một tảng đá hệt như hình ông lão ngồi xổm, một lát sau đã biến thành hình hài một người đàn bà, tiếp đến lại biến thành một bộ mặt quái dị với cái miệng há hoác.
Lỗ Nhất Khí vừa di chuyển ánh mắt khỏi bộ mặt quái dị kia, đã vội vã giật ngay ánh nhìn trở lại. Bởi vì chính trong lúc đó, cảm giác đã mách bảo cậu rằng, bộ mặt quái dị kia có điều gì đó rất bất thường.
Bộ Bán Thốn dường như cũng đã phát hiện ra, lập tức giẫm một chân lên dây chão buộc cánh buồm bên mạn thuyền trái, dựa người vào sợi dây chão cố định bánh lái. Đúng vậy, lái thuyền trên mặt biển mênh mông tĩnh lặng, chỉ cần cố định bánh lái, đến khi nào xảy ra sự cố bất thường mới cần tới người điều khiển. Cánh buồn chốc lát đã đưa nghiêng đón gió, bánh lái cũng hơi xoay sang một bên, mũi thuyền hơi chếch sang bên trái, lao về phía biển sâu cách xa bãi đá ngầm.
Bộ Bán Thốn vừa điều chỉnh phương hướng, Lỗ Nhất Khí lập tức nhìn thấy, bộ mặt quái dị kia chợt nhả ra một con thuyền lớn mũi cong đuôi cụt với ba cột buồm lừng lững. Lầu thuyền ba tầng, phần mũi cong có hình tam giác ngược, phần đuôi cụt có hình vuông đáy tròn. Trên thuyền có lỗ mái chèo, trên sàn có bệ pháo, là một cỗ chiến thuyền kiểu đời Minh điển hình.
Khi “bộ mặt” quái dị vừa nhả ra con thuyền chiến, thì từ sau mông của “con vịt” ngay bên cạnh lại chui ra một con thuyền nữa. Tốc độ của hai con thuyền rất nhanh, chúng hợp thành hình “dây mây quấn đôi”[6] lao đến vây bọc lấy con thuyền mũi sắt.
Con thuyền mũi sắt của đám Lỗ Nhất Khí tuy chỉ có hai cánh buồm, song trọng lượng thân thuyền nhẹ, thể tích nhỏ, có đáy cong rẽ nước, đuôi trượt đạo lưu, đều được đặc chế theo công pháp tinh mắt của Lỗ gia, bởi vậy tốc độ nhanh hơn hẳn hai con thuyền chiến.
Vốn dĩ hai cỗ chiến thuyền đã dàn xếp sẵn một phạm vi ngăn chặn có hình chiếc túi, nếu như con thuyền của đám Lỗ Nhất Khí lọt vào trong túi, dù có kịp quay đầu trở ra lập tức, cũng không thể thoát khỏi bán kính bủa vây của chúng. Song Bộ Bán Thốn đã lựa cơ quyết đoán chuyển hướng tức thì, như vậy không phải mất thời gian quay đầu, ngược lại còn khiến đối phương buộc phải điều chỉnh góc độ theo họ.
Như vậy, trước tiên đã giảm bớt đáng kể ưu thế về phương hướng và cự ly của đối thủ, tiếp đến sẽ đoạt lấy thế chủ động sau khi đổi hướng. Bộ Bán Thốn đang hành động đúng như vậy. Hắn hơi xoay lái, khiến con thuyền khẽ chếch sang một bên, đây là thao tác đổi hướng liên tục, khiến con thuyền chạy theo môt đường vòng cung rất gấp. Độ linh hoạt khi chuyển hướng của chiến thuyền hiển nhiên thua xa thuyền mũi sắt, bởi vậy chỉ có thể giương mắt đứng nhìn con thuyền mũi sắt đâm thủng “túi”, lao vọt ra ngoài từ chỗ giao nhau của “dây mây quấn đôi”, bỏ chạy mỗi lúc một xa.
Khuôn mặt sạm đen của Bộ Bán Thốn lộ ra một nét cười đắc ý. Từ khi hắn bắt đầu biết tự lái thuyền tới nay, chưa một ai có thể bắt được hắn khi ở trên mặt biển.
-Nguy rồi, chúng đang tăng tốc! – Nụ cười đắc ý còn chưa kịp nở hết trên môi, đã bị dập tắt bởi tiếng la lối của Âu Tử từ trên lầu thuyền vọng xuống.
Quả nhiên, hai cỗ chiến thuyền đã thình lình tăng tốc, khoảng cách vừa được kéo giãn đã thu hẹp lại nhanh chóng.
-Chúng đang dùng nhân lực chèo thuyền, sức chèo cực khoẻ, số tay chèo không hề ít, không thấy đuối sức, rất có thể có vài đội luân phiên nhau một mái chèo.
Thị lực của Âu Tử tuyệt đối chính xác, song phân tích lại rất thiếu kín kẽ. Mái chèo của thuyền đi biển thường dài rộng hơn hẳn, cần đến vài người hợp sức mới có thể chèo nổi một mái. Nếu nói như Âu Tử, vài đội người luân phiên chèo một mái chèo, một con thuyền có tới hai ba chục mái chèo lớn, như vậy chỉ riêng nhân lực chèo thuyền đã cần đến bốn năm trăm người. Đấy là chưa kể đến bọn căng buồn bẻ lái, cộng thêm lương thực, nước ngọt, thiết bị chở theo, tải trọng hẳn là rất lớn. Song nhìn vào mực nước trên mạn thuyền, lại thấy tải trọng khá nhẹ, không thể chở nhiều người như vậy. Chẳng nhẽ những mái chèo to lớn kia đang được điều khiển bởi những lực sĩ ba đầu sáu tay?
-Mái chèo không phải do sức người chèo! – Lỗ Nhất Khí nói rất khẽ, câu nói này chỉ có cậu và lão Xoa đứng kế bên nghe được.
-Vậy là thứ gì? – Lão Xoa không những thích chỉ dạy người khác, mà còn rất ham học hỏi. Song do lão đang kính cẩn cúi đầu nhìn xuống, nên không trông thấy Lỗ Nhất Khí lúc này đang khép hờ đôi mắt, quay lưng về phía chiến thuyền.
-Trâu gỗ ngựa máy!
Chú thích
[1] Thốn, tức tấc; 1 thốn bằng 3,333cm.
[2] Phi xoa, tức mũi đinh ba dùng để phóng đi, ở đây có nối thêm dây thừng ở đuôi để có thể thu về.
[3] Một đơn vị để ước định khoảng cách của người đi biển, khoảng 50 mét.
[4] Tức miệng cá mập.
[5] Một loại dụng cụ đánh bắt, xâu các móc câu viền hoa thành chuỗi bằng sợi dây thừng, giống như tràng pháo. Bản thân mỗi móc câu viền hoa lại gồm ba mũi câu ngạnh, dùng để câu rà. Loại móc câu tràng pháo này thường được dùng để quăng đi câu rà trong những bầy cá đông đúc, một lần quăng có thể bắt được rất nhiều con.
[6] Thuật ngữ trong điêu khắc gỗ, hơi giống hình hai đường lượn sóng giao thoa xen kẽ với nhau.