Ngày hôm sau, họ khai trương cửa hàng hoa. Đúng như Howl đã nói, không gì có thể đơn giản hơn nữa. Sáng sớm mỗi sáng, tất cả những việc họ cần làm chỉ là xoay chấm tía chỉ xuống, mở cửa và đi tới một khoảng xanh mênh mang đẫm nước để hái hoa. Chẳng bao lâu, công việc này đã trở thành thường nhật. Sophie cầm gậy và kéo, nặng nề đi quanh, chuyện gẫu với cây gậy và dùng nó để dò những chỗ đất mềm hoặc kều những cành hồng vốn hay được hỏi mua. Michael cũng có một sáng chế riêng mà cậu rất tự hào. Đó là một cái bồn đựng nước bằng thiếc rất lớn trôi bồng bềnh trong không trung và đi theo Michael dù cho cậu có đi đến đâu giữa những bụi cây. Gã người chó cũng đi. Gã có những khoảng thời gian tuyệt vời chạy lồng quanh những bãi cỏ xanh ướt đẫm, đuổi bướm hay bắt những con chim nỏ rực rỡ đang kiếm ăn trên những bông hoa. Trong khi gã chạy quanh , Sophie cắt hàng ôm những cành thủy tiên dài, hoặc hoa huệ, hoa dương xỉ màu cam, hay những cành dâm bụt xanh lơ, còn Michael chất đầy bồn thiếc toàn phong lan, hoa hồng, những bông hoa trắng hình sao, những bông hoa đỏ thắm yêu kiều hay bất cứ loài hoa nào khiến cậu say mê. Tất cả mọi người đều rất thích khoảng thời gian này.
Rồi, trước khi cái nóng trong các bụi cây trở nên oi bức, họ đem hoa hái cho ngày hôm đó về cửa hiệu và cắm trong những bộ bình và xô sặc sỡ mà Howl lôi ra từ trong sân. Hai trong số những cái xô thực ra là đôi ủng bảy lý. Không có gì cho thấy rõ Howl đã mất hứng thú với Lettie đến mức độ nào, Sophie nghĩ trong khi cắm hàng bó hoa lay ơn vào đó. Giờ đây anh ta chẳng cần biết Sophie có dùng đôi ủng nữa hay không.
Howl hầu như luôn vắng mặt trong khi mọi người đi hái hoa. Và luôn luôn là cái mặt núm màu đen quay xuống. Anh ta thường về muộn bữa sáng, trông mơ màng, vẫn mặc bộ quần áo đen. Anh ta sẽ chẳng bao giờ nói cho Sophie biết bộ màu đen đó thật ra là cái gì. ” Tôi đang để tang bà Pentatemmon,” lúc nào anh ta cũng chỉ nói thế. Và nếu Sophie hay Michael hỏi vì sao Howl luôn đi vắng vào khoảng thời gian đó thì Howl sẽ trông có vẻ bị xúc phạm và nói: “Nếu muốn nói chuyện với một giáo viên, người ta sẽ phải tóm được cô ta trước khi cô ta đến trường chứ.” Rồi, anh ta sẽ biến vào buồng tắm suốt hai tiếng đồng hồ sau đó.
Trong lúc ấy Sophie và Michael mặc quần áo đẹp và mở cửa hàng. Howl rất kiên quyết về chuyện ăn mặc đẹp. Anh ta nói nó sẽ hấp dẫn khách hàng. Sophie thì khăng khăng bắt tất cả mọi người đeo tạp dề. Và sau mấy ngày đầu tiên, khi mọi người ở Chợ Chipping chỉ chăm chú nhìn qua cửa sổ mà không bước vào cửa hiệu thì cửa hiệu đã trở nên rất nổi tiếng. Người ta đồn rằng cửa hiệu Jenkins có những loại hoa chưa từng thấy bao giờ. Những người Sophie vốn biết cả đời này đến và mua hàng bó hoa. Không một ai trong số họ nhận ra cô, và điều đó khiến cô có cảm giác rất lạ lùng. Tất cả mọi người đều nghĩ cô là bà mẹ già của Howl. Nhưng Sophie đã chán làm mẹ Howl lắm rồi.
– Tôi là dì nó – cô nói với bà Cesari. Người ta bắt đầu gọi cô là dì Jenkins.
Tới lúc Howl tới cửa hiệu, đeo tạp dề đen cho hợp với bộ quần áo thì anh ta thường thấy cửa hiệu rất bận rộn. Anh ta còn làm cho nó bận rộn hơn. Đó là lúc Sophie bắt đầu tin chắc rằng bộ quần áo đen chính là bộ ghi tía đã được yểm bùa. Bất cứ phụ nữ nào được Howl bán hàng cho đều ra về với số hoa nhiều ít nhất gấp đôi số họ muốn mua. Hầu hết là Howl bỏ bùa cho họ mua nhiều gấp mười lần. Chẳng bao lâu, Sophie nhận thấy các quý bà đi qua chỉ nhòm vào và quyết định không bước vào cửa hiệu khi họ thấy Howl đang ở đó. Cô không thể trách họ. Nếu bạn chỉ cần mua một bông hồng cài áo, thì bạn sẽ không muốn bị ép mua ba chục bông phong lan. Cô khuyến khích Howl khi anh ta làm việc nhiều giờ trong cái xưởng bên kia sân.
– Tôi đang lập một hàng rào để chống lại mụ Phù thủy, trước khi bà yêu cầu – anh ta nói. – Bao giờ tôi làm xong, mụ ta sẽ không đời nào có thể lọt được vào bất cứ phần nào của chỗ này.
Đôi khi cũng có vấn đề với số hoa còn lại. Sophie không chịu nổi khi thấy chúng héo rũ đi sau một đêm. Cô phát hiện ra cô có thể giữ chúng khá tươi khi cô trò chuyện với chúng. Sau đó, cô nói chuyện với hoa khá nhiều. Cô bảo Michael làm cho mình một lá bùa dưỡng cây, và cô thí nghiệm trong những cái xô ở bồn rửa và trong những cái chậu đặt ở hốc tường nơi ngày xưa cô thường ngồi trang trí mũ. Cô phát hiện mình có thể giữ một số loại cây tươi đến vài ngày. Vì thế cô thí nghiệm thêm với nhiều loại cây khác nữa. Cô đem bồ hóng ra sân và trồng cây vào đó, miệng lẩm bẩm liên tục. Cô trồng hoa hồng xanh theo cách ấy, điều đó làm cô rất hài lòng. Chồi cây đen như than, và hoa nở xanh, xanh thắm cho đến khi nó xanh màu xanh của Calcifer. Sophie vui sướng vì điều đó đến nỗi cô lấy những bộ rễ trong các túi treo lủng lẳng trên xà nhà xuống đem ra trồng thử. Cô tự nhủ cả đời mình chưa bao giờ hạnh phúc như bây giờ.
Điều này không đúng. Có cái gì đó không ổn, và Sophie không thể hiểu nó là cái gì. Đôi khi cô nghĩ đó là do không ai ở Chợ Chipping nhận ra cô. Cô không dám đi gặp Martha, vì sợ Martha cũng không nhận ra mình. Cô không dám nhổ hoa khỏi đôi ủng bảy lý để đi gặp Letite, cũng vì lý do đó. Cô không thể chịu nổi cảm giác hai em nhìn cô như một cụ già.
Michael luôn đi vắng, ôm theo hàng bó hoa thừa đi gặp Martha. Đôi khi Sophie nghĩ đó là vấn đề đối với cô. Michael quá vui tươi, còn cô ngày càng bị bỏ lại một mình trong cửa hiệu nhiều hơn. Nhưng có vẻ không hẳn thế. Sophie thích bán hoa một mình.
Đôi khi điểm rắc rối có vẻ là Calcifer. Calcifer buồn chán. Lão chẳng phải làm gì ngoài việc giữ cho lâu đài nhẹ nhàng trôi dọc theo những bãi cỏ và quanh các ao, hồ và để mỗi sáng, họ đến một nơi mới với nhiều hoa hơn. Bộ mặt xanh lơ của lão luôn háo hức nhoài ra ngoài ghi lò những khi Sophie và Michael ôm hoa về.
– Tôi muốn biết ngoài kia ra sao – lão nói. Sophie mang về cho lão những thứ lá thơm lừng ngon lành để đốt, khiến lâu đài thơm sực nức chẳng kém gì buồng tắm, nhưng Calcifer nói lão thực sự muốn được cùng đi. Cả ngày, mọi người bận rộn ở cửa hiệu và bỏ lại lão một mình.
Vậy là Sophie bắt Michael làm việc ở cửa hiệu ít nhất một giờ mỗi sáng trong khi cô nói chuyện với Calcifer. Cô bịa ra những câu đố để bắt Calcifer nghĩ ngợi trong khi cô bận làm việc. Nhưng Calcifer vẫn bất mãn.
– Bao giờ cô mới phá cho tôi cái giao kèo với Howl? – Lão hỏi, ngày một thường xuyên hơn.
Và Sophie lại lần lữa với Calcifer.
– Tôi đang tính toán chuyện ấy – cô nói. Sẽ không lâu nữa đâu.
Điều đó không hẳn đúng. Sophie đã thôi không nghĩ đến chuyện đó nếu không bị buộc phải nghĩ. Khi cô ghép những lời bà Pentstemmon nói với tất cả những gì Howl và Calcifer nói, cô phát hiện ra mình có những ý tưởng mạnh mẽ và khá khủng khiếp về cái giao kèo đó. Cô tin chắc rằng giao kèo bị phá vỡ sẽ là kết thúc của cả Howl và Calcifer. Có thể, Howl đáng chịu kết cục như thế, nhưng Calcifer thì không. Và từ khi Howl có vẻ làm việc thực sự vất vả để lẩn tránh phần còn lại trong lời nguyền của mụ Phù thủy thì Sophie không muốn làm gì, trừ phi cô có thể giúp.
Có lúc, Sophie nghĩ đơn giản là gã người – chó đã khiến cô buồn. Nó là một con vật rất u sầu, buồn thảm. Khoảng thời gian duy nhất trong ngày làm nó thích thú là mỗi buổi sáng sớm khi được chạy dọc bãi cỏ xanh giữa những bụi cây. Thời gian còn lại, nó buồn bã đi theo Sophie, thở dài thườn thượt. Vì Sophie cũng chẳng giúp gì được nó nên cô rất mừng khi gần đến ngày Hạ chí, thời tiết trở nên nóng nực hơn và gã người – chó đành phải vào trong sân, nằm dưới những bóng cây râm mát, thở hổn hển.
Trong khi đó, những bộ rễ cây mà Sophie trồng xuống trở nên rất thú vị. Củ hành mọc lên thành cây cọ nhỏ và đang kết những trái nhỏ sực mùi hành. Một bộ rễ khác lớn lên đơm ra những bông hướng dương hồng. Chỉ có một bộ rễ mọc rất chậm. Cuối cùng, khi nó nảy ra hai chiếc lá tròn màu xanh, Sophie rất sốt ruột muốn biết nó sẽ lớn thành cây gì. Ngày hôm sau, trông có vẻ nó sẽ là một cây phong lan. Nó có những chiếc lá nhọn lốm đốm màu hoa cà và một cuống dài mọc ra từ chính giữa với một cái nụ to. Ngày hôm sau nữa, Sophie cắm hoa tươi vào chiếc bồn thiếc và háo hức đi tới hốc tò vò để xem nó mọc lên thế nào.
Cái nụ nở thành một bông hoa màu hồng giống bông phong lan vừa lọt qua một cái máy cán. Nó dẹt và gắn vào cái cuống ngay bên dưới cái đài tròn. Từ cái nhụy màu hồng mận ở chính giữa phun ra bốn cánh hoa, hai cánh chúc xuống đất, hai cánh còn lại hơi chổng lên nhưng bị tắc ở ngang đường. Trong khi Sophie chăm chú nhìn nó, mùi hương nồng của những đóa hoa xuân phả đến báo cho cô biết Howl đã về và đang đứng sau cô.
– Cái đó là cái gì vậy? – anh ta hỏi. – Nếu bà mong đợi một bông hoa violet màu cực tím hay hoa phong lữ màu hồng ngoại thì bà đã lầm rồi đấy, bà Khoa Học Gia Điên Rồ ạ.
– Cháu thấy trông nó giống một bông hoa non bị ép – Michael nói và đến để nhìn.
Đúng thế thật. Howl ném sang Michel một cái nhìn cảnh giác và nâng bông hoa trong bình lên. Anh ta đẩy nhẹ bông hoa ra khỏi bình vào lòng bàn tay, tồi thận trọng tách những sợi rễ trắng, mảnh như sợi chỉ cùng đám bồ hóng và chỗ bùa phân bón ra, cho đến khi bới được cái củ màu nâu có phân nhánh mà Sophie đã trồng xuống.
– Lẽ ra tôi phải đoán được – anh ta nói. – Đó là củ mandrake. Lại là Sophie. Sophie, bà nhất định phải mó vào mới được, phải không hả? – anh ta thận trọng đặt cái cây trở lại và đưa nó cho Sophie rồi bỏ đi, trông hơi nhợt nhạt
Vậy là lời nguyền sắp trở thành hiện thực, Sophie nghĩ trong khi sắp xếp lại đống hoa tươi bên cửa sổ tiệm hoa. Củ mandrake đã đẻ nhánh. Chỉ còn thiếu một vật duy nhất nữa thôi: Phương gió để phát triển một trí tuệ chân thành. Nếu điều đó ám chỉ trí tuệ của Howl cần phải chân thành, Sophie nghĩ, thì có một cơ may là lời nguyền không bao giờ trở thành hiện thực. Cô tự nhủ rằng điều đó cũng đáng đời Howl vì sáng nào cũng đi tán tỉnh cô Angorian trong bộ quần áo yểm bùa, nhưng cô vẫn cảm thấy lo lắng và có lỗi. Cô cắm một bó huệ trắng vào đôi ủng bảy lý. Cô bò vào cửa sổ để lấy chúng thì nghe thấy tiếng thịch, thịch, thịch đều đều ngoài phố. Không phải tiếng vó ngựa. Đó là tiếng một cây gậy nện xuống nền đá.
Tim Sophie cư xử một cách kỳ quặc thậm chí trước khi cô dám nhìn ra ngoài cửa sổ. Quả nhiên, thằng bù nhìn đã đến, nhảy lò cò giữa phố, chậm chạp và có chủ đích. Những mảnh giẻ rách bay phất phơ từ hai cánh tay dang ra trông xơ xác và xám xịt hơn, cái củ cải trên mặt nó đã nhăn nhúm thành một vẻ cương quyết, như thể nó vẫn nhảy lò cò từ lúc bị Howl hất mạnh tít ra xa, cho đến khi cuối cùng nó đã nhảy lò cò tìm được đường trở lại.
Sophie không phải người duy nhất hoảng sợ. Vài người qua đường lúc sáng sớm trông thấy thằng bù nhìn đã bỏ chạy thục mạng. Nhưng thằng bù nhìn không thèm đếm xỉa đến họ và vẫn tiếp tục nhảy lò cò.
Sophie che mặt không để nó nhìn thấy.
– Chúng ta không có ở đây – cô nói với nó bằng giọng thì thầm dữ dội. – Mày không biết chúng tao ở đây! Mày không thể tìm được chúng tao. Nhảy nhanh đi đi!
Tiếng thịch, thịch, của cái gậy nhảy lóc cóc chậm lại khi thằng bù nhìn đến gần cửa hiệu. Sophie muốn gào lên gọi Howl, nhưng dường như tất cả những gì cô có thể làm là tiếp tục nhắc đi nhắc lại, “Chúng tao không có ở đây. Hãy cút đi thật nhanh!”
Và tiếng nhảy lọc cọc nhanh hơn, đúng như cô bảo nó và thằng bù nhìn nhảy qua cửa hiệu và đi qua Chợ Chipping. Sophie nghĩ cô sắp vượt qua được cơn khó ở. Nhưng giống như cô vừa phải nín thở vậy. Cô hít một hơi thật sâu, cảm thấy run nhưng nhẹ nhõm. Nếu thằng bù nhìn quay trở lại, có thể cô sẽ đuổi được nó đi lần nữa.
Lúc Sophie vào căn phòng của lâu đài thì Howl đã ra ngoài.
– Có vẻ như ông ấy buồn bực kinh khủng – Michael nói. Sophie nhìn cánh cửa. Cái núm quay sang màu đen. Không đến nỗi buồn bực thế đâu! – cô nghĩ.
Sáng hôm ấy, Michael cũng đi ra ngoài, tới Cesari, và lại chỉ còn Sophie một mình trong cửa hiệu. Trời rất nóng. Dù đã được yểm bùa nhưng hoa vẫn héo rũ, và chẳng mấy ai có nhã hững muốn mua. Chuyện đó, cùng với rễ cây mandrake và thằng bù nhìn, tất cả những cảm xúc trong Sophie khiến cô cảm thấy như mình sắp rơi vào một cơn khủng hoảng. Cô thấy vô cùng khổ sở.
– Biết đâu lời nguyền vẫn lơ lửng đuổi theo Howl thì sao – cô thở dài và nói với đám hoa. – Nhưng ta nghĩ thật ra đó là vì ta già, thật đấy. Thử nhìn ta mà xem! Ta đã đi để tìm vận may cho mình và kết cục là ta lại trở về đúng nơi ta bắt đầu đi, và lại còn già nua như những quả đồi!
Đến đây, gã người – chó gí cái mũi loang loáng đỏ vào cánh cửa mở ra sân và rên ư ử. Sophie thở dài. Không bao giờ có lấy nổi một giờ mà con vật này không kiểm soát cô.
– Đây, tao vẫn còn đây – cô nói. – Mày nghĩ tao đang ở đâu kia chứ?
Con chó đi vào cửa hiệu. Nó ngồi dậy và duỗi hai chân cứng đơ trước mặt. Sophie nhận ra nó đang cố biến lại thành người. Con vật tội nghiệp. Cô cố tử tế với nó vì dẫu sao đi nữa thì nó còn khổ sở hơn cả cô.
– Cố lên nữa đi – cô nói. – Đặt lưng vào đó. Nếu mày muốn mày có thể thành người được đấy.
Con chó dang chân và duỗi thằng lưng, rồi căng mình, căng mình. Và đúng lúc Sophie tin chắc là nó sắp bỏ cuộc hoặc ngã lộn ra sau thì nó đứng thẳng được lên hai chân sau và nhấc mình lên thành một kẻ quẫn trí, tóc hung.
– Tôi ghen tị … Howl – anh ta thở hổn hển. – Làm điều đó … quá dễ. Tôi là … con chó trong bờ dậu … mà cô đã giúp đỡ. Tôi đã bảo với Lettie … tôi biết cô … Tôi vẫn trông chừng. Tôi đã … ở đây trước khi ở … – Nó lại bắt đầu gập xuống thành một con chó và tru lên giận dữ – Với mụ Phù thủy trong cửa hiệu! – nó rên rỉ và đổ tới ngã chống hai tay xuống đất, trong khi ngã, khắp mình nó mọc ra rất nhiều lông màu xám và trắng.
Sophie trố mắt nhìn con chó to tướng lông xù đang đứng đó:
– Anh đã ở đây cùng với mụ Phù thủy! – cô nói. Cô đã bắt đầu nhớ ra. Anh chàng tóc hoe trông âu sầu, người đã chằm chằm nhìn cô đầy sợ hãi. – Vậy thì anh biết ta là ai và biết ta đang bị yểm bùa. Lettie có biết không?
Cái đầu xù to tướng gật gật.
– Và mụ ta gọi anh là Gaston – Sophie nhớ lại. – Ồ, anh bạn của tôi, mụ ta đã làm khó cho anh quá! Thử tưởng tượng có chừng ấy lông trong cái thời tiết này! Tốt hơn hết là anh nên tìm chỗ nào mát mẻ.
Con chó lại gật đầu và khổ sở lê ra sân.
– Nhưng tại sao Lettie lại cử anh đến? – Sophie băn khoăn. Cô cảm thấy vô cùng bối rối và xao động vì phát hiện này. Cô lên gác và đi qua kho để chổi để nói chuyện với Calcifer.
Calcifer cũng không giúp được gì nhiều.
– Có bao nhiêu người biết cô đang bị ếm bùa cũng chẳng có gì khác nhau cả – lão nói – Nó cũng không giúp được gì nhiều cho gã người – chó, đúng không?
– Không, nhưng … – Sophie nói, nhưng, đúng lúc đó cửa lâu đài lạch cạch mở ra. Sophie và Calcifer nhìn lên. Họ thấy tay nắm cửa xoay cho chấm đen quay xuống, và chờ Howl bước qua đó. Khó mà nói ai trong hai người kinh ngạc hơn khi người vừa thận trọng lách qua cửa hóa ra lại là cô Angorian.
Cô Angorian cũng kinh ngạc không kém:
– Ồ, cháu xin lỗi – cô nói. – Cháu cứ tưởng anh Jenkins ở đây chứ.
– Anh ta đi vắng rồi – Sophie nói gượng gạo và cô tự hỏi Howl đi đâu nếu không phải đi gặp cô Angorian.
Cô Angorian buông cửa ra, từ nãy đến giờ cô ta vẫn nắm chặt lấy nó vì ngạc nhiên. Cô ta để nó đu đưa mở ra một khoảng hư vô và đi về phía Sophie vẻ cầu xin. Sophie nhận thấy mình cũng đứng lên và đi ngang qua căn phòng. Tựa như cô cố chặn cô Angorian lại.
– Xin bà đừng nói với anh Jenkins là cháu đã đến đây – cô Angorian nói. – Nói thật với bà, cháu chỉ khuyến khích anh ta với hy vọng sẽ biết được tin tức về Ben Sullivan, chồng chưa cưới của cháu. Cháu tin chắc Ben đã biến mất ở nơi mà anh Jenkins vẫn thường tới. Chỉ có điều Ben không trở về.
– Ở đây không có ông Sullivan nào cả – Sophie nói. Và cô nghĩ, đó là tên của Pháp sư Sulliman! Mình không tin nổi một lời nào của cô ta cả!
– Ồ, cháu biết thế – cô Angorian nói. – Nhưng cháu có cảm giác đúng là nơi này. Bà có thể cho phép cháu chỉ nhìn quanh một chút để có một chút ý niệm về kiểu cuộc sống mà Ben hiện nay đang sống không? – Cô hất vạt tóc đen ra sau một bên tai và cố đi sâu hơn vào trong phòng. Sophie chắn ngang đường. Cô Angorian buộc phải rón rén vòng sang bên để đi về phía bàn thợ.
– Lạ quá nhỉ! – cô nói và nhìn đám chai lọ. – Một thị trấn nhỏ kì lạ làm sao! – cô nói và nhìn qua cửa sổ.
– Tên nó là Chợ Chipping – Sophie nói và đi vòng tới, dồn cô Angorian lùi ra cửa.
– Còn trên cầu thang đó là gì vậy? – cô Angorian hỏi, chỉ vào cánh cửa mở lên cầu thang.
– Phòng riêng của Howl – Sophie đáp chắc nịch và đẩy cô Angorian lùi lại phía sau.
– Còn sau cánh cửa đang mở kia là cái gì? – cô Angorian hỏi.
– Một tiệm hoa – Sophie nói. – Cái đồ tọc mạch! – cô nghĩ.
Tới lúc này cô Angorian chỉ còn nước hoặc là lùi lại ngồi xuống ghế hoặc là lùi lại ra cửa. Cô ta chằm chằm nhìn Calcifer vẻ mơ hồ và nhăn nhó tựa như không tin vào thứ mình đang nhìn thấy, còn Calcifer chỉ chằm chằm nhìn lại mà không nói lời nào. Điều đó khiến Sophie cảm thấy dễ chịu hơn khi tỏ ra không thân thiện như thế. Chỉ những người hiểu Calcifer mới thực sự được chào đón trong ngôi nhà của Howl.
Nhưng lúc này, cô Angorian chúi quanh chiếc ghế và nhìn thấy cây ghi ta của Howl dựa trong góc nhà. Cô ta vồ lấy nó với một tiếng thở hắt và quay lại, ôm chặt cây đàn vào ngực vẻ muốn chiếm hữu:
– Bà lấy cái này ở đâu ra thế? – cô ta gặng hỏi bằng giọng trầm trầm và xúc động. – Ben có một cây ghi ta như thế này! Nó có thể là của Ben!
– Ta nghe nói Howl mua nó mùa đông năm ngoái – Sophie nói. – Rồi cô lại bước tới, cố xô cô Angorian ra khỏi góc nhà và đẩy cô ra cửa.
– Có chuyện gì đó đã xảy ra với Ben! – cô Angorian nói, giọng nhoi nhói. – Anh ấy sẽ không bao giờ chịu rời xa cây ghi ta của mình! Anh ấy đâu rồi? Cháu biết anh ấy không thể chết. Nếu anh ấy chết, trái tim cháu sẽ biết!
Sophie tự hỏi có nên nói với cô Angorian rằng mụ Phù thủy đã bắt Pháp sư Sulliman rồi không. Cô nhìn sang để xem cái đầu lâu. Cô nửa muốn vung vẩy cái đầu lâu vào mặt cô Angorian và nói rằng đó chính là đầu Pháp sư Sulliman. Nhưng cái đầu lâu đang nằm trong bồn rửa, nấp sau xô hoa huệ và dương xỉ thừa, và cô biết nếu mình sang đó, cô Angorian sẽ lại luồn ngay vào phòng. Hơn nữa, nếu làm thế thì thật tàn nhẫn.
– Cháu có thể lấy cây ghi ta không? – cô Angorian nói khàn khàn, ôm chạt cây ghi ta vào mình. – Để nhớ đến Ben.
Tiếng thổn thức trong giọng nói của cô Angorian khiến Sophie bực bội:
– Không. – cô nói. – Không cần phải căng thẳng quá như thế. Cô chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ đó là đàn của cậu ta. – Cô tập tễnh đến gần cô Angorian và nắm lấy cần cây ghi ta. Cô Angorian chòng chọc nhìn Sophie qua cây đàn với đôi mắt mở to đau đớn. Sophie kéo. Cô Angorian níu lại. Cây đàn bật lên những tiếng chói tai lạc điệu khủng khiếp. Sophie giật nó khỏi vòng tay của cô Angorian.
– Đừng có ngớ ngẩn – cô nói. – Cô không có quyền đi vào lâu đài của người khác và lấy đàn ghi ta của người ta đi. Ta đã bảo cô là ngài Sullivan không ở đây. Giờ thì hãy quay về xứ Wales đi. Đi đi. – Rồi cô dùng cây đàn đẩy cô Angorian lùi qua cửa.
Cô Angorian lùi vào quãng hư vô cho đến khi phân nửa người cô ta biến mất.
– Bà thật khắc nghiệt – cô ta nói vẻ trách móc.
– Phải, ta rất khắc nghiệt! – Sophie nói và đóng sập cánh cửa trước mặt cô ta. Cô xoay cái núm cho màu cam quay xuống để ngăn cô Angorian trở lại và đặt phịch cây đàn ghi ta vào góc nhà làm bật ra một tiếng tưng chắc nịch.
– Và lão chớ có liều mà nói với Howl là cô ta đã đến đây đấy nhé – cô nói với Calcifer một cách rất vô lý. – Ta cuộc là cô ta đến để gặp Howl. Những chuyện còn lại chỉ là một mớ dối trá. Pháp sư Sulliman đã ổn định ở đây, cách đây nhiều năm rồi. Có lẽ anh ta đến đây để trốn khỏi cái giọng thổn thức ghê tởm của cô ta.
Calcifer cười khúc khích:
– Tôi chưa bao giờ thấy ai bị tống khứ đi nhanh thế – lão nói.
Chuyện này khiến Sophie cảm thấy mình vừa hẹp hòi vừa có lỗi. Rốt cuộc bản thân cô cũng vào lâu đài theo cách đó, và cô còn tọc mạch gấp đôi cô Angorian.
– Hừ – cô nói.
Cô lọc cọc đi vào buồng tắm và nhìn bộ mặt già nua nhăn nheo của mình trong gương. Cô nhặt một gói có dán nhãn DA lên và rồi lại quẳng xuống. Ngay cả khi trẻ trung, tươi tắn, cô cũng không nghĩ gương mặt mình có thể so sánh được với gương mặt của cô Angorian.
– Gừm! – cô nói. – Hừm! – Cô vội vã tập tễnh quay lại và nhặt bó dương xỉ và huệ trong bồn rửa lên. Cô khệnh khạng cầm bó hoa rỏ nước đi sang cửa hiệu, nhét bó hoa vào cái xô đựng bùa dưỡng chất. – Hãy là hoa thủy tiên! – cô nói với chúng bằng giọng điên dại, tức giận và run run. – Hãy là hoa thủy tiên trong tháng Sáu, lũ đáng ghét chúng mày!
Gã người – chó thò bộ mặt bờm xờm vào qua cánh cửa ngoài sân. Khi thấy tâm trạng của Sophie lúc đó, gã bèn vội vã lùi ra ngoài. Một phút sau khi Michael vui vẻ bước vào với chiếc bánh nướng lớn, Sophie quắc mắt nhìn cậu ta đến nỗi Michael ngay lập tức nhớ ra một lá bùa mà Howl dặn cậu phải làm, rồi chạy biến đi qua cánh cửa trong kho để chổi.
– Hừm! – Sophie hầm hè nói theo. Cô lại cúi xuống chiếc xô. – Hãy là hoa thủy tiên! Hãy là hoa thủy tiên! – cô càu nhàu. Điều đó chẳng làm cô cảm thấy dễ chịu hơn chút nào, và cô biết mình cư xử thật ngớ ngẩn.
—œ¯—