Jane Eyre (Jên Erơ)

Chương 10: Đại biến



Nhiều tuần lại trôi qua. Bây giờ, chỉ còn mấy tiếng nữa, là đến lễ cưới. Tôi đã sẵn sàng.

Mọi thứ đều đã gọn gàng. Mấy cái hòm và hành lí của tôi đã được đặt thẳng hàng, dọc theo bức tường ở buồng tôi. Ngày mai, những thứ đó sẽ ra đi cùng với bà Jane Rochester, mà hôm nay, vẫn còn là cô Jane Eyre.

Tôi vừa ngạc nhiên, vừa vui thích, nhìn những chiếc áo dài, áo măng-tô mà tôi chưa từng mặc bao giờ. Những áo đó cũng đều là của bà Rochester, mà bà này thì hôm nay vẫn chưa tồn tại. Làm sao mà tất cả những của cải đó lại có thể là của tôi được nhỉ? Tôi bèn nhắm mắt lại để khỏi phải nhìn thấy những của báu, nó làm tôi phải lóa mắt đó.

– Không khí, tôi cần có không khí!

Và tôi ra vườn; ngay lập tức, tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Bất thình lình, tôi nhìn thấy ông Rochester cưỡi ngựa đi về, theo sau có con Pilote, như một người bạn không thể tách rời của ông.

– Chào em, chào em! – ông hét lên, khi nhận ra tôi. ông vung cái mũ của mình lên, có vẻ như đang rất vui.

– Cảm ơn em đã đi đón tôi. Nào, Jane, hãy đặt chân lên chân tôi, rồi đưa hai tay đây và lên ngồi cạnh tôi.

Tôi đã làm ngay theo lời ông. Tôi thật sự đã nhảy lên được, và ngồi trước mặt ông, trên mình ngựa.

– Jane này, mọi việc đều tốt chứ, phải không?

Có chuyện gì không hay xảy ra trong lúc tôi đi vắng không?

– Không, không… Nhưng thời gian chờ đợi, em thấy sao mà dài thế. Em nhớ ông quá.

Đến gần cửa biệt trang, tôi xuống ngựa.

– Em đi thay quần áo đi. – ông Rochester bảo tôi. – Tôi đợi em ở phòng sách. Chúng ta sẽ nói chuyện về công việc ngày mai. Sau khi chúng tôi ăn xong, tôi cho dọn bàn.

Tôi kều lửa, rồi đến ngồi trên một chiếc ghế đẩu, cạnh ông Rochester. Chúng tôi nghe thấy tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ đêm.

– ôi! Giá như có thể làm cho thời gian dừng lại được nhỉ, – tôi nói. – Em đang được sống những giờ phút đẹp nhất của đời mình!

– Tuy nhiên, tương lai cũng không thể làm em phải sợ.

– Bây giờ, đang ngồi bên ông, em thấy yên ổn, nhưng đêm hôm qua, thì em đã phải run lên.

– Thế nào, Jane, hãy kể cho tôi nghe đi! Tất cả những gì liên quan đến em, tôi đều tha thiết muốn biết.

– Em đang ngủ yên trong giường thì một tia sáng làm em tỉnh dậy. Thoạt đầu, em nghĩ đó là ánh sáng ban ngày, nhưng sau nhận ra là có một người nào đó đã vào buồng mình, tay cầm một cây nến đang cháy. Em tưởng đó là Sophie và lên tiếng gọi, nhưng không có tiếng trả lời. Lại còn thế này nữa: bóng đen đó bước đến chỗ quần áo của em, rồi nhấc tấm khăn trùm mặt cô dâu của em lên. – Sophie, – em lại hỏi, – chị làm gì đấy, chị cần gì? Vẫn không có tiếng trả lời. Em bèn nhổm dậy, và cố nhìn vào mặt người khách lạ.

– Ai thế?

– Không phải Sophie, cũng chẳng phải Grace Poole. Kẻ đang lảng vảng trong buồng em hoàn toàn là một người xa lạ.

Ông Rochester có vẻ rất lo lắng, và lại càng lo lắng thêm, khi nghe tôi kể tiếp.

– Em cố nhận mặt người ấy. Mãi sau em mới nhìn rõ. Mụ ta đã lấy tấm khăn trùm mặt cô dâu của em, rồi lại gần tấm gương. Em chưa hề thấy khuôn mặt nào như vậy. Đúng là một con ma… nó xé tan tấm khăn trùm mặt cô dâu của em! Tiếp đó, nó đi về phía cửa sổ, rồi về phía cửa ra vào, thế là nó trở lại phía giường em. Bất thình lình, nến tắt. Và em cảm nhận thấy một khuôn mặt gần sát mặt mình, và em sợ đến hóa điên, rồi không biết gì nữa.

– Tất cả những chuyện đó thật là bí hiểm!

Jane này tôi nghĩ là em bị mệt. Thần kinh em yếu. Đã đến lúc chúng ta phải đi ra nước ngoài.

Em bị xúc động mạnh quá đấy. Em đã trải qua một cơn ác mộng.

– Không, không… Chắc chắn đó là sự thật, em không nằm mơ đâu. Có người đã vào buồng em thật: tấm khăn trùm mặt cô dâu của em đã bị xé rách. những mảnh khăn vẫn còn đó..- Nếu vậy thì nghiêm trọng thật, chứ không phải như tôi đã nghĩ. – ông Rochester nói. ông vòng tay ôm chặt lấy tôi, và tôi cảm thấy mình được ông che chở.

– Xin cảm ơn ông, – tôi nói. – Bây giờ, em đã giải thích tất cả với ông rồi, thì em cảm thấy như mình đã được giải phóng, và sẽ chẳng có chuyện gì tồi tệ có thể xảy ra với em được nữa.

Tuy nhiên, tôi vẫn hơi thắc mắc. Tôi thấy hình như mình đang thâm nhập những chuyện bí ẩn của tòa nhà mà trước kia mình thấy có vẻ rất bình lặng này.

– Thế là một người đàn bà đã vào buồng em, và mọi sự đều chứng tỏ đó chính là Grace Poole.

– Vậy chị ta làm việc gì trong nhà này? Sao ông không đuổi chị ta đi?

– Tôi biết là em sẽ hỏi tôi thế, nhưng tôi chưa thể trả lời ngay được… Trong một năm nữa, vào một ngày nào đó, em sẽ được biết toàn bộ sự thật. Em hãy tin tôi!

Tôi đồng ý với ông, nhưng, như thế là đối với tôi, điều bí ẩn đó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Chắc hẳn, ông Rochester cũng có lý do gì đó.

– Chúng ta phải chia tay nhau thôi, kẻo khuya quá rồi. Nhưng em đừng quay về buồng mình nữa thì hơn. Đêm nay, em nên ngủ chung giường với Adèle. Thôi tạm biệt Jane. Nhớ khóa cửa cẩn thận. Cố ngủ yên. Sophie sẽ đánh thức em dậy rất sớm đấy, là vì em cần phải sửa soạn xong trước tám giờ sáng. Ngày mai sẽ là một ngày vui.

Adèle vui vẻ đón tôi… Rồi nó ngủ. Tôi khóa cửa cẩn thận, nằm xuống cạnh cô bé học trò yêu quý.

Khoảng bảy giờ, Sophie đến đánh thức tôi, nhưng đến tám giờ, tôi vẫn chưa sắp sửa xong.

Ông Rochester bắt đầu thấy sốt ruột.

– Jane ơi, – ông kêu lên, – sao lâu thế?

Tôi xuống nhà, rồi ngả ngay vào cánh tay ông.

– Jane ạ, tôi sốt ruột quá, em chẳng biết thương tôi chút nào…

Rồi ông gọi bác John, bảo bác chuẩn bị xe.

Mấy phút sau, bác đến báo là ông Wood, mục sư, đã tới, xe đã sẵn sàng, và mấy chiếc va li đã được đặt vào chỗ.

Chúng tôi chẳng có ai làm phù dâu, phù rể, hoặc họ hàng đưa đón gì cả. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức trong phạm vi thân mật nhất.

Tôi định ôm hôn, chào bà Fairfax, nhưng ông Rochester đã lôi tôi đi ngay, và tôi không sao cưỡng lại ông được..Nhà thờ đã cũ; chim chóc bay lượn xung quanh tháp chuông. Một vài hình ảnh đã khắc sâu vào kí ức tôi: những nấm mồ trong nghĩa trang, với hai người lạ mặt đang loanh quanh trong đó, những cây cối bị gió lay động, những cửa sổ mở, và những người đang nhìn chúng tôi…

Khi bước vào thánh đường, nơi vị mục sư đang đợi chúng tôi, tôi lại nhìn thấy hai người lạ mặt ở nghĩa trang lúc trước. Họ đang xem tấm mộ chí của gia đình họ Rochester. Rồi một trong hai người lặng lẽ đến gần và đứng sau lưng chúng tôi. ông mục sư mở đầu buổi lễ:

– Các người sắp được gắn bó với nhau bởi những sợi dây ràng buộc của hôn nhân, nhưng trước hết, các người phải nói là, theo như các người được biết, thì hiện nay không có trở ngại nào, vì nếu có trở ngại, cuộc hôn nhân sẽ bị tuyên bố hủy bỏ và, đến ngày Phán xử cuối cùng, các người sẽ phải vất vả giải trình trước Chúa toàn năng. Vậy hãy thú thật đi, hiện nay vẫn còn kịp.

Ông mục sư dừng lại, song không ngửng đầu lên; ông đợi một lát, và sắp đọc tiếp, chợt một giọng nói cất lên trong bầu không khí yên lặng:

– Tôi yêu cầu không cử hành hôn lễ này.

Ông mục sư ngạc nhiên nhìn người vừa nói.

Ông Rochester không nhúc nhích, nhưng tôi, chỉ một mình tôi thôi, nhận biết là ông hơi rùng mình.

– Thưa mục sư, tôi xin ông cứ tiếp tục. -ông nói bằng một giọng bình tĩnh.

– Nhưng tôi không bỏ qua việc can thiệp vừa rồi được. – Vị mục sư nói.

– Theo đúng luật pháp, tôi xin phản đối, hôn lễ này không thể cử hành được. ông Rochester không phải là người tự do. ông ấy đã có vợ, và vợ ông ấy vẫn còn sống.

Những lời nói đó đã tác động đến tôi như một quả bom. ông Rochester đã có vợ! Toàn thế giới như chao đảo, như rung lên trên nền tảng của nó, nhưng có một sức mạnh siêu phàm đã lớn lên trong con người tôi, khiến tôi vẫn giữ được bình tĩnh.

– Tôi là biện lý Briggs. Tôi được biết là ông đã có vợ, và vợ ông vẫn còn sống. Luật pháp và lương tâm tôi buộc tôi phải ngăn chặn, không để ông kí kết một cuộc hôn nhân mới..ạng ta rút trong túi mình ra, một tờ giấy.

Ông mở tờ giấy ra, rồi bắt đầu đọc bằng một giọng đều đều:

Tôi tên là Richard Mason, tôi xin tuyên bố rằng ông Edouard Rochester, ở biệt trang Thornfield, đã kết hôn với em gái tôi là Berthe Mason, cách đây mười lăm năm, ở đảo Jamaique. Hiện tôi đang có trong tay một bản sao tờ đăng ký kết hôn, bản chính thì vẫn còn ở nhà thờ, ai cũng có thể đến đó tra cứu được.

– Cứ cho đó là sự thật đi, – ông Rochester nói, – thì vẫn không có gì chứng tỏ là vợ tôi Berthe Mason, vẫn còn sống.

– Tôi không biết là đến hôm nay, bà ấy có còn ở trên đời này nữa hay không, nhưng một nhân chứng có thể cam đoan với ông là, cách đây chừng ba tháng, ông ta đã nhìn thấy bà ấy.

Ông ta đã nói chuyện với bà ấy, và có thể tuyên bố rằng hồi đó, bà ấy sống trong những điều kiện hơi đặc biệt.

– Hãy cho nhân chứng ra đây!

– Hãy bước lên đi, ông Mason, – viên biện lý nói. – Mời ông đi lên để làm chứng.

Ông Rochester tái mặt lại. ông Mason chậm chạp bước lên. Mặt ông cũng tái nhợt. ông đến đứng cạnh viên biện lí. Tôi run lên, vì sợ rằng một thảm kịch sẽ có thể nhuộm máu nơi thiêng liêng này.

Ông Mason, sợ quá, cứ nói lí nhí trong mồm, không ai nghe rõ tiếng gì cả, khiến vị mục sư phải đến giúp đỡ ông ta.

– Tôi là anh trai của cô Berthe… Tôi đã gặp em gái tôi ở lâu đài Thornfield, cách đây ba tháng.

– ông làm tôi ngạc nhiên đấy, ông ạ, – vị mục sư nói. – Tôi quen biết lâu đài Thornfield và thường có vinh dự được tiếp đón ở đó. Thế mà tôi chưa nhìn thấy bà ấy bao giờ.

Ông sắp định tiếp tục hỏi ông Mason, thì bỗng ông Rochester khẽ lấy tay ra hiệu. Một không khí im lặng ngột ngạt tràn ngập nhà thờ.

Ông Rochester đã cúi đầu xuống. Rồi bất thình lình, trong khi một nụ cười buồn bã và đắng cay làm cho nét mặt ông dịu lại đôi chút, ông tuyên bố:

– Thôi, không kéo dài làm gì nữa. Các ngài sắp được biết sự thật… Hôm nay sẽ không có hôn lễ nữa… Những người kia không nói dối đâu.

Đúng, tôi đã kết hôn với cô Berthe Mason…

Đúng, cô ta còn sống và đang ở Thornfield. Cô.ta bị điên và tôi đã giấu kĩ cô ta. Tôi không sao nói hết được nỗi khổ của mình. Có thể các ngài sẽ tưởng tượng được tôi đã đau khổ như thế nào, tôi đã phải chịu đựng những gì. Tôi xin mời các ngài hãy đến Thornfield! Tự các ngài sẽ nhận xét xem tôi có lí do để làm lại, một cách lương thiện, cuộc đời của mình không.

Ông ấy chưa buông tôi ra, ông kéo tôi ra khỏi nhà thờ; theo sau chúng tôi, là vị mục sư, viên biện lí và ông Mason.

Chúng tôi leo lên cái cầu thang dài, dẫn đến các tầng gác. ông Rochester dừng lại, mở cửa.

– Xin hãy vào đây, – ông nói. Rồi ông lại mở một cánh cửa khác, đưa mọi người vào một buồng khác, bé hơn. Tôi nhận thấy buồng này không có cửa sổ, và có một ngọn đèn thắp sáng suốt ngày. Tôi thấy có Grace Poole bên cạnh lò sưởi và, trong một góc tối tăm, có một người đàn bà đầu tóc rối bù, mệt lả, nằm bẹp như một con vật…

Ông Rochester đến gần Grace Poole, và nói với chị ta:

– Chị vẫn khỏe đấy chứ? Làm ơn cho tôi biết tình hình bệnh nhân của chị. Cô ta có còn lên cơn không?

– Bà nhà cũng khá, thưa ông Rochester, đêm qua, không có cơn nào đáng ngại lắm. Song bà bị sốt nhiều, và tôi phải luôn luôn canh giữ.

Đúng lúc này, người bệnh, vẫn nằm tại chỗ, bỗng thét lên một tiếng, nghe đáng sợ.

– ông thấy đấy, nhìn thấy ông ở đây, bà ấy lại nổi khùng rồi. Tôi sợ bà ấy lại sắp làm dữ đấy.

Đúng lúc này, người đàn bà điên nhổm dậy, và tôi đã nhìn thấy mặt bà ta. Tôi nhận ra đó chính là con ma đã làm tôi sợ chết khiếp, đêm vừa rồi.

– Coi chừng đấy, – ông Rochester kêu lên, – khi cô ta nổi giận, thì không gì cưỡng lại được đâu.

– Ta đi thôi, – ông Mason nói. – Tất cả những chuyện này sẽ kết thúc tồi tệ, nếu ta còn nấn ná ở đây.

Mụ điên đã chồm lên như một con thú dữ, rồi vồ lấy ông Rochester. Một cuộc chiến đấu khốc liệt bắt đầu. Rốt cuộc, nhờ được Grace Poole đưa cho một sợi dây thừng, ông đã trói được hai tay mụ quặt ra sau lưng, rồi cột chặt mụ vào cái ghế tựa..- Tôi cho rằng các ngài xem như thế đã đủ rồi, – ông Rochester nói với ba người đàn ông; họ đã khôn ngoan ra trú ẩn ngoài hành lang. -Bây giờ thì các ngài phải đi đi thôi. Tôi thì còn phải ở lại để trả con thú này vào hang của nó, để nó khỏi làm hại mọi người.

Ông Rochester và Grace Poole làm nốt những việc cần làm với bà Rochester, còn tôi lại đi xuống nhà, cùng với ba người đàn ông.

– ông Mason sắp phải quay về Madère, -viên biện lí nói với tôi. – Tôi hi vọng ông ấy sẽ gặp ông chú John Eyre của cô ở đó, và chú cô sẽ rất sung sướng khi được biết vụ việc đáng buồn này đã kết thúc như thế nào.

– Xin ông nói cho tôi biết về tình hình chú tôi…

– ông Mason sẽ nói với cô những gì ông biết về ông chú cô, vì hai ông có nhiều mối quan hệ kinh doanh với nhau. Cô đã cho ông chú cô biết về ý định kết hôn với ông Rochester. Chú cô vừa nhận được thư của cô, thì ông Mason ghé qua Madère, trước khi về nhà ở đảo Jamaique.

Vì thế, ông ấy đã biết tin và đã cảnh báo chú cô, và chắc cô cũng đoán được, là chú cô đã choáng váng đến mức nào. Vì yếu đau, chú cô không thể đi xa được, nên đã ủy quyền cho ông Mason, nhờ ông sang Anh, để cứu cô.

Tôi chào ông, rồi đi lên buồng mình. Tôi nghe thấy tiếng xe của vị mục sư và viên biện lí chuyển bánh, rồi sau đó, cả tòa nhà lại im lặng như tờ. Tôi bỏ khăn trùm và cởi áo cưới ra, thay bằng chiếc áo dài cũ của mình, chiếc áo mà tôi đã tưởng là sẽ vứt bỏ hẳn. Thế là tôi ngồi xuống, và ngẫm nghĩ về số phận mình. Giấc mơ của tôi đã quá đẹp. Tôi thấy hình như mình đang rơi xuống một vực thẳm. Chết, – tôi tự nhủ, – sẽ là một cách giải thoát, và tôi chỉ mong được chết.

Tôi muốn từ giã thế giới này, vì nó chỉ dành cho mình toàn những cạm bẫy và thảm kịch. Tôi muốn quên đi tất cả, để bước vào cõi hư không…

rồi tôi lịm đi, không biết gì nữa..


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.