Kim Trục Lưu thất kinh, vội vàng dùng nội công truyền âm nhập mật kêu: “Sử cô nương, Sử cô nương!” Nhưng trong rừng chỉ có
tiếng chim hót chứ chẳng nghe Sử Hồng Anh trả lời.
Kim Trục Lưu
bước ra ngoài, chỉ thấy trước mặt có ba ngã rẽ, cũng không biết Sử Hồng
Anh đã đi về lối nào! Kim Trục Lưu hoang mang lo lắng, lòng thầm nhủ:
“Xem ra hình như nàng tránh mặt mình. Nếu thế thì mình chẳng còn cách
nào”. Khinh công của Sử Hồng Anh chẳng kém gì Kim Trục Lưu, nay trong
tay chàng đang cầm một tảng huyền thiết thì làm sao đuổi theo nàng?
Huống chi cũng không biết nàng đi về lối nào.
Kim Trục Lưu bực
bội, thầm mắng: “Đều do vì bọn khốn kiếp nói vớ vẩn khiến Sử cô nương
tức giận bỏ đi!” Chàng hận không chạy về Hải Sa bang tìm Sa Thiên Phong
và Đổng Thập Tam nương đánh cho một trận, nhưng nghĩ lại, hai người Sa,
Đổng đều đã thua to. “Hảo hán không đánh người yếu, coi như bọn chúng
cũng đã bị trừng trị”. Chàng nghĩ như thế cho nên cơn tức dần dần dịu
xuống.
Kim Trục Lưu bình tĩnh ngẫm nghĩ, Sử Hồng Anh tuy né
tránh chàng, nhưng lúc nãy dù bị người ta mỉa mai cũng cùng mình liên
thủ đối địch, rõ ràng đã rất coi trọng mình. Nhớ lại lúc nãy nàng đã nổi giận vì mình đã hiểu nhầm tình cảm của nàng với Lý Đôn. Cũng có nghĩa
là, từ chuyện này có thể biết rõ nàng và Lý Đôn không phải là tình nhân. Lần gặp mặt này coi như chàng không đến nỗi uổng công, ít nhất cũng có
thể giải được mối nghi ngờ trong lòng mình. Kim Trục Lưu nghĩ đến thì
không những đã hết giận mà trong lòng còn cảm thấy ngọt ngào ấm áp.
Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Chắc là nàng e ngại nên mới né tránh mình. Nàng vốn là người phóng khoáng, vài ngày sau chắc sẽ quên ngay. Sau này gặp lại, mình phải xin lỗi nàng mới được. Giờ đây phải vào kinh thành rồi tính
tiếp”.
Kim Trực Lưu vượt sông lên phía bắc, đi ngang Từ Châu
tiến vào Sơn Đông, ngày hôm nay đã đến Tế Nam. Tế Nam là một thành thị
phong cảnh đẹp đẽ, Kim Trục Lưu thầm tính còn năm sáu ngày nữa mới đến
ngày lễ mừng thọ của Tát Phúc Đỉnh, lòng thầm nhủ: “Đã đến Tế Nam, phải
tới Hồ Đại Minh du ngoạn một phen”.
Rồi chàng tìm khách sạn nghỉ một đêm, sáng sớm hôm sau thì đến Hồ Đại Minh. Hồ Đại Minh nằm ở phía
nam thành Tế Nam, dưới chân núi Thiên Phật. Kim Trục Lúa thuê một chiếc
thuyền nhỏ chèo qua bờ bên kia. Mặt hồ phẳng lặng như gương, chùa chiền
lầu các, tùng già xanh um từ trên núi Thiên Phật in bóng xuống mặt hồ.
Vì đang là cuối thu nên lá đỏ đầy núi, nước hồ lại xanh biếc trông cứ
giống như một bức tranh. Kim Trục Lưu vừa chậm rãi chèo thuyền vừa ngắm
cảnh. Lúc này trong hồ vắng lặng chỉ còn một mình chàng.
Kim
Trục Lưu đang ngồi dựa trên thuyền chợt nghe tiếng mái chèo khua nước,
một chiếc thuyền buồm nhỏ phóng nhanh tới, lướt qua chàng. Kim Trục Lưu
liếc mắt nhìn, trên khoang thuyền thấp thoáng có một bóng người quen
thuộc, sau khi chiếc thuyền vượt qua, chàng mới nhớ rằng kẻ ấy chính là
Cung Bỉnh Phan. Con thuyền nhỏ của Cung Bỉnh Phan chạy như bay, trong
chớp mắt đã tiến về phía trước, y đang xoay lưng về phía Kim Trục Lưu,
Kim Trục Lưu thấy y, nhưng y không thấy chàng.
Hơn một tháng
nay, Kim Trục Lưu đã gặp rất nhiều cao thủ giang hồ, Cung Bỉnh Phan tuy
chỉ là một hương chủ trong Hồng Anh hội, nhưng luận về bản lĩnh thực sự, y hầu như chẳng kém gì Văn Đạo Trang. Kiếm thuật của y rất tinh diệu,
điều đó khiến cho chàng phải có mấy phần khâm phục.
Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Không biết Cung Bỉnh Phan đến đây làm gì? Bọn chúng luôn dòm ngó tảng huyền thiết của Lục Hợp bang, chả lẽ đã dò hỏi được tung tích
của mình cho nên đuổi theo đến đây? Tại sao chỉ có một mình y? Trong
cuộc tỉ kiếm ngày hôm đó, y tuy thua mình một chiêu, nhưng cũng là cao
thủ kiếm thuật hiếm có. Danh tiếng của Hồng Anh hội trên giang hồ không
xấu lắm, nếu y chịu bỏ địch thành bạn, mình cũng có thể kết giao với y”.
Kim Trục Lưu chèo thuyền vào bờ, nhưng lại không thấy bóng dáng Cung Bỉnh Phan đâu. Chàng chậm rãi dạo bước ven hồ, khi đến trước đình
Lệ Hạ, trong đình có treo đôi vế đối, về đối viết rằng: “Hải thử đình
cổ, Tế Nam danh sĩ đa”. (Đình này Hải Hữu cổ Danh sĩ Tế Nam nhiều). Đây
là hai câu thơ trong bài “Bồi Lý Bắc Hải yến Lệ Hạ đình” của thi thánh
Đỗ Phủ thời Đường, người địa phương cảm thấy hai câu thơ này rất hợp cho nên đã lấy ra làm câu đối ở đình Lệ Hạ.
Đình Lệ Hạ là thắng
cảnh nổi tiếng của Tế Nam, du khách đến đây đều thích ngồi nghỉ ngơi
trong đình, uống trà được pha bởi nước suối Báo Tuyền, thưởng thức cảnh
đẹp của hồ Đại Minh. Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Nếu gặp Cung Bỉnh Phan thì
sẽ đấu kiếm với y lần nữa, nếu không gặp thì mình sẽ tiếp tục du ngoạn”. Du sơn ngoạn thủy và tỉ võ đấu kiếm đều là chuyện Kim Trục Lưu thích,
thế là chàng tạm dừng chân trong đình.
Chợt nghe tiếng gõ lóc
cóc vang lên, té ra có hai cha con người làm nghề kể chuyện sách (thuyết thư) bước tới. Hai người bày bàn sách bên cạnh đình, gõ trống gọi người nghe. Kim Trục Lưu đang rảnh rỗi, vì thế cũng kéo tới nghe kể chuyện
sách. Người kể chuyện sách là một cô gái khoảng mười bảy tuổi, ăn mặc
trông rất giản dị. Vừa nhìn tựa như nàng rất yếu đuối, nhưng ở giữa chân mày có một luồng anh khí. Còn người gảy đàn là một ông già mặt rỗ,
trông rất xấu xí. Vài thiếu niên trong đám đông cười rằng: “Không ngờ
quạ mà cũng sinh ra phượng hoàng”.
Mọi người chỉ để ý nét đẹp
xấu của hai cha con, nhưng Kim Trục Lưu thì thầm thất kinh: “Hai cha con nhà này chắc chắn đã luyện võ công, xem ra ông già là một cao thủ nội
gia!”
Hai cha con tựa như không hề nghe thấy lời châm chọc của
bọn người đứng bên ngoài, ông già sửa dây đàn rồi nói: “Đa tạ các vị đã
đến xem, tôi sẽ bảo ả nha đầu kể dâng lên cho các vị hai đoạn sách, nếu
không hay, xin mọi người bỏ quá cho”. Một thiếu niên lanh miệng nói: “Mỹ nhân đã kể chắc chắn sẽ rất hay”.
Ông già ôm quyền vái dài nói: “Nếu các vị thấy hay, xin hãy ban thưởng cho chút ít”. Thế rồi liền cầm cây đàn lên bắt đầu gảy, còn cô gái thì vỗ phách khe khẽ hát, giọng hát của nàng nghe trong trẻo dịu dàng, lúc khoan lúc nhặt. Người xung quanh ai nấy đều ngẩn cả ra, cả những thiếu niên lên tiếng bông đùa lúc nãy
cũng phải nín thở, tựa như sợ để sót tiếng nào của nàng.
Chợt
tiếng ca dừng lại. Một lát sau mọi người mới kêu bật lên “hay!” Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Người ta nói lối hát lê hoa miền Tế Nam là nhất tuyệt
trong khúc nghệ, quả nhiên danh đồn không ngoa”.
Ông già ấy bỏ
mũ xuống đang định xin tiền thưởng, chợt có người kêu lớn: “Hay, hát rất hay! Ngươi không cần xin tiền ở đây, hãy dắt con gái ngươi đến phủ của
bọn ta, hát cho ‘công tử gia’ bọn ta nghe. Nếu ‘công tử gia’ thích đảm
bảo suốt đời ngươi ăn không hết”.
Ông già ấy mặt biến sắc, trả
lời: “Tôi và ‘công tử gia’ của các ngài không quen biết nhau, không dám
đến phủ nhận thưởng”. Kẻ ấy cười ha hả: “Các người đến rồi sẽ quen biết
ngay. Hì hì, ngươi không quen biết ‘công tử gia’ của bọn ta, nhưng ‘công tử gia’ đã biết con gái của ngươi từ lâu!”
Kim Trục Lưu nhìn
lại, chỉ thấy người đang nói chuyện là một hán tử to béo, trông giống
như một giáo đầu, phía sau là bảy tám đại hán. Kim Trục Lưu thầm nhủ:
“Chắc là gia nô của một tên ác bá nào đó, để xem hai cha con nhà này sẽ
đối phó thếnào”.
Bọn người này kéo tới, đám người nghe chuyện
đều bỏ chạy cả, chỉ còn lại vài người đứng nhìn từ xa, tựa như đang chờ
xem vở tuồng hay. Có kẻ còn nói với tới: “Công tử gia họ Trương đã thích con gái của ông, ông đã may mắn lắm rồi còn gì!” Kim Trục Lưu biết
không cần mình ra tay, nhưng thấy đám ác nô này ngang tàng, có ý muốn
trêu đùa bọn chúng, chàng liền lấy một nén vàng ném tới, hán tử ấy đưa
mũ ra tiếp lấy, trong lòng rất ngạc nhiên, nhưng vẫn hờ hững nói một
tiếng “đa tạ”, tựa như chẳng hề để ý đến nén vàng.
Hán tử ấy
không động thanh sắc, nhưng tên giáo đầu nọ thì đùng đùng nổi giận: “Hảo tiểu tử, ngươi dám đem tiền ra dối chọi với công tử nhà ta?”
Kim Trục Lưu đáp: “Không dám, tôi chỉ là một kẻ nghèo hèn, nào dám lấy mắt
chó mà coi thường người! Lúc nãy tên giáo đầu ấy đã nghênh ngang lên
tiếng, cho nên Kim Trục Lưu mới mỉa mai y như thế.
Thế là y liền nổi giận phóng về phía Kim Trục Lưu. Kim Trục Lưu xua tay nói: “Ôi chao! Ta không biết đánh nhau”.
Thiếu nữ kể chuyện sách lúc nãy đứng chặn giữa hai người, can: “Tiểu nữ sẽ
theo ngài về bái kiến ‘công tử gia’ là được, ngài đừng trút giận sang
người khác?”
Giáo đầu ấy đang nóng lòng đắt thiếu nữ đi, cho nên chỉ trừng mắt nhìn Kim Trục Lưu rồi bảo: “Được, cô nương đã nói giúp,
ta tha cho ngươi, đi thôi!” Rồi kéo tay nàng ta.
Thiếu nữ ấy
vùng lại: “Sao lại lôi kéo như thế, ngươi tưởng ta là ai? Ta không đi!”
Lúc này nàng vẫn cầm cái dùi gõ, nàng chỉ gõ nhẹ tên giáo đầu đã cánh
tay tay phải tê rần. Y cả kinh, lúc này mới biết nàng ta thân mang tuyệt kỹ, lập tức tay trái chụp tới, chân lại bồi thêm một đòn Tảo đường
thoái.
Thiếu nữ ấy nhíu mày: “Ta ghét nhất hạng nô tài ỷ thế
hiếp người!” Nói chưa dứt, nàng đã lách người qua, còn tên giáo đầu chợt cảm thấy cổ đau nhói, té ra nàng đã tóm cổ y nhấc bổng lên rồi ném mạnh ra xa.
Nàng chỉ ném một mình tên giáo đầu nhưng lại có thêm năm sáu người ngã xuống.
Té ra nàng ta ném y về phía những kẻ vô lại đang đứng xem, thế là cả bọn
va vào nhau té sầm xuống. Kim Trục Lưu vỗ tay cười ha hả.
Bọn vô lại này vốn chỉ đứng cách đó mười trượng. Còn thiếu nữ ấy nhấc một hán
tử nặng hơn trăm cân ném tới mà có thể khiến cả bọn ngã lăn, bọn ác nô
thấy thế đều hồn phiêu phách tán, chỉ đành co giò chạy mất.
Kim
Trục Lưu tuy đã thấy khác lạ, nhưng không ngờ võ công của nàng lại cao
cường đến thế. Lòng thầm nhủ: “Tiểu cô nương còn trẻ tuổi mà công phu
ngoại gia đã luyện đến mức đó thật là hiếm có”.
Thiếu nữ kêu:
“Cha, chúng ta không thể tùy tiện lấy của người khác”. Thế rồi cầm ném
vàng định trả lại cho Kim Trục Lưu. Ông già ấy thì lo lắng bảo: “Nha
đầu, con đã gây ra họa lớn, chạy mau, chạy mau!”
Thiếu nữ ấy bĩu môi: “Chẳng qua chỉ đắc tội với một tên ác bá thổ hào, sợ cái gì?” Ông
già nói: “Ôi, con quả thật chẳng biết trời cao đất dày, con trả nén bạc
lại cho công tử này rồi chúng ta chạy mau!”
Thiếu nữ thấy cha
mình lo lắng như thế, lòng thầm nhủ: “Cha đã đi khắp đại nam giang bắc,
không biết đã gặp bao nhiêu người, chưa bao giờ thấy người hoảng sợ như
hôm nay. Chả lẽ tên ác bá ấy có tài cán gì” Trong lòng lo lắng không
yên, nhưng cũng ném trả nén vàng cho Kim Trục Lưu.
Ông già ấy
quay đầu lại nói: “Đa tạ tướng công ban thưởng hậu hĩnh, cha con chúng
tôi xin lãnh nhận. Tướng công cũng chạy cho mau để khỏi bị liên lụy”.
Ông ta miệng thì nói chân bước không ngừng, tựa như sợ chỉ muộn một chốc thì họa lớn sẽ giáng xuống.
Kim Trục Lưu vẫn cảm thấy ngạc
nhiên, lòng thầm nhủ: “Nàng ta có bản lĩnh như thế, ông già chắc chắn
còn ghê gớm hơn. Tại sao lại hoảng sợ?”
Nghị chưa dứt, ba thớt
ngựa đã phóng tới, hai cha con người nọ vừa mới chạy đến ven hồ, thuyền
gia trong hồ thấy có ba người chạy đến thì vội vàng đẩy thuyền ra, không dám chở hai cha con nhà này. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh,
chỉ thấy ba người ấy nhảy xuống ngựa chạy đến chặn ngang đầu hai cha
con.
Đi phía trước là một người trẻ tuổi khoảng hơn hai mươi,
mặt như hoa phấn, trêntay cầm một cây quạt xếp màu trắng, có dáng rất
phong lưu nho nhã. Phía sau lưng y là có hai người một cao một thấp,
người cao có thân hình khôi ngô, đầu trọc lóc láng bóng, kẻ ấy hừ một
tiếng rồi nói: “Ồ, té ra là Hà lão đại”. Kẻ thấp thì hai mắt sáng quắc,
hai thái dương nhô lên, trong eo cắm một đôi phán quan bút, vừa nhìn thì đã biết đó là cao thủ nội gia. Y không lên tiếng, chỉ liếc nhìn hai cha con nhà này.
Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Chắc là gã thiếu niên mặt
hoa da phấn kia là ‘công tử gia’. Xem ra hai tên bảo tiêu của y công lực không tệ”. Lúc này Kim Trục Lưu mới biết mình đã quá khinh địch, thế là chàng giả vờ chậm rãi bước tới.
Chỉ thấy ‘công tử gia” ấy chặn
thiếu nữ, phe phẩy chiếc quạt rồi mỉm cười: “Tại hạ ngưỡng mộ cô nương
tài sắc song toàn, sai người nhà đến mời, không ngờ bọn nô tài lại không biết nói chuyện đã đắc tội với cô nương. Tại hạ xin lỗi cô nương”.
Thiếu nữ nhận một vái của y nhưng cũng không trả lễ, nàng nghiêm mặt: “Cha
con bọn ta mãi nghệ kiếm cơm trên giang hồ, nhưng không thấp hèn đến nỗi bợ đỡ nhà giàu có, ngươi mời cũng được, ép cũng được ta không đi! Cút
đi cho ta!” “công tử gia” ấy nhướng mày, tựa như nổi giận, nhưng vẫn mỉm cười: “Cô nương đã nặng lời, tại hạ chỉ đến mời cô nương, nào dám coi
cô nương là nghệ nhân thấp hèn”.
Thiếu nữ ấy gằn giọng: “Ngươi đã nói xong chưa, ta không rảnh đôi co với ngươi!”
“Công tử gia” ấy không xuống thang được, cười lạnh lùng: “Cô nương không nể
mặt đến thế sao? Xin lỗi, cô nương không muốn đi cũng phải đi!” Rồi đưa
tay kéo thiếu nữ liền.
Nàng ta trợn mắt, mắng: “Buông tay! Được, ta phải coi ngươi có bản lĩnh gì!”
Thế rồi hai ngón tay kẹp cái đùi trống, gõ vào hổ khẩu của tên “công tử
gia” ấy. Trong khoảnh khắc, có hai người đồng thời kêu lên: “Công tử,
cẩn thận!”, “Phượng nhi cẩn thận!” Một người là đại hán đầu trọc, người
kia là ông già.
Nói chưa dứt lời, chỉ nghe tên “công tử gia” hừ
một tiếng: “Kẻ tiểu nhân không biết cao thấp!” Rồi cây quạt xếp mở ra,
chặn cây dùi trống của thiếu nữ lại. Cái dùi trống tuy không phải là
loại vũ khí sắc bén, lẽ ra đã đâm vào cái quạt.
Nhưng thật kỳ lạ, chỉ nghe bốp một tiếng, không những cái quạt không bị rách mà trái lại cái đùi trong tay thiếu nữ vuột ra?
Kẻ thấp lùn nói: “Đừng lo, ả này không phải là đối thủ của ‘công tử gia’ chúng ta”.
Kim Trục Lưu lúc này mới thất kinh, bản lĩnh của tên “công tử gia” này tuy
chẳng cao minh gì, nhưng cũng đủ khiến cho chàng bất ngờ.
“Công
tử gia” đánh một chiêu đắc thủ, cười ha hả: “Cô nương, ta khuyên cô
nương đừng rượu mời không uống mà uống rượu phạt, chi bằng hãy theo ta!”
Miệng đang nói thì đã giơ cao cây quạt xếp trong tay, hai ngón
kẹp cánh quạt, bắt chước theo thủ pháp dùng dùi của thiếu nữ ấy, gõ đầu
quạt vào hổ khẩu của nàng. Hà lão đại tuy biết rõ không đánh lại ba
người, nhưng cũng đành phải liều, khi “công tử gia” gõ đầu quạt xuống,
Hà lão đại quát lớn: “Sao lại có kiểu mời khách ngang ngược đến thế?”
Thế là năm ngón tay tóm vào đầu quạt của “công tử gia”, “công tử gia”
dùng lực giật lại, bốp một tiếng, cái quạt xếp gãy làm đôi.
“Công tử gia” này cũng rất ghê gớm, cái quạt đã bị giật mất, lập tức trở tay
đánh ra một chưởng. Lực đạo của chưởng này quả thật không yếu, chỉ nghe
chưởng phong vù vù.
Hai chưởng giao nhau, “công tử gia” chỉ cảm
thấy mình tựa như đánh vào một khối bông. Chợt nghe có người kêu lên
thất thanh: “Không xong!” Nói chưa dứt lời, chỉ nghe rắc một tiếng, cánh tay trái của “công tử gia” đã bị Hà lão đại vặn trật khớp. Té ra Hà lão dại biết rõ địch mạnh ta yếu, muốn thoát hiểm thì phải bắt tên “công tử gia” này làm con tin. Tên “công tử gia” có võ công không kém, nếu Hà
lão đại liều đánh tới thì e rằng phải đến hai ba mươi chiêu mới thắng
được y. Trước đó bảo tiêu của y thấy tiểu chủ nhân địch không lại sẽ
chạy tới giúp đỡ.
Hà lão đại trong lúc gấp gáp đã dùng kế, khi
hai chưởng giao nhau, y thu lại toàn bộ kình lực, đến khi đối phương dồn xong lực đạo ra mới đột nhiên phát chân lực, vặn cánh tay của đối
phương, “công tử gia” này vốn võ công rất cao cường nhưng thiếu kinh
nghiệm đối địch, mà chiêu này của Hà lão đại lại rất khéo léo cho nên
không xoay sở được.
Hà lão đại đánh ra một chiêu đắc thủ, trong
lòng cả mừng, lướt người lên đánh tiếp ra một chiêu Đại cầm nả thủ, chỉ
cần y tóm được xương tỳ bà của “công tử gia”, “công tử gia” sẽ không
thoát khỏi bàn tay của y.
Nào ngờ động tác của Hà lão đại tuy
cực nhanh, nhưng cũng chậm một bước, khi ngón tay của y chạm vào vai của “công từ gia”, đột nhiên một nguồn lực đạo đẩy ra, buộc Hà lão đại phải biến chưởng chống đỡ, trong lúc đó “công tử gia” đã được người ta kéo
ra.
Kẻ buộc Hà lão đại phải thối lui chính là hán tử đầu trọc
cao lớn, Hà lão đại liên tục dùng ba chiêu Phất vân thủ, ý đồ muốn lấy
nhu khắc cương, nhưng không ngờ lại không làm gì được. Chưởng lực của
đối phương như dời núi lấp biển dồn tới, Phất vân thủ của y đã áp dụng
theo tự quyết chữ “ngự”, nhưng vẫn không thể nào hóa giải cho nên chỉ
đành chống đỡ mà thôi.
Kim Trục Lưu thông hiểu võ công của các
môn các phái, thấy vài chiêu thì trong lòng đã cả kinh. Té ra hán tử đầu trọc này đã sử dụng công phu Đại lực kim cương chưởng của phái Thiếu
Lâm. Đại lực kim cương chưởng là loại chưởng lực uy mãnh nhất trong
thiên hạ, tuy trong võ học có nói rằng lấy nhu khắc cương, nhưng điều đó chỉ có hiệu quả khi hai bên có công lực tương đương nhau, còn bây giờ
thì công lực của Hà lão đại rõ ràng kém xa đối phương, làm sao có thể
hóa giải được? Người đã kéo công tử gia ra là tên lùn có đôi mắt sáng
quắc, thủ pháp nối xương của y rất thuần thục, trong chớp mắt đã tiếp
lại chỗ trật cho “công tử gia”. Lúc này y mới dám thỉnh tội với “công tử gia”. Té ra bọn chúng biết gã công tử này rất háo thắng, tin rằng khi y gặp nguy hiểm có thể giải cứu được. Nhưng không ngờ Hà lão đại lại đánh hở ra một chiêu, tuy cứu được y nhưng y đã bị thiệt thòi.
Sau
khi được nối xương xong, gã công tử nổi giận đùng đùng quát lên: “Không
bắt được ả nha đầu nhà ngươi, khó giải được mối hận trong lòng ta!” Tên
lùn biết võ công của gã công tử hơn hẳn nàng thiếu nữ, còn Hà lão đại
thì phải chống đỡ những đòn tấn công ác liệt của đồng bọn mình, không
thể nào giúp được con mình cho nên mới yên tâm để cho y tới đấu với
nàng.
Bọn họ đều là nhân vật có tên tuổi trên giang hồ, tuy làm
bảo tiêu cho chốn hào môn nhưng vẫn giữ thân phận của mình, nếu không
bất đắc dĩ thì không bao giờ lấy mạnh hiếp yếu, ỷ đông hiếp ít.
Nàng thiếu nữ ấy đang lo cho cha mình, chỉ hận không thể nào xông vào giúp
cha, gã công tử ấy đã phóng về phía nàng. Nàng ta cả giận, rút soạt một
thanh liễu diệp đao, quát lớn: “Hay lắm, các người ỷ thế hiếp người, ta
sẽ chém chân chó của người!’
Gã công tử lật cổ tay lại, chẳng
thèm để ý đến thanh liễu diệp đao rồi y lướt người lên, tóm vào hổ khẩu
của nàng ta, nàng ta chém hụt một đao, cổ tay suýt tý nữa đã bị y tóm
lấy.
Y ra tay thì thắng được một chiêu, lửa giận trong lòng đã
giảm bớt, cười ha hả: “Tiểu nương tử, nàng đã nói sai rồi. Chúng ta một
địch một, sao lại nói là ỷ thế hiếp người? Ha ha, còn ta, thì tay không
đấu với đao của nàng kia mà!”
Nàng thiếu nữ tức tối nhưng không
lên tiếng. Chỉ thấy nàng nghiến răng xông về phía y, đáng tiếc võ công
của nàng rốt cuộc kém y rất xa, nàng triển khai Bạt phong đao pháp, tuy
chiêu nào cũng hiểm hóc nhưng chẳng làm gì được đối phương, được khoảng
mười mấy chiêu thì đã rơi vào nguy hiểm. May mà gã công tử vừa mới được
tiếp xương, chỉ có thể dùng một cánh tay, nếu không nàng càng khó chống
đỡ.
Hà lão đại thấy con gái gặp nguy hiểm, lòng lo như lửa đốt,
nhưng bị luồng chưởng lực của đối phương bao trùm, muốn thoát cũng khó,
làm sao có thể cứu được con mình? Trong lòng đang lo cho nên chiêu số
của y đã bắt đầu rối loạn.
Kim Trục Lưu nghĩ thầm: “Đã đến lúc!” Đang định bước tới, chợt thấy một người quen mặt chạy như bay tới phía
trước, cười ha hả nói: “Bành trại chủ, sao hôm nay có hứng đánh nhau với người ta thế?” Người đó chính là Cung Bỉnh Phan. Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Để coi tên họ Cung này giúp bên nào”.
Hà lão đại nghe giọng
nói của Cung Bỉnh Phan như sấm rền bên tai, rõ ràng là một cao thủ nội
gia, thế là thất kính thầm nhủ: “Người này quen biết với bọn chúng, y
đến nói không chừng là giúp bọn chúng. Hỏng bét, hỏng bét! Hôm nay cha
con mình chỉ e mọc cánh cũng khó thoát”. Nào ngờ hán tử đầu trọc đang
giao thủ với y càng thất kinh hơn, mặt nở nụ cười lúng túng: “Cung hương chủ, ngọn gió nào đã thổi ông đến đây? Ông hãy nghỉ ngơi một lát, tiểu
đệ sẽ nói chuyện với ông”.
Cung Bỉnh Phan cười cười: “Ông cũng
biết ta rất nóng nảy ư? Nếu không mở cái hồ lô này ra, ta không thể ngồi nghỉ ngơi được!” Miệng thì nói, nhưng mắt lại nhìn về phía tên lùn.
Tên lùn ấy thản nhiên: “Cung hương chủ, tôi khuyên ông đừng quản chuyện bao đồng”. Cung Bỉnh Phan cười đáp: “Té ra Liên trại chủ cũng ở đây, thật
may mắn. Sao, ta không được quản chuyện này ư? Nhưng rốt cuộc chuyện này thế nào, ông cũng phải cho ta biết chứ!” Tên lùn đáp: “Ta nói ông không quản thì không quản! Nếu ông muốn biết thì đợi đánh xong ta sẽ mời ông
uống rượu”.
Cung Bỉnh Phan nói: “Uống rượu thì không gấp, nhưng
chuyện trước mắt thì không thể chờ được. Đến khi các người đánh xong,
tiểu cô nương này có lẽ đã thiệtto!”
Kim Trục Lưu nghe khẩu khí
của Cung Bỉnh Phan, lòng thầm mừng, nghĩ bụng: “Có tên họ Cung này ra
tay, có lẽ không cần đến mình nữa. Nghe y nói như thế, hình như hai
người này đều là trại chủ, nhưng cũng hơi kỳ là. Nếu bọn này đã có vai
vế trong chốn lục lâm, sao lại chịu cam lòng làm ưng khuyển cho chốn hào môn?” Tên lùn nghe mấy câu nói của Cung Bỉnh Phan thì đứng phắt dậy,
nhíu mày trợn mắt: “Cung hương chủ, ông muốn thế nào đây?”
Cung
Bỉnh Phan cười gần: “Hừ, các người không nói thì ta làm sao biết? Nhưng
ta muốn các người phải nói. Hai cha con nhà này đã có lỗi gì với các
người? Hãy nói ra ta nghe thử, nếu không…”
Hán tử ấy quát: “Nếu không thì thế nào?”
Cung Bỉnh Phan lập tức trả lời: “Nếu không ta nhất định phải xen vào chuyện này”.
Vì Cung Bỉnh Phan xuất hiện cho nên gã đầu trọc họ Bành rối bời trong
lòng, cho nên Hà lão đại đã giành lại chủ động. Gã công tử cũng phân
tâm, vốn là gã có thể tóm được nàng thiếu nữ, chỉ hơi phân thần thì đã
bị nàng ta né tránh.
Hai người Liên, Bành biết lai lịch của Cung Bỉnh Phan cho nên không thể không e ngại y, dù gã lùn họ Liên ngang
ngược nhưng cũng không dám quá phóng túng. Gã công tử thì nén không được nữa, ngoác miệng mắng: “Ngươi là cái thứ gì mà quản chuyện của bổn công tử? Liên sư phụ, bắt y lại!”
Tên đầu trọc họ Bành vội vàng nháy mắt với tên lùn họ Liên, nói: “Công tử không biết đó thôi, Cung tiên
sinh là hương chủ của Hồng Anh hội, hì hì, đều là người cùng một đạo
cả!”
Cung Bỉnh Phan cười lạnh: “Người cùng một đạo cái gì, ta
đâu dám trèo cao! Hì hì, nghe nói hai người đã làm bảo tiêu cho nhà họ
Tào, nay đã hưởng công danh phú quý! Đây chắc là Tào công tử? Trông rất
oai phong! Liên trại chủ, ‘công tử gia’ đã có lệnh, ngươi hãy mau đến
bắt ta?”
Sắc mặt hai người Liên, Bành lúc đỏ lúc xanh, số là hán tử đầu trọc tên gọi Bành Cự Vinh, hán tử lùn tên gọi Liên Thành Hổ đều
là chủ của sơn trại độc bá một phương.
Gã công tử không biết sự
lợi hại của Cung Bỉnh Phan, cả giận quát: “Hồng Anh hội là cái thứ gì,
chỉ là một bang hội nhỏ bé trên giang hồ mà dám hù dọa ta, được lắm,
ngươi đã dám làm càn trước mặt ta, ta phải lấy đầu ngươi trước!” Y đang
bực dọc vì Liên Thành Hổ không đến bắt người, liền vỗ một chưởng đẩy
nàng thiếu nữ ra, còn mình chạy đến đánh Cung Bỉnh Phan.
Cung
Bỉnh Phan cười lạnh: “Không cần công tử phải nhọc lòng, công tử muốn lấy đầu tôi phải không? Thì đây cứ lấy!” Y chưa nói dứt lời thì gã công tử
đã phóng về phía y, Liên Thành Hổ vội vàng kêu lên: “Công tử, đừng!”
Chỉ nghe vù một tiếng, một cái mũ đột nhiên từ tay Cung Bỉnh Phan bay ra,
té ra y đã lột mũ trên đầu làm ám khí đánh ra. Cũng trong lúc này, một
mũi phi đao từ trong tay Liên Thành Hổ cũng phóng tới.
Kình
phong lướt qua mặt, gã công tử cả kinh, vội vàng cúi đầu. Chỉ nghe soạt
một tiếng, chiếc mũ đã bị phi đao của Liên Thành Hổ chém đứt thành hai
phần.
Nhưng phi đao cũng bị chiếc mũ táng trúng mất hướng bay
xéo ra, rơi xuống cùng với hai mảnh mũ. Dùng một chiếc mũ mà có thể đánh rơi phi đao, tuy chiếc mũ đã bị phi đao chém làm đôi, nhưng rõ ràng
công lực của Cung Bỉnh Phan hơn hẳn Liên Thành Hổ.
Điều khiến
người ta thất kinh hơn là sau khi gã công tử kinh hoảng, chợt thấy da
đầu mình mát rượi, đưa tay lên sờ thì mới biết một mảng tóc đã bị chiếc
mũ hớt ngọt, lúc này tóc đang rơi xuống lả tả trước mặt y. Nếu không nhờ mũi phi đao của Liên Thành Hổ kịp thời đánh rơi chiếc mũ, hóa giải kình đạo của nó, chỉ e da đầu của y cũng bị gọt mất một lớp? Gã công tử kinh lại càng thêm kình, sợ đến nỗi hồn bay phách tán, vội vàng lui sang một bên.
Cung Bỉnh Phan cười ha hả: “Lão tổ tông Tào Mạnh Đức cửa
nhà họ Tào ngươi cạo tóc thay đầu, nay ta bắt chước lão tổ tông nhà
ngươi lấy mũ thay đầu, đáng tiếc ‘công tử gia’ nhà ngươi không lấy được
đầu ta!” Gã công tử lúc này làm sao dám lên tiếng?
Lúc này hai
bên đều đã ngửa bài, Liên Thành Hổ không thể nào xuống nước được. Y bèn
rút hai cây phán quan bút, hai bút gõ vào nhau, quát: “Họ Cung kia, ta
chỉ nể mặt Hồng Anh hội, không ngờ ngươi lại không biết điều, người
tưởng ta sợ ngươi đấy hử?”
Cung Bỉnh Phan cười lạnh: “Hay lắm, vậy chúng ta phải nói cho rõ ràng trước.
Chuyện hôm nay chẳng có liên quan gì đến Hồng Anh hội, chẳng qua họ Cung này
đi đường gặp chuyện bất bình, muốn tìm ngươi trút giận, ngươi muốn thế
nào?”
Liên Thành Hổ cả giận quát: “Cung Bỉnh Phan, ngươi…
ngươi hiếp người quá thể! Hay lắm, chúng ta sẽ tỉ thí, coi thử ai hơn
ai!” Nói chưa dứt lời thì chân đã đạp vào hồng môn, hai bước đâm mạnh
tới. Khi cao thủ tỉ thí, rất ít khi vừa mới ra tay thì đã tấn công từ
phía chính diện, Liên Thành Hổ rõ ràng muốn chọc giận Cung Bỉnh Phan cho nên mới làm thế.
Kiếm thuật của Cung Bỉnh Phan rất tinh diệu,
quát rằng: “Hay lắm!” Rồi đánh ra một chiêu Dạ chiến bát phương, kiếm
quang tỏa ra bốn phía. Y vốn tưởng rằng có thể đánh rơi đôi phán quan
bút của Liên Thành Hổ, nhưng sau một tràng tiếng leng keng vang lên, đôi phán quan bút của Liên Thành Hổ vẫn có thể thoát ra khỏi màn kiếm
quang.
Cung Bỉnh Phan giật mình thầm nhủ: “Chẳng trách nào thằng lùn này lại ngang ngược đến thế, thủ pháp điểm huyệt bằng phán quan bút của nhà họ Liên quả nhiên thiên hạ vô song!” Y biết công lực của mình
hơn đối phương, nhưng vì không hiểu thủ pháp điểm huyệt bằng phán quan
bút của đối phương cho nên chỉ đành cẩn thận, đánh ra đường kiếm pháp
trong công có thủ, tuy biết rất nhiều chiêu số sát thủ nhưng không dám
sử dụng. Kiếm pháp của Cung Bỉnh Phan là loại kiếm pháp thượng thừa hiếm thấy trên võ lâm, mà công lực lại hơn hẳn đối phương cho nên vẫn hơi
chiếm một chút thượng phong. Hai người vừa công vừa thủ với nhau, kiếm
quang bút ảnh hòa vào nhau, trong chớp mắt đã đánh đến ba mươi mấy
chiêu.
Kim Trục Lưu thấy bút pháp của Liên Thành Hổ, trong lòng
thầm thất kinh, “Bút pháp này rất quen thuộc, không biết đã thấy ở đâu
rồi?” chàng bất giác bước tới gần nhìn cho kỹ.
Xem một hồi, Kim
Trục Lưu thầm hiểu ra: “Té ra đây là loại bút pháp Tứ bút điểm bát mạch, song y chỉ có một đôi phán quan bút cho nên không sử dụng ra hết. Chả
trách nào mà mình chẳng nhận ra”.
Té ra vào hai mươi năm trước,
Kim Thế Di đã từng gặp một đôi anh em song sinh giỏi thuật điểm huyệt,
đó chính là Liên Thành Bích và Liên Thành Ngọc. Hai em bọn họ dùng bốn
cây phán quan bút phối hợp với nhau, có thể trong vòng một chiêu điểm
trúng kỳ kinh bát mạch của đối phương, lợi hại vô cùng. Lúc đầu Kim Thế
Di chẳng làm gì được họ, sau đó đã học được những chiêu số Tứ bút điểm
bát mạch của họ cho nên mới đánh bại được họ.
Còn Liên Thành Hổ
là đường đệ của họ, nhưng tuổi tác cách nhau rất xa, nếu hai đường huynh của y nay tuổi đã lục tuần, y vẫn chưa đến bốn mươi tuổi. Sau khi bị
Kim Thế Di đánh bại, Liên Thành Bích, Liên Thành Ngọc đã sớm phong bút
đóng cửa. Trong số các con em nhà họ Liên chỉ có Liên Thành Hổ học được
tuyệt kỹ gia truyền. Nhưng không có ai phối hợp cùng y, y chỉ đành dùng
hai bút điểm tứ mạch. Kim Trục Lưu đã được cha giảng giải, tuy chưa giỏi công phu Tứ bút điểm bát mạch, nhưng cũng hiểu sự ảo diệu của nó. Cho
nên chàng nhận ra không ít sơ hở trong lối đánh bút của Liên Thành Hổ.
Nhưng chàng cũng chưa từng học một vài biến hóa tinh diệu, lúc này nhìn
kỹ lại mới hiểu.
Kim Trục Lưu nhìn rất rõ ràng, chàng bất giác
càng bước càng tới gần. Liên Thành Hổ, Bành Cự Vinh không biết chàng là
ai, cứ nghĩ rằng đó là một thiếu niên lớn gan và tò mò mà thôi cho nên
chẳng hề để ý. Cung Bỉnh Phan đã thấy chàng, lại không khỏi thất kinh,
lòng thầm nhủ: “Nếu tên tiểu tử này nhớ thù lúc trước, đến tìm mình thì
thật hỏng bét!”
Bản lĩnh của Bành Cự Vinh hơn hẳn Hà so đại, lúc đầu y còn sợ Cung Bỉnh Phan sẽ nhúng tay vào cho nên lòng dạ không yên. Những lúc này hai bên đã ngửa bài cho nên y cũng yên lòng, thầm nhủ:
“Nếu tên họ Cung này đã nói thế, mình chỉ đối địch với y, chắc là Hồng
Anh hội cũng không vì một hương chủ mà đến trả thù. Được lắm, mình đánh
bại y rồi tính tiếp”. Thế rồi chưởng lực liền đánh ra dồn dập, Hà lão
đại lập tức không chống đỡ nổi, binh một tiếng vang lên, y đã trúng một
chưởng, lập tức thối lùi ba thước, khóe miệng tươm máu. Nàng thiếu nữ
vội vàng bước lên đỡ cha mình, lo lắng hỏi: “Cha, cha có sao không?”
Hà lão đại thở phì phò: “Không sao! Phượng nhi, con chạy mau!” Y đã bị
Bành Cự Vinh đánh một chưởng rơi hai răng cửa, nhưng gã công tử thì đứng một bên lườm lườm, Hà lão đại sợ con gái bị y bắt, cho nên thúc nàng bỏ chạy.
Nàng thiếu nữ ấy lo lắng: “Còn cha thì sao?”
Hà
lão đại: “Nha đầu ngốc, sao cha có thể bỏ chạy?” Hà lão đại là người coi trọng đạo nghĩa giang hồ, Cung Bỉnh Phan không quen biết nhưng đã giúp
đỡ y, y nào có thể để một mình Cung Bỉnh Phan ở lại.
Tuy Hà lão
đại không bị trọng thương nhưng sau một hồi ác đấu, khí lực đã sắp hết, y thở phì phò định bước qua, vừa mới bước được một bước thì lại thở dốc.
Bành Cự Vinh đánh lui được Hà lão đại, chắc mẩm rằng sẽ bắt được cha con họ, thế rồi vung hai chưởng phóng về phía Cung Bỉnh Phan, cười lạnh
lẽo: “Tên họ Cung kia, ngươi có còn muốn lo chuyện bao đồng không?”
Cung Bỉnh Phan chíu mày: “Đừng nói nhiều, cứ xông lên đi!”
Bành Cự Vinh giận dữ: “Hay lắm, ngươi đã coi thường anh em ta đến thế, ta
đành giúp ngươi thỏa nguyện!” Tức thì một chưởng vẽ thành một đường vòng cung, chém vù tới.
Chưởng này chính là tinh hoa của Đại lực kim cương chưởng, khi chưởng lực đồn tới, kiếm quang tản mát, cây phán quan bút của Liên Thành Hổ thừa cơ đâm vào mặt của Cung Bỉnh Phan.
Cung Bỉnh Phan vội vàng hạ thấp người, thân người lắc lư như ngọn nến trong
gió. Chân cũng bước loạng choạng như kẻ say, chợt y quát lên: “Xem
kiếm!” Rồi y xoay người, kiếm quang đâm thẳng vào ngực Bành Cự Vinh,
Bành Cự Vinh tưởng rằng y không chống đỡ nổi, không ngờ kiếm pháp của y
lại kỳ quặc, đột nhiên đâm tới, không kịp đề phòng suýt nữa đã bị y đâm
trúng.
Bành Cự Vinh phất ống tay áo kêu soạt một tiếng, ống tay
áo đã bị cắt mất một mảnh, Bành Cự Vinh thối lui hai bước, lúc này mới
đủ chỗ phát Đại lực kim cương chưởng đẩy lùi Cung Bỉnh Phan.
Té
ra Cung Bỉnh Phan sử dụng kiếm pháp Túy bát tiên, trông dáng y lảo đảo
như muốn ngã xuống, nhưng thực sự là phối hợp với đường kiếm pháp này.
Chỉ thấy y chỉ đông đánh tây, bước chân loạng choạng, chẳng ra bài bản
gì cả, nhưng mỗi chiêu đều là kiếm thuật thượng thừa quỷ dị khó lường.
Song đối phương cũng là cao thủ, Cung Bỉnh Phan nhờ vào bộ kiếm pháp quỷ dị
có thể hù dọa được một lúc, nhưng rốt cuộc không thể chống cự được. Sau
hai ba mươi chiêu lại bị đối phương dồn vào nguy hiểm.
Hà lão
đại nghiến răng, liều mạng xông tới, thiếu nữ biết tính của cha, cho nên muốn ngăn cản cũng chẳng được, nàng liền nghiến răng, giơ cao thanh
liễu diệp đao, nói to: “Được, muốn chết thì cha con ta cùng chết!”
Bành Cự Vinh hừ một tiếng: “Bọn ngươi đã chán sống, đang vội gặp Diêm vương
ư? Đợi lát nữa ta sẽ gọi các ngươi”. Trong lúc kịch chiến với Cung Bỉnh
Phan, y tiện tay vỗ ra một chưởng về phía hai cha con Hà lão đại, Hà lão đại lại không khỏi loạng choạng thối lui mấy bước. May mà lần này Bành
Cự Vinh đang phân tâm đối phó với Cung Bỉnh Phan, cho nên đánh ra rất
nhẹ. Vì thế Hà lão đại mới không bị thương nữa.
Nhưng Hà lão đại cũng biết mình có lòng mà không có sức, chỉ đành thở dài mà thôi.
Gã công tử đã nhấp nhổm muốn nhảy tới, nhưng y đã từng biết di hại của Hà
lão đại, tuy lúc này đã thấy Hà lão đại đuối sức, trong lòng vẫn còn sợ
hãi, trong nhất thời không dám ra tay.
Hà lão đại nghĩ bụng:
“Người họ Cung này đã bênh vực mình, xem ra tính mạng khó giữ. Mình chỉ
có lòng mà không có lực, cũng khó giúp được y. Nếu y chết vì mình, mình
sẽ tự sát báo đáp”. Vì đó cầm cây đao trong tay, bàn lay run run.
Nàng thiếu nữ lại hỏi: “Cha, cha làm gì thế?” Thế rồi chụp lấy thanh đao trong tay của cha mình.
Cũng trong lúc này, chợt nghe một tràng cười ha hả vang lên. Kim Trục Lưu đã bước tới trước mặt cha con nàng, buông giọng cười về phía ba người đang kịch đấu!
Cha con Hà lão đại đều ngạc nhiên, lòng thầm nhủ:
“Chả lẽ người này đã nổi điên? Sao y lại lớn gan đến thế!” Nhưng vì Kim
Trục Lưu đến bất ngờ, Hà lão đại phân tâm, chỉ để ý đến chàng cho nên
nhất thời quên cả ý nghĩ tự sát.
Kim Trục Lưu cười ngặt nghẽo,
Hà lão đại ngạc nhiên thì thầm nói với con gái mình: “Thật kỳ lạ, người
này đứng gần như thế, chả lẽ không sợ Phách không chưởng lực của Bành Cự Vinh”.
Tiếng cười của Kim Trục Lưu nghe leng keng loảng xoảng,
đó là bởi vì chàng phát ra nội công thượng thừa, ba người đang kịch
chiến đều bị chàng quấy nhiễu tinh thần. Cung Bỉnh Phan không biết ý
chàng cho nên trong lòng cả kinh.
Liên Thành Hổ không chịu đựng được nữa, quát lớn: “Tên tiểu tử nhà ngươi cười cái gì?”
Kim Trục Lưu chỉ về y: “Đầu tiên là cười người!”
Liên Thành Hổ gầm lên: “Ta có gì để ngươi cười?”
Kim Trục Lưu cười ha hả: “Ta cười công phu Tứ bút điểm bát mạch của ngươi
chỉ có thể sử dụng được một nửa mà dám giở ra ở đây! Hỡi ơi, nhân tài
của nhà họ Liên thật hiếm hoi, đáng buồn, đáng buồn!”
Liên Thành Hổ cả kinh: “Tên tiểu tử này cũng biết công phu Tứ bút điểm bát mạch
của nhà mình?” Liền quát lớn: “Dù ta có sử dụng được một nửa, ngươi cũng không phá nổi, không tin ngươi cứ đến thử xem”.
Kim Trục Lưu: “Đừng vội, đừng vội, ta vẫn chưa nói hết”.
Bành Cự Vinh giật mình: “Ngươi còn cười ai?”
Kim Trục Lưu: ‘ “Người thứ hai ta cười là ngươi!”
Bành Cự Vinh trợn mắt: “Ngươi cười ta cái gì?”
Kim Trục Lưu nói “Cười Đại lực kim cương chưởng của ngươi hỏa hầu còn
thiếu, chỉ có thể gọi là Nê bồ tát chưởng. Thiếu Lâm tự có hạng đệ tử
như ngươi, Đạt Ma sư tổ cũng bị ngươi làm cho mất mặt!”
Đại lực
kim cương chưởng của Bành Cự Vinh thật ra là chân truyền của Thiếu Lâm
tự, từ ngày xuất đạo cho tới nay, gặp rất nhiều kẻ cường địch, đối
phương sử dụng binh khí, y đã từng thua vài trận, nhưng tỉ thí chưởng
lực thì chưa bao giờ thua ai. Y lâu nay vẫn luôn tự phụ Đại lực kim
cương chưởng của mình. Nay nghe Kim Trục Lưu mỉa mai Kim cương chưởng
của mình là Nê bồ tát chưởng, làm sao không nổi giận? Gầm lên: “Được,
ngươi bảo Đại lực kim cường chưởng của ta kém cỏi, ngươi cứ đến thử xem
sao!”
Kim Trục Lưu buông giọng cười lớn, nhảy vào vòng chiến: “‘Ngươi không tin ư? Ta đến đây!”
Bành Cự Vinh không biết Kim Trục Lưu đang cầm cái tráp đựng huyền thiết
trong ấy, chỉ thấy Kim Trục Lưu đẩy cái tráp về phía y thì lập tức quát
lớn vỗ tới một chưởng.
Đại lực kim cương chưởng của Bành Cự Vinh có thể làm vỡ đá nát bia, nghĩ bụng mặc kệ trong tráp có chứa thứ gì
cũng phải đánh vỡ nát.
Kim Trục Lưu cười rằng: “Cẩn thận, vật
này không thể chạm được!” Nói chưa dứt lời, “binh” một tiếng, Bành Cự
Vinh đã đánh xuống một chưởng, cái tráp của Khu Trục Lưu đã vỡ mất một
mặt, còn Bành Cự Vinh thì thê thảm hơn, lòng bàn tay nát bét máu thịt
bầy nhầy, xương tay hầu như gãy nát. Y thối lui đến sáu bảy bước, nhưng
miệng thì không kêu lên tiếng nào.
Kim Trục Lưu thầm nhủ: “Kẻ
này đánh phải huyền thiết mà vẫn không ngã, quả nhiên cũng có chút tài
cán. Nếu tỉ thí chưởng lực, chỉ e mình không phải là đối thủ của y”.
Nhưng Kim Trục Lưu có ý chọc giận y, chàng lập tức cười khảy: “Thế nào?
Ta đã bảo công phu của ngươi là Nê bồ tát chưởng mà ngươi vẫn không
tin!”
Bành Cự Vinh vừa lo vừa giận, cố nén đau quát: “Tên tiểu
tử nhà ngươi đã gạt ta, trong tráp chứa thứ gì? Nếu ngươi có bản lĩnh
thì có đám tiếp một chương của ta hay không?”
Kim Trục Lưu cười rộ: “Ta đã nhắc nhở ngươi, ai bảo ngươi cứ chạm vào tráp của ta?”
Bành Cự Vinh đỏ mặt tía tai, quát: “Đừng nói nhiều, ngươi có dám ườn với takhông?”
Kim Trục Lưu cười lớn nói: “Có gì mà không dám? Xem chưởng!” Rồi tỏ vẻ ngạo mạn, chẳng thèm nhìn tới đối phương, đánh xuống một chưởng. Bành Cự
Vinh tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, quát rằng “Hay lắm!” Rồi vung
chưởng vẽ thành một hình vòng cung đánh tới.
Bành Cự Vinh thấy
Kim Trục Lưu chỉ khoảng hai mươi tuổi, nghĩ chàng chỉ là một tên tiểu tử miệng còn hôi sữa, cho nên tuy chỉ còn một cánh tay trái nhưng chẳng hề coi Kim Trục Lưu ra gì.
Kim Trục Lưu cũng bắt chước giọng y nói: “Đến hay lắm!” Nhưng đột nhiên chàng không đánh chưởng tới mà thu ra phía sau.
Chưởng lực của Bành Cự Vinh dồn tới như đời núi lấp biển, định ngoác miệng
mắng, Kim Trực Lưu đã quát: “Cẩn thận”, lập tức chưởng lực đột nhiên
phát ra, chỉ nghe rắc một tiếng, cánh tay trái của Bành Cừ Vinh đã bị
gãy chỉ còn một khúc xương nối với vai, lúc này cánh tay đã từ từ xuôi
xuống.
Kim Trục Lưu tuy đã dùng kế, nhưng trong vòng ba thước mà không bị trúng chưởng lực của đối phương, vả lại khi trả một chưởng thì đã đánh gãy tay của Bành Cự Vinh, công lực như thế đủ khiến cho Liên
Thành Hổ thầm thất kinh.
Kim Trục Lưu cười hỏi: “Thế nào?” lúc
này Bành Cự Vinh đau đến nỗi toát mồ hôi lạnh, y phải lập tức nối xương
nếu không sẽ bị tàn phế. Y chỉ đành nghiến răng nén đau nối xương trước, không dám đấu khẩu với Kim Trục Lưu nữa.
Kim Trục Lưu nói: ”
Ngươi hãy yên tâm tự chữa trị, ta xưa nay không đánh chó đã rơi xuống
nước. Nói xong thì xoay người bước tới trước mặt Liên Thành Hổ: “Nay đến lượt tên lùn nhà ngươi! Cung đại ca, hãy nhường cho tôi”.
Cung
Bỉnh Phan lui qua một bên, Liên Thành Hổ quát: “Ngươi đã bảo sẽ phá Kinh thần bút pháp của ta!” Té ra bản lĩnh của Liên Thành Hổ tuy cao hơn
Bành Cự Vinh nhưng chỉ toàn nhờ vào đôi bút chứ công lực thì không cao
như Bành Cự Vinh. Y thấy Bành Cự Vinh đối chưởng bị thua, nào dám tỉ thí nội lực với Kim Trục Lưu, cho nên ý của y là chỉ muốn tỉ thí bút pháp
với Kim Trục Lưu. Kinh thần bút pháp là tên khác của Tứ bút điểm bát
mạch, Liên Thành Hổ chỉ có thể sử dụng hai bút điểm bốn mạch, cho nên
không tiện nói ra tên gốc của loại bút pháp này. Hà lão đại nén không
được, nói: “Trong tay người ta không có phán quan bút, làm sao tỉ thí
bút pháp với ngươi?” Kim Trục Lưu cười gằn: “Đừng lo, đừng lo. Không có
phán quan bút tôi vẫn có thể sử dụng công phu Tứ bút điểm bát mạch như
thường. Tôi đã nói là làm, nhất định lên lùn này sẽ phải thua tâm phục
khẩu phục!”
Liên Thành Hổ nghe như thế, làm sao có thể tin được? Trong lòng thầm nhủ: “Chả lẽ ngươi chỉ dùng đôi tay, dù có phán quan
bút, chỉ có một mình ngươi thì chẳng thể nào dùng Tứ bút điểm bát mạch”. Liền quát: “Được, ngươi phá thử xem!” Hai bút phân ra, bút trái điểm
vào huyệt kỳ môn, bút phải điểm vào huyệt huyết hải.
Kim Trục
Lưu khép ngón tay lại, lướt người tiến lên trong màn bút ảnh của đối
phương, trả lại một chiêu Khấp quỷ kinh thần, tay trái điểm vào huyệt
thiên đột của Liên Thành Hổ, tay phải điểm vào huyệt dương bạch, chàng
dùng ngón tay thay bút, quả nhiên đã sử dụng Kinh thần bút pháp của Liên gia, vả lại chiêu này cũng là khắc tinh của Liên Thành Hổ.
Liên Thành Hổ hoảng hồn: “Tên tiểu tử này quả nhiên quái dị!” Rồi vội vàng
thối lui, mau chóng biến chiêu. Kim Trục Lưu lướt người lên, chưởng chỉ
tung bay, trong vòng một chiêu đã liên tục điểm vào tám huyệt đạo trên
hai mạch Nhâm Đốc của đối phương, khiến cho Liên Thành Hổ chỉ đành chống đỡ.
Kim Trục Lưu vừa đánh vừa giảng, không ngừng chỉ ra sơ hở
của đối phương. “Chiêu Phân hoa phất liễu của ngươi sử dụng chưa đến
nơi, chiêu số gốc tuy là bút phải nặng, bút trái nhẹ, nhưng đối phương
tấn công tay phải của ngươi, lẽ ra ngươi phải đánh trái nặng phải nhẹ
mới đúng! Đối địch hay ở chỗ là phải nhìn thấy thời cơ, sao có thể cứng
nhắc như thế?” Hì hì, chiêu Tam hoa tụ đỉnh của ngươi lại không đúng Tam hoa tụ đỉnh, lẽ ra phải điểm vào huyệt hoa cái, thái dương và thiên
linh ở trên đỉnh đầu, sao ngươi lại điểm bừa bãi như thế!” Chàng chỉ nói những bí quyết của Kinh thần bút phán.
Những điều Kim Trục Lưu
nói ra lúc nãy quả thật là những sơ hở Liên Thành Hổ chưa từng nghĩ tới, có điều y cũng biết phải làm thế nhưng lại không đủ sức. Ví dụ như
trong chiêu Tam hoa tụ đỉnh, y biết phải điểm vào huyệt hoa cái, thái
dương và thiên linh của đối phương, nhưng muốn điểm vào ba huyệt này thì phải phóng người lên đánh xuống, khinh công của y không bằng Kim Trục
Lưu thì làm sao có thể làm được điều đó?
Song mặc dù y không đủ
sức làm được, nhưng y vẫn phải khâm phục những lời giảng giải của Kim
Trục Lưu. Sau một hồi hoang mang, y biết công phu điểm huyệt của mình
không bằng đối phương, hôm nay chắc chắn sẽ thất bại, nếu cứ đánh nữa
chỉ càng tạo cơ hội cho đối phương mỉa mai, còn mình chỉ thêm phần hổ
thẹn mà thôi. Nhưng y là một nhân vật thành danh trên giang hồ, không
thể nào chịu thua một lên tiểu tử hậu sinh, y nhíu mày nảy ra một kế,
hai bút xỉa tới, phá một chiêu của Kim Trục Lưu, gằn giọng: “Đúng thế,
bản lĩnh của ngươi quả thực hơn ta, nhưng ngươi sử dụng không phải công
phu Tứ bút điểm bát mạch! Nếu muốn đánh bại ta, ta sẽ cung tay nhận
thua. Nhưng nếu muốn ta tâm phục khẩu phục, ngươi phải dốc hết bản lĩnh
ra!” Kim Trục Lưu đã nói dùng tay không có thể sử dụng Tứ bút điểm bát
mạch, nay Liên Thành Hổ vin vào câu nói này để làm khó chàng, tuy hơi vô lý nhưng vì cố lấy lại sĩ diện cũng chỉ đành làm thế.
Kim Trục
Lưu lấy ngón tay thay bút, hai tay chỉ có thể sử dụng được Song bút điểm tứ mạch, đó là điều mà bất cứ ai hiểu thuật điểm huyệt đều hiểu, Hà lão đại không khỏi mắng rằng: “Ngươi rõ ràng đã thua mà còn cố cãi, có biết hổ thẹn hay không? Hừ, ngươi buộc người ta dùng hai tay không điểm tám
mạch, chẳng phải đã làm khó người ta hay sao?” Liên Thành Hổ cười lạnh,
“Ai bảo y đã nói câu lúc nãy?” Kim Trục Lưu nói: “Đừng cãi đừng cãi! Ta
đã nói đương nhiên phải làm!”
Rồi đột nhiên lướt người tới, sử
dụng một chiêu mà cả Liên Thành Hổ chưa bao giờ thấy, trong một chiêu,
đã điểm tám huyệt ở bốn nơi trên người y, Liên Thành Hổ không biết chống đỡ thế nào, đang định nói: “Thủ pháp này của ngươi chẳng qua là biến
hóa từ Song bút điểm tứ mạch mà thôi”. Chưa kịp lên tiếng thì đôi bút đã bị Kim Trục Lưu giật mất.
Kim Trục Lưu kêu lên: “Công phu Tứ
bút điểm bát mạch đây!” Rồi chàng ném hai bút ra, tiếp theo lướt người
tới nhanh như điện chớp, hai cây bút lướt xéo qua nhau, điểm vào bốn
huyệt đạo trên mạch đốc, mạch nhâm, mạch xung, mạch đới của Liên Thành
Hổ, dùng tay thay bút, hai tay đã điểm vào bốn huyệt âm kiêu, dương
kiêu, âm duy, dương duy. Chiêu này phù hợp với công phu điểm huyệt tuyệt đỉnh Tứ bút điểm bát mạch!
Tám mạch của Liên Thành Hổ đã bị
điểm, nhất thời không thể nào cử động được. Kim Trục Lưu cười ha hả:
“Ngươi đã phục chưa? Ta không muốn công phu bút pháp của nhà họ Liên
thất truyền cho nên hôm nay tạm tha cho ngươi?” Rồi chàng bước về phía
trước, thuận tay vỗ mấy cái, giải tám huyệt đạo của Liên Thành Hổ. Bành
Cự Vinh và “công tử gia” thấy tình thế không xong, đã chạy từ lâu. Liên
Thành Hổ được giải huyệt đạo, mặt vàng như đất sét, không dám lên tiếng, cũng đành lủi thủi bỏ đi.