Gabrielle ngạc nhiên trước điệu bộ ăn uống của anh. Ngạc nhiên khi anh không nhai nhồm nhoàm, gãi người, hay ợ như một thằng nhóc vênh váo với sáu chai bia Old Milwaukee. Anh thực sự đã đặt khăn ăn lên lòng và đang tiêu khiển cho cô bằng những câu chuyện kỳ quặc về chú vẹt tên Sam của anh. Nếu cô mà không khôn ngoan, có khi cô đã nghĩ anh đang cố quyến rũ cô hoặc có lẽ anh có một linh hồn đứng đắn vùi sâu đâu đó trong cơ thể rắn chắc kia.
“Sam có vấn đề về trọng lượng,” anh bảo cô giữa những lần ăn thịt bê. “Nó yêu pizza và bim bim Cheetos.”
“Anh cho con chim của anh ăn pizza và Cheetos á?”
“Không còn nhiều nữa. Tôi đã phải làm cho nó cái máy tập thể hình. Giờ thì tôi bắt nó tập luyện khi tôi tập.”
Gabirelle không biết có nên tin anh hay không. “Sao anh làm cho con chim tập luyện được? Nó không bay đi luôn ạ?”
“Tôi lừa nó nghĩ rằng nó đang được chơi vui.” Joe bẻ một mẩu bánh mỳ và ăn. “Tôi đặt cái máy tập cạnh máy tập tạ của tôi,” anh tiếp tục sau khi đã nuốt xuống. “Và miễn là tôi còn ở trong phòng với nó, nó sẽ trèo lên các bậc thang và dây xích của nó.”
Gabrielle cắn một miếng bánh mỳ của chính cô và quan sát anh qua đầu ngọn nến sáp ong. Luồng ánh sáng yếu ớt từ cửa sổ phòng ăn tràn qua các tấm màn mỏng, tắm căn phòng và cả Thám tử Joe Shanahan trong thứ ánh sáng dịu dàng. Những đường nét mạnh mẽ, nam tính của anh có vẻ thoải mái và dịu nhẹ. Gabrielle đoán đó hẳn là trò lừa đảo của ánh sáng, bởi vì dù hiện thời anh có quyến rũ, từ những kinh nghiệm gần đây cô biết rằng chẳng có gì dịu nhẹ ở người đàn ông ngồi đối diện với cô này cả. Chẳng có gì dịu dàng, nhưng cô cho là một người đàn ông yêu chú chim của anh ta không thể hoàn toàn thiếu vắng những phẩm chất bù lại. “Anh có Sam bao lâu rồi?”
“Đến giờ thì chưa đến một năm, nhưng cứ như là tôi lúc nào cũng có nó vậy. Debby đã mua nó cho tôi.”
“Anh có chị em à?”
“Tôi có bốn.”
“Wow.” Khi lớn lên, Gabrielle luôn mong muốn có một ông anh bà chị hoặc một đứa em. “Anh là người lớn nhất à?”
“Trẻ nhất.”
“Nhóc út,” cô nói, mặc dù cô không thể tưởng tượng ra Joe là bất kỳ cái gì ngoại trừ một người đàn ông đã trưởng thành. Anh có quá nhiều hoóc môn nam tính để cô nghĩ về anh như một cậu bé xinh xắn với đôi má bóng hồng. “Tôi cá là lớn lên với bốn người chị gái rất vui.”
“Phần lớn là địa ngục.” Anh cuộn một miếng mỳ Ý vào đĩa của mình.
“Vì sao?”
Anh đẩy chỗ mỳ vào miệng và quan sát cô khi nhai. Trông anh không có vẻ như anh sẽ trả lời, nhưng rồi anh nuốt xuống và thú nhận, ”Họ đã bắt tôi mặc quần áo của họ và giả vờ là em gái thứ năm.”
Cô cố không cười, nhưng môi cô run run.
”Chẳng vui đâu. Họ thậm chí còn không để tôi giả vờ làm chó. Tanya luôn được là chó.”
Lần này cô có cười và thậm chí còn nghĩ đến việc vươn tay ra vỗ về tay anh và bảo anh rằng anh sẽ ổn thôi, nhưng cô không làm thế. “Nghe như thể anh có một con chim nhân ngày sinh nhật.”
”Debby đã cho tôi Sam khi tôi nằm dưỡng thương ở nhà một khoảng thời gian. Chị ấy nghĩ chú chim sẽ bầu bạn với tôi cho đến khi tôi đi lại được và sẽ đỡ phiền hơn một chú cún con.” Giờ thì anh mỉm cười. ”Chị ấy đã sai về điều đó.”
”Sao anh phải nằm dưỡng thương ở nhà?”
Nụ cười của anh rũ xuống, và anh nhún đôi bờ vai rộng. ”Tôi bị bắn trong một vụ án thuốc phiện mà đã sai lầm ngay từ lúc bắt đầu.”
”Anh đã bị bắn ư?” Gabrielle cảm thấy hai hàng lông mày của cô rướn lên tận trán. ”Ở đâu thế?”
”Ở đùi phải của tôi,” anh nói và đột ngột đổi chủ đề. ”Tôi đã gặp bạn của cô khi tôi gõ cửa nhà cô lúc trước đấy.”
Gabrielle sẽ rất thích được biết chi tiết về cú bắn đó, nhưng anh rõ ràng là muốn bỏ rơi chủ đề này. “Francis à?”
”Cô ấy không cho tôi tên, nhưng cô ấy có nói là cô đã kể với cô ấy rằng tôi là bạn trai cô. Cô còn nói gì với cô ấy nữa?” anh hỏi trước khi nhét miếng mì Ý cuối cùng vào miệng.
”Thế thôi,” Gabrielle nói lập lờ khi cô với tay lấy cốc trà lạnh của mình. ”Cô ấy đã biết tôi nghĩ rằng có một tay rình mò đang theo đuổi tôi, nên hôm nay cô ấy đã hỏi tôi về chuyện đó. Tôi bảo cô ấy giờ chúng ta đang hẹn hò.”
Anh từ tốn nuốt xuống, và ánh mắt anh nghiên cứu cô qua khoảng cách không đáng kể chia cách họ. ”Cô bảo với cô ấy là cô đang hẹn hò với kẻ cô đã nghĩ là đang rình mò cô?”
Gabrielle uống một ngụm và gật đầu. “Ừ đấy.”
”Và cô ấy không nghĩ chuyện đó quái gở sao?”
Gabrielle lắc đầu và đặt cốc trà xuống. ”Francis có rắc rối với các mối quan hệ. Cô ấy biết rằng thi thoảng một người phụ nữ phải chớp lấy cơ hội. Và được một người đàn ông theo đuổi có thể rất lãng mạn.”
”Kể cả một tên rình mò nữa sao?”
“Ừ thì, trong đời anh phải hôn vài con cóc ghẻ chứ.”
”Cô đã hôn rất nhiều con cóc ghẻ đấy à?”
Cô đâm nĩa vào món salad và cố tình chĩa thẳng sự chú ý của cô vào môi anh. ”Chỉ một thôi,” cô nói và nhét miếng rau diếp vào trong miệng.
Anh với tay lấy cốc của mình, và tràng cười trầm thấp của anh lấp đầy căn phòng. Họ đều biết cô không đáp lại anh như thể anh là một con cóc ghẻ. ”Ngoài việc hôn cóc ghẻ, hãy nói thêm cho tôi biết về bản thân cô đi.” Một giọt chất lỏng trượt khỏi cốc, rồi nhỏ xuống áo phông của anh, tạo nên một hình tròn nhỏ xíu ướt nước trên ngực phải của anh.
”Anh đang thẩm vấn tôi đấy à?”
”Tuyệt đối không.”
”Anh không có một tập tài liệu về tôi đâu đó đầy những thông tin, như thể tôi đã có bao nhiêu lỗ răng sâu hay vé phạt tốc độ sao?”
Mắt anh gặp phải mắt cô qua thành cốc, và anh quan sát cô khi uống một hơi dài. Rồi anh đặt cốc xuống và bảo cô, ”Tôi đã không kiểm tra tiền sử nha sĩ của cô, nhưng cô có một vé phạt tháng Năm vừa rồi vì lái xe ba mươi lăm dặm ở khu vực hai mươi dặm. Khi cô mười chín tuổi cô đã đâm chiếc Volkswagen của mình vào một bốt điện thoại và đủ may mắn để bỏ đi chỉ với vài vết bầm nhỏ và ba mũi khâu trên đỉnh đầu.”
Cô không ngạc nhiên là anh biết tiền sử lái xe của cô, nhưng thực là hơi lúng túng khi anh biết nhiều thứ về cuộc đời cô trong khi cô gần như chả biết tí gì về anh. “Những thứ thú vị đấy. Anh còn biết gì nữa?”
”Tôi biết cô được đặt tên theo tên ông nội cô.”
Không phải một ngạc nhiên lớn nữa. ”Chúng tôi là một trong những gia đình mà tên trẻ con theo tên ông bà. Các bà của tôi là Eunuch Beryl Paugh và Thelma Dorita Cox Breedlove. Tôi tự cho bản thân mình may mắn.” Cô nhún vai. ”Còn gì nữa?”
”Tôi biết cô đã vào hai trường đại học nhưng không nhận được một bằng cấp nào từ cả hai.”
Rõ ràng anh chẳng biết gì cốt lõi hết. Anh chẳng biết tí gì về cô. ”Tôi không đi học để lấy một tấm bằng,” cô bắt đầu khi đặt bát salad gần như trống không của cô lên đĩa và đẩy chúng sang bên. Cô không ăn nhiều phần thịt bê của mình, nhưng với Joe ngồi bên kia bàn, cô đột nhiên không thấy đói lắm. ”Tôi đi để học về những thứ thu hút tôi. Khi tôi đã học được những gì mình muốn, tôi chuyển tới thứ thu hút tôi tiếp theo.” Cô đặt cánh tay lên bàn và tựa má vào tay. ”Bất kỳ ai cũng có thể kiếm một cái bằng hoặc chứng chỉ gì đó, chẳng có gì lớn lao. Một mẩu giấy từ một trường đại học đâu đó không định nghĩa được một con người. Nó sẽ không nói cho anh biết tôi là ai.”
Anh lấy khăn ăn bằng vải lanh ra khỏi lòng và đặt cạnh cốc của anh. ”Vậy thì, sao cô không nói cho tôi biết cô là ai. Nói cho tôi biết điều gì mà tôi chưa biết đi.”
Cô cho là anh muốn cô tiết lộ bằng chứng phạm tội, nhưng cô chẳng biết gì hết. Chẳng biết tí gì, nên cô kể cho anh một số điều mà cô lạc quan rằng anh sẽ không bao giờ đoán được về cô. ”Chà, tôi đag đọc những gì Freud (Sigmund Freud (1856 – 1939): một bác sĩ thần kinh và tâm lý người Áo) nói về ép buộc tâm lý và vật kích dục. Theo như lời ông ấy, tôi có chứng khát miệng (khiến cho người ta đòi hỏi cần có sẹ kích thích bằng miệng).”
Một nụ cười giật giật khoé miệng anh, và anh hạ ánh mắt xuống môi cô. ”Thực sao?”
”Đừng có trở nên phấn khích quá,” cô cười lớn. ”Freud là một trí óc sáng chói đằng sau sự thèm muốn của quý, một điều thật dớ dẩn. Chỉ có đàn ông mới nghĩ đến những chuyện ngớ ngẩn như vậy. Tôi chưa bao giờ gặp một người phụ nữ nào mà lại muốn có của quý hết.”
Khi anh nhìn cô chằm chằm từ bên kia bàn, khoé miệng anh cong lên thành một nụ cười toe toét. ”Tôi biết vài người đã muốn của tôi đấy.”
Bất chấp những quan niệm tự do của cô về tình dục, Gabrielle vẫn cảm thấy hai má cô nóng lên. ”Tôi không nói theo ý đó.”
Joe bật cười và ngửa ghế của anh chống trên hai chân.”Sao cô không nói cho tôi cách cô gặp Kevin ấy.”
Gabrielle cho là Kevin cũng đã kể với Joe tất tần tật rồi, và cô băn khoăn có phải anh đang hỏi để bắt quả tang cô nói dối hay không. Cô không có gì để mà phải nói dối hết. ”Như Kevin hẳn đã kể với anh, chúng tôi lần đầu tiên gặp nhau ở một buổi đấu giá tài sản cách đây vài năm trước khi chúng tôi mở Anomaly. Anh ấy vừa chuyển từ Portland về đây và đang làm việc cho một tay buôn đồ cổ từ trung tâm thị trấn, và tôi đang làm việc cho một người với các cửa hàng ở Pocatello, Twin Falls, và Boise. Sau lần đầu tiên đó, tôi tình cờ chạm mặt anh ấy khá nhiều.” Cô dừng lại và vuột một mẩu vụn bánh mỳ ra khỏi bàn. ”Rồi tôi bị đuổi việc, và anh ấy gọi cho tôi và hỏi xem tôi có muốn tham gia kinh doanh với anh ấy không.”
”Cứ như trên trời rơi xuống thế sao?”
”Anh ấy đã nghe chuyện tôi bị đuổi vì một vụ mua bán thêm các tác phẩm tranh tang. Ông chủ cửa hàng không suy nghĩ thoáng về chuyện đó cho lắm, thậm chí sau khi tôi đã hoàn lại cho ông ấy các chi phí, ông ấy vẫn sa thải tôi.”
”Vì vậy, Kevin gọi cho tôi, và hai người đã quyết định mở một doanh nghiệp.” Anh khoanh tay trước ngực và hơi đung đưa cái ghế. ”Chỉ như thể thôi à?”
“Không. Anh ấy muốn chỉ bán mỗi đồ cổ, nhưng tôi đã hơi chán đồ cổ rồi, nên chúng tôi thoả hiệp và ổn định với một cửa hàng bán đồ lạ. Tôi đưa vào sáu mươi phần trăm vốn khởi tạo.”
”Bằng cách nào?”
Gabrielle ghét phải nói về tiền nong. ”Tôi chắc chắn là anh biết tôi có một khoản uỷ thác khiêm tốn.” Và cô đã đầu tư hơn nửa số đó vào Anomaly. Thường thì, khi người ta biết đến họ của cô, họ sẽ cho rằng cô có một tài khoản ngân hàng không đáy, nhưng không đúng trường hợp rồi. Nếu cửa hàng của cô thất bại, cô sẽ gần như khánh kiệt. Nhưng ý nghĩ về việc mất đi khoản đầu tư tài chính không khiến cô buồn phiền nhiều bằng ý nghĩ mất đi thời gian, năng lượng và những gắn bó cảm xúc mà cô có với cửa hàng của mình. Phần lớn mọi người đo thành công bằng số tiền kiếm được. Không phải Gabrielle. Chắc chắn là cô muốn trả các hoá đơn, nhưng với cô thành công được đo đạc bằng hạnh phúc. Cô tự cho mình là cực kỳ thành công.
”Thế còn Kevin thì sao?”
Trong khi đối với Gabrielle thành công có nghĩa là hạnh phúc, thì cô cũng biết điều đó không đúng với Kevin. Với anh, thành công phải sờ mó được. Thứ gì đó anh có thể cầm, lái, hoặc mặc được. Điều đó khiến anh mờ mắt, chứ không khiến anh thành tội phạm. Điều đó cũng biến anh thành một đối tác tốt. ”Anh ấy kiếm một khoản vay ngân hàng cho bốn mươi phần trăm còn lại.”
”Cô có thèm điều tra tí tẹo nào trước khi bắt đầu công việc kinh doanh này không?”
”Tất nhiên rồi. Tôi không phải đồ ngốc đâu nhé. Vị trí là nhân tố quan trọng nhất dẫn tới thành công của một doanh nghiệp nhỏ. Hyde Park có một dòng tiền thu đều đặn…”
”Chờ đã.” Anh giơ một tay lên và ngăn cô lại. ”Đó không phải là những gì tôi định nói. Tôi đang hỏi cô có từng nghĩ đến việc điều tra lai lịch của Kevin trước khi cô đầu tư quá nhiều tiền của chính cô không?”
”Tôi không có kiểm tra tội hình sự hay gì gì đó, nhưng tôi đã nói chuyện với những người chủ trước của anh ấy. Tất cả họ đều nói những điều tuyệt vời về anh ấy.” Phần tiếp theo đây cô biết anh sẽ không bao giờ hiểu được, nhưng dẫu sao cô cũng nói với anh – thật nhanh. ”Và tôi đã ngồi thiền về chuyện đó một khoảng thời gian trước khi tôi cho anh ấy câu trả lời của tôi.”
Tay anh rơi thõng xuống hai bên người, và vẻ cau có làm nhăn trán anh lại. ”Cô đã ngồi thiền ấy à? Cô không nghĩ là tham gia kinh doanh với một người đàn ông cô hầu như không biết gì hết đòi hỏi nhiền hơn việc toạ thiền sao?”
”Không.”
“Vì cái khỉ gì lại không?”
”Đó là nhân quả.”
Với một tiếng bịch thật to, chân ghế đập xuống sàn nhà. ”Lại nữa?”
”Số phận của tôi đang thưởng cho tôi. Tôi đã buồn bã và bị mất một việc làm, và Kevin trao cho tôi cơ hội được làm chủ của chính tôi.”
Anh không lên tiếng trong vài giây dài dằng dặc. ”Cô có phải đang nói với tôi,” anh bắt đầu, lại lần nữa, ”rằng lời đề nghị kinh doanh của Kevin là một phần thưởng cho một chiến dịch tốt đẹp nào đó mà cô đã từng thực hiện trong kiếp trước sao?”
”Không, tôi không tin vào việc đầu thai.” Niềm tin của cô đối với nhân quả làm một số người bối rối, và cô không thực lòng mong đợi Thám tử Shanahan sẽ hiểu. ”Tham gia kinh doanh với Kevin là phần thưởng cho một điều gì đó mà tôi làm trong cuộc đời này. Tôi tin rằng việc tốt hay xấu mà anh làm đều ảnh hưởng ngay đến anh, không phải sau khi anh đã chết. Khi anh chết, anh đi tới một mặt bằng ý thức hoàn toàn khác. Sự thông thái, hay trí tuệ, mà anh đã đạt được trong cuộc đời này quyết định mặt bằng mà linh hồn của anh đi tới.”
”Cô đang nói về thiên đàng hay địa ngục đấy à?”
Cô đã dự đoán một câu hỏi xúc phạm từ phía anh và không ngạc nhiên. ”Tôi chắc chắn anh gọi đó là thiên đàng.”
”Thế cô gọi nói là gì?”
”Thường thì tôi chẳng gọi nói là gì hết. Nó có thể là thiên đàng. Địa ngục. Cõi niết bàn. Gì cũng được. Tôi chỉ biết đó là nơi linh hồn của tôi sẽ đi đến khi tôi chết.”
”Cô có tin vào Chúa không?”
Cô đã quen với câu hỏi đó. ”Có, nhưng chắc không phải theo cái cách anh tin. Tôi tin rằng Chúa thà là muốn tôi ngồi trong một cánh đồng đầy hoa cúc và lấp đầy các giác quan của tôi với vẻ đẹp phi thường mà ông ấy đã tạo ra trong khi tôi suy ngẫm về sự thanh thản nội tại. Ông ấy thà là muốn tôi thực sự sống với mười điều răn hơn là ngồi trong một nhà thờ ngột ngạt và lắng nghe một người nào đó nói cho tôi biết cách để thực hiện chúng. Tôi nghĩ có một sự khác biệt to lớn giữa tín ngưỡng và đức tin. Anh có thể là cả hai, tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng có rất nhiều người đeo tôn giáo như một cái bảng tên, và họ hạ thấp nó xuống thành những miếng dán quảng cáo. Nhưng đức tin thì khác. Nó đến từ trái tim và tâm hồn.” Cô chờ anh sẽ cười hoặc nhìn cô như thể cô vừa mọc sừng và móng guốc. Anh cuối cùng lại làm cô ngạc nhiên.
”Cô có thể đúng về điều đó,” anh nói khi anh nhỏm dậy. Anh đặt bát salad của anh lên đĩa, thu gom dao nĩa bạc, và đi vào bếp.
Gabrielle theo sau và quan sát anh tráng qua đĩa của anh trong bồn rửa. Cô hẳn sẽ không bao giờ đoán anh lại là loại đàn ông tự rửa đồ cho mình. Có thể chỉ vì anh dường như quá nam tính, như một trong những tên đàn ông đập chai bia lên trán.
”Nói với tôi đi,” anh nói khi tắt vòi nước đi.”Việc tôi bắt giữ cô trong công viên Julia Davis có phải nhân quả không?”
Cô khoanh tay dưới ngực và dựa một bên hông vào quầy bếp bên cạnh anh. ”Không, tôi chưa từng làm chuyện gì đủ tồi tệ để xứng đáng với anh hết.”
”Có thể,” anh nói, giọng anh trầm và quyến rũ khi anh nhìn cô qua vai, ”Tôi là phần thưởng của cô vì cư xử ngoan ngoãn.”
Cô lờ đi những cơn rùng mình đang chạy lên cột sống của cô cứ như thể cô bị hút tới những tên cảnh sát khô cằn cảm xúc với thái độ hư hỏng ấy. Mà cô thì không. ”Thực tế đi. Anh rực rỡ như một cây nấm độc ấy,” cô nói và chỉ về mấy cái nồi trên bếp. ”Anh sẽ không rửa hết mấy cái đĩa à?”
”Đừng có mơ. Tôi đã làm hết việc nấu ăn rồi.”
Cô đã thái bánh mỳ và trộn salad cơ mà. Anh không hề làm hết việc nấu ăn. Đây là một thế kỷ mới – những anh chàng như Joe phải bước ra khỏi hang động và làm phần của mình đi chứ, nhưng cô chọn không khai sáng cho anh về chủ đề đó. ”Vậy thì tôi cho rằng mình sẽ gặp anh rực rỡ vào sáng sớm nhỉ?”
”Ừ.” Anh nhét một tay vào túi trước của chiếc quần Levi’s và rút ra một bộ chìa khoá. ”Nhưng thứ Sáu tôi phải làm chứng ở toà, nên tôi chắc sẽ không đến cho tới khoảng sau buổi trưa đâu.”
”Tôi sẽ ở Lễ hội Coeur thứ Sáu và thứ Bảy đấy.”
”Đúng rồi nhỉ. Tôi sẽ ghé qua gian hàng của cô và kiểm tra cô vậy.”
Cô đang trông mong một khoảng lặng khỏi Joe và nỗi căng thẳng mà anh gây ra. ”Không cần thiết.”
Anh liếc lên khỏi bộ chìa khoá trong tay và nghiêng đầu sang một bên. “Dẫu sao tôi cũng sẽ ghé qua, chỉ để cô không bắt đầu nhớ nhung tôi thôi.”
”Joe, tôi sẽ nhớ anh nhiều như một vết lở loét ấy.”
Anh cười thầm, rồi quay ra cửa sau. ”Cô tốt hơn là nên coi chừng đấy, tôi nghe bảo nói dối tạo ra nhân quả xấu lắm.”
Chiếc xe Bronco màu đỏ của Joe lăn bánh vào chỗ đỗ xa nhất trong khu đỗ xe ở cửa hàng Albertson. Cỗ xe bốn bánh chưa đến hai tháng tuổi, và anh không hề muốn một đứa nhóc nào đó làm lõm cửa xe của mình. Mới tám giờ rưỡi, và mặt trời đang lặn treo ngay trên những đỉnh núi bao quanh thung lũng.
Không có nhiều người trong cửa hàng tạp hoá cho lắm khi Joe vào và túm lấy một túi cà rốt cho trẻ em ưa thích của Sam.
”Này, là anh sao, Joe Shanahan?”
Joe ngước lên khỏi món cà rốt nhìn và một người phụ nữ đang cho cải bắp vào một cái xe đẩy. Cô ta thấp, xinh xắn, và có mái tóc nâu dày buộc thành một cái đuôi ngựa mượt mà trên đầu. Cô ta chỉ dùng rất ít mỹ phẩm, và có một kiểu khuôn mặt xinh xắn trông như thể được rửa sạch tới sáng bóng. Đôi mắt màu xanh biển to tròn đang nhìn thẳng vào anh trông quen quen, và anh tự hỏi mình có từng tống giam cô hay không.
“Là em đây. Ann Cameron. Chúng ta đã lớn lên trong cùng một khu dân cư. Em đã sống dưới con đường từ chỗ nhà cha mẹ anh. Anh đã hẹn hò với chị gái em, Sherry.”
Điều mà, anh cho là, lý do cô trông quen thuộc. Năm lớp mười anh đã vài lần rò rẫm với Sherry ở ghế sau chiếc Chevy Biscayne của cha mẹ anh. Cô ta là cô gái đầu tiên để anh chạm vào ngực – dưới áo lót. Lòng bàn tay trần vào bộ ngực trần. Một cột mốc thực sự với bất kỳ tên đàn ông nào. ”Chắc chắn rồi, anh có nhớ. Em thế nào, Ann?”
”Em tốt.” Cô ném thêm vài bắp cải vào xe hàng, rồi với tay lấy một túi cà rốt. ”Mẹ và bố anh thế nào?”
”Cũng vẫn như mọi khi thôi,” anh trả lời, nhìn núi rau củ trong xe hàng của cô. ”Em có một gia đình lớn phải ăn, hay em nuôi thỏ thế?”
Cô bật cười và lắc đầu. ”Cả hai đều không. Em chưa kết hôn và không có con. Em có một cửa hàng đồ ăn ở đường Eighth, và hôm nay em đã chạy quá công suất và không thể nhận được lần chuyển rau tươi kế tiếp cho đến chiều mai. Quá trễ cho một đám đông ăn trưa của em.”
”Một cửa hàng đồ ăn à? Vậy thì em hẳn là một đầu bếp giỏi nhỉ?”
”Em là một đầu bếp tuyệt vời.”
Anh đã nghe cũng lời khẳng định đó cách đây hai tiếng đồng hồ từ một người phụ nữ trong bộ bikini màu bạc người đã biến mất trong phòng ngủ của cô ta và bỏ mặc anh nấu bữa tối. Rồi cô thêm phần xỉ nhục vào vết thương bằng cách lờ đờ ăn bữa ăn mà anh đã chuẩn bị.
”Anh nên ghé qua và để em làm cho anh một cái sandwich, hoặc anh có thể nếm thử món mỳ Ý của em. Em làm nước sốt tôm dìu dịu dùng với mỳ tóc tiên mềm. Tất nhiên là tất cả đều từ đầu. Chúng ta có thể hồi tưởng lại khoảng thời gian xưa.”
Joe nhìn vào đôi mắt màu xanh lục trong vắt của cô và hai lúm đồng tiền làm lún má cô xuống khi cô cười với anh. Bình thường. Không có dấu hiệu điên rồ, nhưng người ta không thể nói gì từ cái nhìn đầu tiên. ”Em có tin vào nhân quả, khí, và có nghe Yanni không?”
Nụ cười của cô tắt ngóm và cô nhìn anh như thể anh bị dở hơi. Joe bật cười, ném cái túi lên không và tóm lấy nó. “Ừ, anh sẽ ghé qua. Quán của em ở số mấy trên đường Eighth?”
Gabrielle coi bản thân cô là một người lau dọn miễn cưỡng. Khi cảm giác cưỡng bách đến cực điểm, cô lau dọn. Không may thay, cảm giác thôi thúc phải dọn dẹp tử tế để đồ và tủ bát của cô chỉ đánh động một lần mỗi năm và kéo dài chỉ vài giờ. Nếu cô ra khỏi nhà khi nó đánh động, tủ đồ của cô sẽ phải đợi tròn một năm nữa.
Cô bóp nước tẩy rửa mùi chanh vào bồn rửa và lấp đầy nó với nước ấm. Có lẽ sau khi cô đã rửa cái nồi thịt bê sốt, cô sẽ cố gợi dậy đủ nhiệt tình để sắp xếp ngăn nắp cái tủ chén bát để cái rá của cô không còn rơi xuống chân một vị khách khác như đã rơi xuống chân Joe nữa.
Đúng lúc cô chộp lấy đôi găng tay cao su màu vàng, điện thoại reo. Cô nhấc lên ở hồi chuông thứ ba, và giọng mẹ cô lấp đầy tai cô.
”Beezer thế nào?” Claire Breedlove bắt đầu mà không có lấy một lời chào mừng.
Gabrielle liếc qua vai nhìn quả bóng lông to bự ngủ gục trên tấm thảm cạnh cửa sau. ”Nằm gục đầy vui mừng.”
”Tốt, nó cư xử có ngoan không?”
”Chủ yếu nó ăn và ngủ,” Gabrielle trả lời. “Mẹ ở đâu? Ở trong thị trấn à?”
”Yolanda và mẹ đang ở cùng ông con. Bọn mẹ sẽ lái đến Boise vào buổi sáng.”
Gabrielle kẹp ống nghe điện thoại giữa tai và vai cô rồi hỏi, ”Cancún thế nào?”
”Ồ, nó cũng được, nhưng mẹ phải kể cho con về những gì đã xảy ra. Cô con và mẹ phải rút ngắn chuyến du lịch bởi vì mẹ đã bị một điềm báo dai dẳng quấy rầy. Mẹ đã biết rằng một thảm kịch khủng khiếp sẽ giáng xuống ai đó ở vùng lân cận quanh đây. Mẹ đã cảm giác rằng ông con sẽ bị kéo vào, nên mẹ chạy về nhà để báo trước cho tất cả mọi người.”
Gabrielle chuyển sự chú ý của cô về những cái đĩa trong bồn rửa. Cuộc đời của cô vốn đã đang biến đổi to lớn rồi, và cô thực sự không có tâm trạng đi đến Twilight Zone với mẹ cô đâu. ”Điều gì đã xảy ra?” cô hỏi, mặc dù cô biết đằng nào thì mẹ cô cũng sẽ kể cho cô thôi.
”Cách đây ba ngày, trong lúc cô Yolanda của con và mẹ ở Mexico, ông con đã cán qua con chó xù của bà Youngerman.”
Cô gần như làm rơi cái ống nghe và phải túm lấy nó bằng một bàn tay đầy xà phòng. ”Ôi không! Không phải Murray bé nhỏ chứ?”
”Phải, mẹ e là thế. Cán nó còn bẹp hơn của một cái bánh kếp. Đưa linh hồn nó tới thiên đàng của loài chó xù, con vật tội nghiệp. Mẹ cũng không hoàn toàn dám chắc rằng vụ đó là một tai nạn và cả bà Youngermen cũng không. Con biết ông con cảm thấy gì về Murray rồi đấy.”
Phải, Gabrielle biết ông có cảm thấy thế nào về chú chó nhà hàng xóm. Murray bé nhỏ không chỉ là một con vật sủa không ngừng nghỉ, nó còn là một đứa quen thói bám chân. Gabrielle không thích nghĩ rằng ông cô lại đi xa đến mức cố tình cán chết con chó, nhưng cùng lúc đó Murray đã chĩa sự chú ý mãnh liệt của nó vào cẳng chân ông cô không chỉ một lần, và cô không thể loại trừ khả năng này.
”Đó không phải là tất cả đâu. Chiều nay, Yolanda và mẹ đã viếng thăm chia buồn, và trong khi mẹ đang ngồi ở phòng khách nhà bà Youngerman, cố xoa dịu bà ấy, mẹ đã cảm thấy khoảng không gian sau trán mẹ trống rỗng hẳn. Mẹ nói với con, Gabrielle, đó là viễn cảnh tương lai mạnh mẽ nhất mẹ từng có. Viễn cảnh đó quá rõ ràng với mẹ. Mẹ có thể nhìn thấy những lọn tóc xoăn sẫm màu vuốt ve tai cậu ta. Cậu ta là một người đàn ông cao…”
”Cao, ngăm đen, và đẹp trai, hử?” Một lần nữa cô lại kẹp điện thoại vào giữa tai và vai, rồi bắt đầu xử trí mấy cái đĩa ăn tối.
”Ồ, phải rồi. Mẹ không thể nói với con rằng mẹ phấn khích thế nào đâu.”
”À vâng, con cá đấy,” Gabrielle lẩm bẩm. Cô lắc đĩa dưới nước, rồi đặt chúng vào máy làm khô đĩa.
”Nhưng cậu ta không phải dành cho mẹ.”
”Quá tệ. Anh ta là của cô Yolanda sao?”
“Anh ta là định mệnh của con. Con sắp có một chuyện tình cháy bỏng với người đàn ông trong viễn cảnh của mẹ.”
”Con không muốn một chuyện tình, mẹ à,” Gabrielle thở dài và thả bát salad lẫn cốc trà vào bồn rửa. ”Giờ đây đời con đơn giản là không thể có gì thú vị cho được.” Cô tự hỏi bao nhiêu người mẹ lại tiên đoán những người tình cháy bỏng cho con gái của họ. Cô đoán chắc là không nhiều lắm.
”Con biết con không thể ước định mệnh biến đi, Gabrielle.” giọng nói ở đầu bên kia cau có, ”Con không thể đấu tranh với nó nếu con lựa chọn, nhưng kết quả vẫn sẽ luôn y nguyên. Mẹ biết con không tin vào định mệnh một cách mạnh mẽ như mẹ tin, và mẹ sẽ không bao giờ bảo con rằng con đã sai. Mẹ luôn luôn khuyến khích con tìm kiếm những bữa tiệc tinh thần cho chính mình, chọn con đường của riêng con để khai sáng. Khi con được sinh ra…”
Gabrielle đảo tròn mắt. Claire Breedlove không bao giờ áp đặt, ra lệnh, hay chi phối con gái. Bà đã cho cô bài học vỡ lòng về thế giới và khăng khăng rằng Gabrielle hãy tự chọn lối đi cho riêng cô. Đa phần thì, sống với một bà mẹ tin vào tình yêu tự do và quyền tự do rất tuyệt, nhưng đã có những năm vào cuối thập niên bảy mươi có những chuyến du lịch bình thường thú vị tới Disneyland thay vì thấm đẫm những di tích của người da đỏ ở Arizona hay giao tiếp với tự nhiên ở một bãi biển khoả thân phía bắc California.
”…khi mẹ ba mươi tuổi, mẹ đã được ban tặng thị lực thứ hai,” Claire tiếp tục với câu chuyện ưa thích nhất của bà. ”Mẹ nhớ rõ nó y như thể nó mới xảy ra ngày hôm qua. Như con biết đấy, chuyện đó là giữa mùa hè thức tỉnh tinh thần của chúng ta, không lâu sau khi bố con mất. Mẹ không chỉ đơn giản thức dậy mỗi buổi sáng và chọn lựa khả năng tâm linh của mình. Mẹ đã được chọn.”
”Con biết, mẹ à,” cô trả lời khi tráng mấy cái bát và cốc rồi đặt chúng vào máy sấy khô.
”Vậy thì con cũng biết những gì mẹ đang nói với con không phải thứ gì đó mà mẹ bịa ra. Mẹ đã nhìn thấy cậu ta, Gabrielle, và con sẽ có một cuộc gặp gỡ đầy đam mê với người đàn ông này.”
”Cách đây vài tháng điều đó có thể là một tin tức được chào mừng, nhưng không phải hôm nay,” Gabrielle thở dài. ”Con không nghĩ con có năng lượng cho đam mê nữa.”
”Mẹ không nghĩ con có lựa chọn đâu. Cậu ta có một vẻ rất cứng rắn quanh mình. Mạnh mẽ. Cậu ta thực ra khá là đe doạ. Một đôi mắt mới thật sẫm màu, mãnh liệt làm sao và lại còn cả vẻ gợi dục ở cái miệng của cậu ta nữa chứ.”
Một cơn lạnh giá chạy dọc xương sống của Gabrielle tới tận gáy của cô, và cô từ từ hạ cái nồi vào nước rửa.
“Như mẹ đã nói, mẹ đã nghĩ cậu ta là của mẹ, và mẹ run bắn của lên. Ý mẹ là, không phải ngày nào định mệnh cũng trao cho một phụ nữ ở tuổi của mẹ một anh chàng trẻ trung trong quần jeans bó sát và thắt lưng đeo dụng cụ.”
Gabrielle nhìn chằm chằm vào những bong bóng trắng, họng cô đột nhiên khô khốc. ”Anh ta có thể là của mẹ.”
”Không. Cậu ta nhìn thẳng qua mẹ và thì thầm tên con. Có một khao khát không thể nhầm lẫn trong giọng nói của cậu ta, mẹ đã nghĩ mẹ có thể ngất lịm lần đầu tiên trong đời mất.”
Gabrielle biết cảm giác đó. Cô cũng cảm thấy lịm người đây.
”Bà Youngermen trở nên lo lắng đến mức bà ấy tạm thời quên bẵng Murray tội nghiệp. Mẹ nói với con, con yêu, mẹ đã nhìn thấy định mệnh của con. Con đã được ban cho một người tình đam mê. Cậu ta là một món quà tuyệt diệu.”
”Nhưng con không muốn anh ta. Lấy anh ta lại đi!”
”Mẹ không thể lấy cậu ta lại, và bằng vẻ mặt cậu ta, mẹ có cảm giác rằng những gì con muốn sẽ chẳng đáng kể gì.”
Lố bịch. Mẹ cô chỉ đúng về một điều, Gabrielle không tin vào định mệnh. Nếu cô không chọn có một mối tình nóng bỏng với một người đàn ông đeo thắt lưng đeo dụng cụ, thì cô đơn giản là sẽ không có.
Vào lúc Gabrielle gác mày, cô đã chết lặng và hơi chấn động. Qua nhiều năm, cô đã dần dần nghĩ về những tiên đoán tâm linh của mẹ cô như trò Gắn đuôi vào con lừa ( Một trò chơi của trẻ em. Đứa trẻ sẽ bị bịt mắt và cho quay vòng vòng đến khi mất phương hướng. Sau đó nói sẽ phải cố gắng gắn cái đuôi lừa bằng giấy vào con lừa vẽ sẵn trên tường.) vậy. Thi thoảng các viễn cảnh của mẹ cô hơi viển vông và đi nhầm hướng, thi thoảng chúng tương đối gần, và có những lúc bà lại ghìm chúng một cách chính xác đến phát sợ.
Gabrielle quay lại với bồn rửa và nhắc nhở bản thân rằng mẹ cô cũng đã báo trước về việc tái hợp của Sonny và Cher, Donald và Ivana, rồi cả Bob Dylan và Joan Baez nữa. Rõ ràng là, khi liên quan đến những tiên đoán tâm linh tình cảm, Claire chẳng biết tí gì hết.
Lần này mẹ cô lại rời xa mặt đất và quay mòng mòng ngoài tầm kiểm soát rồi. Gabrielle không muốn một người tình tóc đen cháy bỏng. Cô không muốn nghĩ về Joe Shanahan như bất kỳ thứ gì ngoại trừ một tay cảnh sát cứng rắn hết.
Nhưng đêm đó lần đầu tiên cô mơ về anh. Cô mơ thấy anh bước vào phòng ngủ của cô, nhìn cô qua đôi mắt sẫm màu khó hiểu, khoái lạc kéo cong một khoé miệng anh, và chẳng mặc gì hết ngoài luồng khí đỏ sậm. Khi cô tỉnh dậy sáng hôm sau, cô không biết mình vừa có giấc mơ khiêu dâm nhất trong đời hay trải nghiệm ác mộng tồi tệ nhất nữa.