Margaret Lukas quan sát các gia đình ở khách sạn Ritz-Carlton.
Cô và Cage đứng ở đại sảnh, nơi hàng trăm con người đang tụ tập chè chén và ăn uống. Lukas mặc bộ vét màu xanh hải quân do chính cô thiết kế và tự may. Nó được cắt sát với người cô, may từ vải dạ đắt tiền, đi kèm với chiếc váy xếp ly dài. Cô đã cắt một đường đặc biệt trên chiếc áo để đảm bảo là khẩu Clock 10 đeo bên hông không làm hỏng đường nét thanh lịch của bộ váy áo. Nó sẽ rất hoàn hảo khi đi nghe nhạc kịch hay tới một nhà hàng sang trọng, nhưng thường thì cô chỉ mặc nó khi tới đám cưới và đám tang. Cô gọi nó là bộ vest tang-cưới của mình.
Mười lăm phút nữa là tới tám giờ.
“Không có gì, Margaret”, giọng nói cộc lốc vang lên trong tai nghe của cô. Giọng của c. p. Ardell. Anh đang ở tầng một, chốt ở bãi đậu xe, một lối vào khác của khách sạn, giả vờ là một tay chè chén đã hơi ngà ngà say. Viên đặc vụ to lớn mặc bộ quần áo xoàng xĩnh hơn đáng kể so với bộ của Lukas: quần bò loang lổ và áo khoác da của dân lái mô tô. Trên đầu anh là chiếc mũ Redskins, anh đội nó không phải vì lạnh mà vì chẳng có mấy tóc để che sợi dây cáp của chiếc tai nghe. Ngoài ra, còn có thêm sáu mươi lăm đặc vụ mặc thường phục ở trong và quanh khách sạn, tất cả đều được trang bị nhiều súng hơn cả triển lãm súng ống ở El Paso.
Và đều đang tìm một người đàn ông mà họ không hề biết nhân dạng.
Có thể là da trắng, vóc người trung bình.
Có thể đang đeo một sợi dây Thánh giá bằng vàng.
Trong sảnh, Lukas và Cage quan sát những vị khách, đội vác hành lý và các nhân viên khách sạn. Không ai có chút gì giống với mô tả họ có được của Digger. Cô nhận ra họ đang khoanh tay đứng nguyên, trông y hệt hai đặc vụ liên bang ăn vận chỉn chu, đi theo dõi ai đó.
“Nói gì buồn cười đi”, cô thì thầm.
“Sao cơ ?”, Cage hỏi.
“Chúng ta sẽ lộ mất. Giả vờ nói chuyện đi.”
“Được thôi”, Cage nói và mỉm cười hết cỡ. “Thế cô nghĩ sao về Kincaid ?”
Câu hỏi ấy làm cô bất ngờ. “Kincaid à ? Ý ông là sao ?”
“Tôi đang nói chuyện đấy thôi.” Một cái nhún vai. “Cô nghĩ gì về cậu ta ?”
“Tôi không biết.”
“Chắc chắn cô biết”, Cage khăng khăng.
“Anh ta chỉ hiểu về tội phạm, không biết cách sống còn.”
Lần này, cái nhún vai của Cage mang vẻ nhượng bộ. “Hay đấy ! Tôi thích điều đó.” Một lúc liền ông không nói gì thêm.
“Ông định nhắm đến cái gì ?”, cô hỏi.
“Chẳng có gì. Tôi chẳng nhắm gì cả. Chúng ta chỉ đang giả vờ nói chuyện thôi mà”
Tốt, cô nghĩ.
Tập trung nào…
Họ quan sát một tá các nghi phạm tiềm năng khác. Cô bỏ qua họ vì những lý do cô biết là chỉ thiên về bản năng chứ không giải thích được.
Khả năng sống còn…
Một lát sau, Cage nói, “Cậu ta là người tốt. Kincaid ấy”.
“Tôi biết. Anh ta rất hữu ích.”
Cage phá lên cười theo kiểu ngạc nhiên của mình, ý là: Tôi nắm thóp được cô rồi. Ông nhắc lại, “Hữu ích”.
Lại im lặng.
Cage nói, “Cậu ta mất bố mẹ ngay sau khi tốt nghiệp đại học. Rồi đến cuộc chiến giành quyền nuôi con vài năm trước. Vợ cậu ta đúng là một mụ điên”.
“Khổ nhỉ”, cô nói và tiến vào đám đông. Cô va phải một vị khách có chỗ gồ lên đáng ngờ dưới cánh tay, nhưng kịp nhận ra ngay đó là điện thoại di động, nên lại quay về chỗ Cage. Và hỏi một cách bốc đồng, “Chuyện gì đã xảy ra với bố mẹ anh ta ?”.
“Tai nạn xe cộ. Đại loại cũng điên rồ lắm. Mẹ cậu ta vừa bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư và có vẻ căn bệnh đó đến thật đúng lúc. Nhưng họ lại bị một chiếc xe tải đâm phải trên đường Chín lăm, lúc đang tới Johns Hopkins để hóa trị. Bố cậu ta là giáo sư. Tôi đã gặp ông ta đôi lần. Rất tử tế.”
“Thế à ?”, cô lẩm bẩm, lại bị phân tâm.
“Lịch sử.”
“Sao cơ ?”
“Đó là môn bố của Kincaid dạy. Môn lịch sử.”
Cuối cùng, Lukas nói, “Tôi chỉ cần một cuộc hội thoại giả vờ, Cage à, không phải trò mai mối”.
Ông trả lời, “Tôi đang làm thế à ? Tôi mà làm thế sao ? Tôi chỉ đang muốn nói là cô sẽ không gặp được nhiều ngươi như Kincaid đâu”.
“À vâng. Chúng ta phải tập trung, Cage.”
“Tôi đang tập trung. Cô cũng đang tập trung. Kincaid không biết tại sao cô lại cáu với cậu ta.”
“Rất đơn giản. Anh ta không thuộc về đội. Tôi sẽ bảo với anh ta như vậy. Và chúng tôi sẽ thu xếp với nhau. Hết chuyện.”
“Cậu ta là người tử tế”, Cage mời chào. “Một người sống tích cực. Lại còn thông minh, trí tuệ rất lạ lùng. Cô phải xem cậu ta giải đố mới được.”
“Vâng. Tôi chắc là anh ta rất tuyệt vời.”
Tập trung.
Nhưng cô chẳng tập trung nổi. Cô đang nghĩ về Kincaid.
Vậy là anh ta đã nhận lấy chữ V viết hoa của mình trong từ vận rủi: hai cái chết và một vụ ly dị. Một cô vợ khó chiều cùng cuộc vật lộn để tự mình nuôi nấng lũ trẻ. Điều đó giải thích phần nào những gì cô đã thấy.
Kincaid…
Và nghĩ về anh, với tư cách nhà giám định tài liệu, lại khiến cô nhớ về tấm bưu thiếp.
Bưu thiếp của Joey.
Trong chuyến đi không bao giờ có thể trở lại của hai bố con, Tom và Joey đã tới thăm bố mẹ chồng của cô ở Ohio. Đó là ngày trước Lễ tạ ơn. Đứa con trai sáu tuổi đã gửi cho cô một tấm bưu thiếp từ sân bay trước khi họ lên chiếc máy bay định mệnh. Có lẽ là chưa đầy nửa tiếng sau, chiếc 737 đã lao đầu xuống một cánh đồng băng.
Nhưng thằng bé không biết là bạn cần phải dán tem thì mới gửi bưu thiếp đi được. Chắc nó đã nhét vào thùng thư trước khi bố nó biết việc nó vừa làm.
Bưu thiếp đến tay cô một tuần sau đám tang. Nợ tiền cước phí. Cô trả tiền và suốt ba giờ sau đó, cô cẩn thận lột bỏ phần nhãn dán của Dịch vụ bưu chính đã che mất một phần chữ của con trai mình.
Hai bố con vui lắm mẹ ạ. Bà và con đã nướng bánh quy.
Con nhớ mẹ. Con yêu mẹ…
Tấm thiệp từ đứa con trai đã chết của cô.
Giờ đây, nó đang nằm trong ví cô, một bức ảnh hoàng hôn lòe loẹt của vùng trung tây. Chiếc nhẫn cưới đã được cô cất trong hộp nữ trang, nhưng tấm thiệp này thì cô luôn giữ bên mình và sẽ còn mang theo đến khi chết.
Sáu tháng sau vụ tai nạn máy bay, Lukas mang bản sao của tấm thiệp tới gặp một nhà đoán tướng chữ và nhờ bà ta phân tích chữ viết của con trai cô.
Người phụ nữ ấy đã nói, “Bất kể người nào đã viết ra cái này, đó là người sáng tạo và quyến rũ. Cậu bé lớn lên sẽ đẹp trai lắm. Và thông minh nữa, không có lòng kiên nhẫn đối với sự giả dối. Cậu bé cũng đầy ắp yêu thương. Cô rất may mắn vì có được một đứa con trai như thế”.
Tốn thêm mười đô la nữa, nhà tướng học đã cho cô ghi âm lại những lời phán của bà. Cứ vài tuần, Lukas lại lắng nghe cuốn băng ấy. Cô ngồi một mình trong phòng khách tối om, châm nến, rót một hai ly rượu và nghe người ta nói con trai mình đáng lẽ sẽ thành người thế nào.
Rồi Parker Kincaid xuất hiện ở trụ sở FBI và tuyên bố bằng cái giọng ta đây biết tuốt của anh rằng đoán tướng chữ chỉ là trò vớ vẩn
Người ta cũng bói bài và gọi hồn người chết đấy thôi. Toàn lừa bịp.
Không phải ! Lúc này cô đang giận dữ với chính mình. Cô tin vào những điều người đoán tướng chữ đã nói.
Cô phải tin. Nếu không, cô sẽ phát điên mất.
Như thể cô mất đi một phần tâm trí khi cô có con. Chúng đánh cắp phần ấy và không bao giờ trả lại. Đôi khi tôi thấy thật kinh ngạc vì các bậc phụ huynh vẫn còn có thể sinh hoạt được bình thường.
Lời bình phẩm của Tiến sĩ Evans. Lúc ấy, cô đã không chấp nhận nhưng cô biết điều đó hoàn toàn đúng.
Lại còn việc Cage cứ cố gán ghép cô. Đúng là cô và Kincaid rất giống nhau. Họ đều thông minh (và cả kiêu ngạo nữa). Họ đều chịu mất mát trong cuộc sống. Cả hai đều có những bức tường bảo vệ, của anh là để ngăn nguy hiểm ở lại bên ngoài, của cô là để ngăn mình rút hẳn vào thế giới nội tâm, nơi mối nguy đáng sợ nhất tồn tại. Thế nhưng, chính bản năng giúp cô trở thành cảnh sát giỏi đã mách bảo rằng, cho dù không có lý do rõ ràng, giữa hai người sẽ chẳng có tương lai nào. Cô phải trở về với cuộc sống “bình thường” nhất có thể. Cô có con chó Jean Luc. Cô có bạn bè. Cô có đĩa CD. Có câu lạc bộ chạy việt dã. Việc khâu vá. Nhưng về mặt tình cảm, Margaret Lukas đã đến “trạng thái bình bình”, một cụm từ tồn tại trong Cục để chỉ những đặc vụ không còn cơ hội thăng tiến nào nữa.
Không, cô biết sau đêm nay, mình sẽ chẳng bao giờ gặp lại Parker Kincaid. Và việc đó hoàn toàn ổn…
Tai nghe phát ra tiếng động. “Margaret… Lạy Chúa tôi !” Đó là c. p. Ardell đang đứng chốt dưới nhà.
Lukas rút súng ra ngay lập tức.
“Anh có nghi phạm à ?”, cô thì thầm vào micro ở ve áo.
“Không” viên đặc vụ kia nói. “Nhưng chúng ta có rắc rối. Dưới này loạn hết cả lên rồi.”
Cage cũng đang lắng nghe. Tay ông hạ xuống gần vũ khí của mình trong lúc nhìn Lukas, cau mày.
c. p. nói tiếp, “Ngài thị trưởng. Ông ta tới đây với cả tá cảnh sát và đội ghi hình nữa, chết tiệt”.
“Không !”, Lukas quát, thu hút sự chú ý của đám người gần đó.
“Họ mang cả đèn chiếu sáng và đủ thứ. Tên xạ thủ mà nhìn thấy là hắn sẽ chuồn ngay. Trông không khác gì rạp xiếc.”
“Tôi xuống ngay đây !”
***
“Ngài thị trưởng, đây là chiến dịch cấp liên bang và tôi buộc phải yêu cầu ngài rời khỏi ngay lập tức.”
Họ đang ở trong bãi đỗ xe. Lukas lập tức nhận thấy cửa ra vào có điều khiển và để vào được trong này thì phải có vé. Điều đó có nghĩa là biển số xe sẽ bị ghi lại, đồng nghĩa với việc Digger có thể không đến từ lối này: Tên nghi phạm sẽ bảo hắn không được để lại bất cứ dấu vết gì trong mỗi lần tấn công. Nhưng Thị trưởng Kennedy và đoàn tùy tùng chết giẫm của ông lại hướng thẳng tới cửa chính của khách sạn, nơi ông cùng đám vệ sĩ mặc đồng phục sẽ bị tên sát nhân trông thấy ngay lập tức.
Và vì Chúa, lại còn đội quay phim nữa ư ?
Kennedy nhìn từ trên xuống Lukas. Ông cao hơn cô cả cái đầu và nói, “Cô sẽ phải đưa các vị khách ra khỏi đây. Sơ tán họ. Khi nào tên sát nhân xuất hiện, hãy để tôi nói chuyện với hắn”.
Lukas lờ ông đi và nói với c. p., “Đã có ai vào được khách sạn chưa ?”.
‘”Chưa, chúng tôi đã ngăn họ ngoài này.”
Kennedy tiếp tục, “Sơ tán ngay ! Đưa họ ra !”.
“Chúng ta không thể làm như vậy”, cô nói. “Digger sẽ biết nếu có điều gì không đúng.”
“Ít nhất cũng phải bảo họ về phòng chứ !”
“Nghĩ mà xem, ngài thị trưởng”, cô quát. “Hầu hết bọn họ không phải là khách. Họ chỉ là dân địa phương tới đây ăn tối hay dự tiệc. Họ làm gì có phòng.”
Lukas nhìn quanh lối ra vào khách sạn và con phố bên ngoài. Nó không đông lắm, các cửa hiệu đã đóng cửa nghỉ lễ hết. Cô thì thầm mạnh mẽ, “Hắn có thể ở đây bất kỳ lúc nào. Tôi sẽ phải yêu cầu ông rời khỏi đây”. Cô đã định dùng chữ “ngài”, nhưng rồi quyết định không làm thế.
“Vậy thì tôi sẽ phải vượt cấp của cô thôi. Ai là cấp trên của cô ?”
“Tôi”, Cage nói. Giờ chẳng có nhún vai gì cả. Chi còn một cái lừ mắt lạnh lùng. “Ông chẳng có thẩm quyền gì ở đây hết !”
Ngài thị trưởng quát, “Vậy thì ai là cấp trên của ông ?”.
“Một người mà ông không muốn gọi điện đâu, tin tôi đi.”
“Cứ để tôi tự đánh giá chuyện đó.”
“Không”, Lukas cứng rắn nói, liếc nhìn đồng hồ. “Ngay lúc này, Digger có thể đã ở trong tòa nhà. Tôi không có thời gian để tranh cãi với ông. Tôi muốn ông và người của ông ra khỏi đây ngay !”
Kennedy nhìn trợ lý của mình. Tên anh ta là gì nhỉ ? Jefferies, cô nghĩ vậy. Một phóng viên đang ở gần đó, ghi lại toàn bộ cuộc trao đổi.
“Tôi sẽ không để FBI mạo hiểm mạng sống của những con người này. Tôi sẽ…”
“Đặc vụ Ardell”, cô nói, “bắt giữ ngài thị trưởng”.
“Cô không thể bắt giữ ông ấy”, Jefferies quát.
“Có, cô ấy có quyền”, lúc này, Cage đã giận dữ nói, với một cái nhún vai quá nhanh. “Và cô ấy có thể bắt luôn anh đấy.”
“Đưa ông ấy ra khỏi đây”, Lukas nói.
“Nhốt không ?”
Lukas cân nhắc. “Không. Chỉ trông chừng và ngăn ông ấy không xen ngang cho đến khi chiến dịch kết thúc.”
“Tôi sẽ gọi luật sư của tôi và..”
Cơn giận dữ bùng nổ bên trong cô, mãnh liệt ngang bằng cơn giận đã khiến cô mắng mỏ Kincaid. Cô nhìn lên ông ta, xỉa một ngón tay vào ngực. “Thị trưởng, đây là chiến dịch của tôi và ông đang cản trở nó. Tôi sẽ để ông tự đi theo đặc vụ Ardell, nếu không, ông sẽ bị tống vào nhà giam. Hoàn toàn do ông quyết định.”
Có một khoảng lặng. Lukas thậm chí không hề nhìn thị trưởng; mắt cô liên tục quét qua bãi đỗ xe, vỉa hè, các chỗ khuất sáng. Không có dấu hiệu của bất kỳ ai trông có vẻ giống Digger.
Kennedy nói, “Được thôi”. Ông ta gật đầu về phía khách sạn. “Nhưng nếu đêm nay còn vụ đổ máu nào nữa, thì tất cả là lỗi tại cô.”
“Hãy lo địa hạt của mình ấy”, cô lẩm bẩm trong lúc nhớ lại mình đã đe dọa Kincaid bằng đúng những lời đó. “Đi đi, c. p.”
Đặc vụ dẫn thị trưởng về lại chiếc limo của ông ta. Hai người vào trong. Jefferies nhìn trừng trừng Lukas với vẻ thách thức trong giây lát nhưng cô đã nhanh nhẹn quay đi và cùng Cage trở vào trong khách sạn.
“Chết tiệt”, Cage nói.
“Không, tôi nghĩ là không sao đâu. Tôi không nghĩ Digger thấy được chuyện vừa rồi.”
“Ý tôi không phải vậy. Nghĩ mà xem, nếu Kennedy biết chúng ta đang ở đây, tức là chúng ta đã bị rò rỉ thông tin. Cô nghĩ là từ chỗ quái nào ?”
“Ồ, tôi biết chứ.” Cô lấy điện thoại di động và thực hiện một cuộc gọi.
“Thanh tra”, Lukas nói, vật lộn kiềm chế cơn giận của mình, “anh biết rằng thông tin về hoạt động tác chiến là bí mật. Anh có muốn cho tôi biết lý do vì sao tôi không nên báo lại chuyện anh vừa làm với Công tố viên Hoa Kỳ không ?”.
Cô tưởng Len Hardy sẽ phủ nhận hay ít nhất là biện minh gì đó về lỗi lầm hay chuyện bị lừa. Nhưng cô ngạc nhiên khi anh ta nói chắc nịch, “Cứ việc báo cáo những gì cô muốn nhưng Kennedy muốn có cơ hội thương thuyết với xạ thủ. Tôi đã cho ông ta cơ hội đó”.
‘Tại sao ?”
“Bời vì cô sẵn sàng để cho… một tá người phải chết ? Hay là hai tá nhỉ ?”
“Nếu điều đó có nghĩa là ngăn chặn được tên sát nhân thì đúng đấy, chính xác là những gì tôi sẵn sàng làm.”
“Kennedy bảo ông ấy có thể nói chuyện với hắn. Dụ hắn lấy tiền. Hắn..”
“Anh có biết ông ta xuất hiện với cả đội quay phim chết tiệt không ?”
Giọng Hardy đã không còn chắc chắn nữa, “Gì… gì cơ ?”.
“Một đội quay phim bên truyền hình. Ông ta diễn cho báo chí xem. Nếu Digger trông thấy đèn đóm, rồi cảnh sát làm vệ sĩ… hắn sẽ chuồn luôn và tìm mục tiêu khác.”
“Ông ấy nói mình chỉ muốn nói chuyện với hắn”, Hardy đáp lại. “Tôi đã không biết ông ta sẽ dùng việc ấy để PR cho chính mình.”
“À, thế mà có đấy !”
“Digger có…?”
‘Tôi không nghĩ hắn trông thấy gì đâu.”
Im lặng một lát. “Tôi xin lỗi, Margaret.” Anh ta thở dài. “Tôi chỉ muốn làm gì đó. Tôi không muốn có người phải chết nữa. Tôi rất tiếc.”
Lukas siết chặt điện thoại. Cô biết mình phải sa thải người này, loại anh ta ra khỏi đội. Có lẽ là báo cáo phàn nàn lên Sở cảnh sát Đặc khu nữa. Thế nhưng, cô lại hình dung ra cảnh một chàng trai trở về, ngôi nhà vắng lặng y như nơi mỗi tối cô vẫn phải trở về sau khi Tom và Joey qua đời, một sự im lặng đau đớn như cái tát từ tình nhân. Anh phải nghỉ lễ ở đó một mình, buộc phải trải qua thời kỳ để tang giả Emma, người vợ không còn sống nhưng cũng chưa hẳn đã chết.
Có vẻ như anh ta đã cảm nhận được phút yếu lòng của cô và nói, “Sẽ không bao giờ có chuyện như vậy nữa. Hãy cho tôi một cơ hội”.
Có ? Không ?
“Được rồi, Len. Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau.”
“Cảm ơn cô, Margaret.”
“Chúng tôi phải quay lại chỗ mai phục.”
Cô tắt điện thoại đột ngột và nếu Hardy có nói gì thêm, cô cũng sẽ chẳng bao giờ biết. Cô trở về sảnh khách sạn Ritz-Carlton.
Lukas lại nhét súng trượt xuống dưới hông một lần nữa, gài nó vào bên đùi và bắt đầu đi vòng trong đám đông. Cage gõ nhịp trên chiếc đồng hồ. Chỉ còn vài phút nữa là đến tám giờ.
***
Họ nhìn qua rào chắn vào hồ nước tối đen và nói đùa về Titanic; họ ăn tôm và bỏ lại món gan gà; họ nói chuyện về rượu, tỷ lệ lãi xuất, về các kỳ bầu cử sắp tới lẫn những vụ bê bối của Quốc hội và các bộ phim hài sitcom.
Hầu hết đàn ông đều mặc lễ phục hay áo khoác dự tiệc, đa phần phụ nữ mặc váy đen với những vạt váy chỉ cách mặt sàn bóng loáng độ vài phân.
“Tuyệt quá phải không ? Nhìn cảnh trí này”.
“Chúng ta có thấy được pháo hoa không nhỉ ?”
“Hank đi đâu rồi ? Anh ấy lấy mất bia của tôi”.
Hàng trăm người dự tiệc đang tụ tập trên chiếc du thuyền dài. Ở đây có ba boong tàu và bốn quầy bar, tất cả mọi người trong bữa tiệc tất niên đều cảm thấy rất tuyệt.
Các vị luật sư và bác sĩ có được một vài giờ bình yên, tránh xa khỏi cảnh ngộ của những thân chủ và bệnh nhân. Bố mẹ được tận hưởng chút nghỉ ngơi hiếm hoi khi không có sự hiện diện của con cái. Còn các cặp tình nhân thì nghĩ đến việc tìm một cabin trống.
“Vậy ông ta sẽ làm gì, tôi nghe nói ông ta sẽ tranh cử nhưng các cuộc trưng cầu tệ lắm, sao ông ta không, ồ, thế còn Salley Claire Tom, họ có lấy được chỗ ở Warrenton thật không, chà, tôi không biết làm sao anh ta mua nổi nó..
Từng phút trôi qua và thời gian dần trôi về đúng tám giờ.
Tất cả mọi người đều hạnh phúc.
Những con người lịch lãm tận hưởng bữa tiệc cùng sự bầu bạn của những người xung quanh.
Cảm kích vì tầm nhìn để có thể ngắm đợt bắn pháo hoa vào thời khắc Giao thừa, cảm kích vì cơ hội được chúc tụng và tránh xa những áp lực của thủ đô trong một đêm.
Cảm kích vì những tiện nghi được thủy thủ đoàn và nhà bếp chu cấp cho họ trên chiếc du thuyền sang trọng Ritzy Lady. Nó đang đường hoàng ngự trên bến tàu nơi dòng sông Potomac, cách cầu phố Fourteonth chính xác hai dặm về phía nam.