‘Từng pixel một.
Nhìn các hình ảnh trượt vào chỗ của chúng trên màn hình của Tobe Geller, vẫn còn vụn vỡ lắm.
Margaret Lukas đi đi lại lại, nghĩ về trò đảo chữ, về đống tro. Về Parker Kincaid.
Khi về đến nhà, anh sẽ làm thế nào để an ủi con trai ? Anh có ôm nó không ? Đọc truyện cho nó nghe ? Xem ti vi cùng nó ? Anh có phải một ông bố chịu nói chuyện với con về vấn đề của chúng ? Hay anh sẽ cố đánh lạc hướng thằng bé, để đưa tâm trí nó thoát ra khỏi nỗi sợ ? Mang quà cho nó để hối lộ ?
Cô không hề biết. Tất cả những gì Margaret Lukas biết là cô muốn Kincaid trở lại đây ngay, đứng gần bên cô.
À, thực ra chỉ một phần trong cô muốn vậy. Phần kia thì muốn anh không bao giờ trở lại, cứ việc trốn mãi trong pháo đài nhỏ ở vùng ngoại ô của anh. Cô có thể…
Không, không… Thôi nào. Tập trung.
Lukas quay sang Tiến sĩ Evans, nhìn ông ta nghiên cứu bức thư tống tiền một cách tỉ mỉ, vừa làm vừa xoa hàm ria lởm chởm. Đôi mắt xanh của ông ta không khiến người khác yên tâm và cô quyết định rằng mình chẳng hề muốn có một bác sĩ tâm lý như thế này. Ông ta rót thêm cà phê từ bình ủ ra, rồi tuyên bố, “Tôi có vài suy nghĩ về tên nghi phạm này”.
“Nói xem”, cô bảo ông ta.
“Cần phải biết hoài nghi chứ”, vị tiến sĩ cảnh báo. “Để làm việc này một cách đúng đắn, tôi cần thêm cả đống dữ liệu nữa cùng hai tuần để phân tích.”
Lukas nói, “Đó là cách chúng tôi làm việc. Trao đổi các ý tưởng. Chúng tôi sẽ không bắt ông phải chịu trách nhiệm đâu”.
‘Tôi nghĩ, từ những gì đã thấy, tên Digger này chỉ là một cỗ máy. Chúng tôi gọi loại như hắn là ‘phản tâm lý’. Phân tích hắn chỉ vô dụng thôi. Chẳng khác nào dựng hồ sơ của một khẩu súng. Nhưng tên nghi phạm trong nhà xác thì lại là một câu chuyện khác. Cô có biết bọn tội phạm có tổ chức không ?”
“Tất nhiên”, Lukas nói. Bài học tâm lý tội phạm số một trăm lẻ một.
“À, tên này là một loại cực kỳ có tổ chức.”
Đôi mắt Lukas lang thang tơi chỗ bức thư khi Evans bắt đầu mô tả kẻ đã viết nên nó.
Vị tiến sĩ tiếp tục, “Tên nghi phạm lên kế hoạch mọi thứ một cách hoàn hảo. Thời gian, địa điểm. Gã biết rõ bản chất con người, chẳng hạn gã biết ngài thị trưởng sẽ chịu trả tiền, mặc dù hầu hết các nhà cầm quyền khác sẽ không làm như vậy. Gã luôn có kế hoạch B của kế hoạch B. Ấy là tôi đang nghĩ đến vụ đánh bom ở nhà trú ẩn. Và gã đã tìm được một vũ khí tuyệt hảo: Digger, một con người bằng xương bằng thịt chỉ biết đến giết chóc. Gã đã tiến hành một vụ việc không tưởng và có thể sẽ trốn thoát nếu không chết trong tai nạn kia”.
“Chúng tôi có cả tá bằng chứng, nên tôi nghĩ nghi phạm sẽ chẳng thoát được đâu”, Lukas chỉ ra.
“Ồ”, Evans nói, “tôi cá là gã có cả kế hoạch để phản pháo vụ đó nữa”.
Lukas nhận ra có thể ông ta nói đúng.
Vị tiến sĩ nói tiếp, “Hiện tại, gã đòi hai mươi triệu. Và sẵn sàng giết hàng trăm người để có được nó. Gã không phải loại tội phạm gia tăng mức độ nhưng đúng là gã đã tăng tiền cược lên bởi vì gã biết, à, tin tưởng, rằng mình thoát được. Gã tin rằng mình giỏi, và đúng là gã giỏi thật. Nói một cách khác, sự kiêu ngạo của gã được tài năng chống lưng”.
“Làm tên khốn càng nguy hiểm hơn”, c. p. gầm gừ.
“Chính xác. Không hề có tính thùng rỗng kêu to để làm gã thất bại. Gã thông minh thật…”
“Kincaid nói rằng nghi phạm là kẻ có học thức”, Lukas nói, lại một lần nữa mong ước nhà giám định tài liệu đang có mặt ở đây để cùng trao đổi các ý tưởng. “Gã đã cố ngụy trang chuyện đó trong bức thư nhưng Parker có thể nhìn thấu ngay”.
Evans gật đầu từ tốn trước thông tin này. Rồi ông ta hỏi, “Nghi phạm đang mặc gì khi người ta đưa gã vào nhà xác ?”.
c. p. tìm được danh sách và đọc lên cho tiến sĩ nghe.
Evans tổng kết, “Vậy là, quần áo rẻ tiền ?”.
“Vâng.”
“Không chính xác là những thứ mà các bạn trông đợi sẽ tìm được ở một kẻ đa mưu túc trí đến mức dựng nên toàn bộ chuyện này rồi đòi hai mươi triệu tiền chuộc.”
“Chính xác”, Cage nói.
“Điều đó có ý nghĩa gì ?”, Lukas hỏi.
“Tôi thấy có vấn đề về giai cấp ở đây”, Evans giải thích. “Tôi nghĩ nghi phạm thích giết người giàu, người có vai vế hơn. Gã tự cho là mình tốt hơn bọn họ. Kiểu người hùng trong đám thường dân.”
Hardy chỉ ra, “Nhưng ở vụ đầu tiên gã đã cho Digger tàn sát tất cả mọi người, không chỉ những người giàu”.
Evans nói, “Hãy cân nhắc xem vị trí là ở đâu. Dupont Circle. Yuppieville ở đó. Chưa tới khu đông nam. Còn Nhà hát Mason ? Vé xem ba lê chắc phải đến sáu trăm đô một tấm. Còn địa điểm thứ ba nữa”, Evans nhắc. “Four Seasons. Mặc dù chúng không tấn công nhưng đã dẫn dụ ta tới đó. Nghi phạm hẳn quen thuộc nơi ấy. Và nó rất cao cấp”.
Lukas gật đầu. Đến bây giờ thì chuyện ấy mới có vẻ trở nên quá hiển nhiên và cô thấy buồn vì mình không nhận ra sớm hơn. Cô lại nghĩ về Parker, về cách anh tiếp cận các câu đố. Nghĩ thật bao quát. Mặc dù vậy, việc đó đôi khi rất khó khăn.
Tập trung nào…
“Tôi nghĩ gã tức giận với những người giàu có. Với những tinh hoa của xã hội.”
“Tại sao ?”, Cage hỏi.
‘Tôi chưa biết được. Dựa vào các dữ kiện chúng ta đã có thì không. Nhưng đúng là nghi phạm rất ghét họ. Đầu gã ngập tràn hận thù. Và chúng ta nên nhớ kỹ điều đó khi tìm kiếm mục tiêu tiếp theo của gã.”
Lukas đưa tấm ảnh chụp nghi phạm trong nhà xác lại gần mình và nhìn chằm chằm.
Gã đã nghĩ gì trong đầu nhỉ ? Động cơ của gã là gì?
Evans liếc cô và khẽ cười.
“Sao nào ?”, Lukas hỏi.
Ông ta gật đầu về phía bức thư. “Tôi có cảm giác như mình đang phân tích nó. Cứ như nó mới là hung thủ.”
Cô cũng có cảm nghĩ y hệt.
Chính xác như những gì Parker Kincaid từng nói.
Tập trung nào…
“Chờ đã, mọi người”, Geller nói. “Chúng ta có gì này.” Mọi người đều vươn mình tới chỗ màn hình để xem các chữ ‘hai dặm về phía nam. – Ri..”.
Đằng sau cụm từ ấy, máy tính đang điền các tổ hợp chữ cái khác nhau thu được từ mảnh tro. Nó sẽ tự động loại trừ nếu nét bút của một chữ cái không khớp với nét của chữ bên trái nó. Nhưng hệ thống đang dần điền thêm một chữ cái i vào đằng sau chữ R. Một chữ nữa đang thành hình sau đó.
“Lại là chữ i kỳ cục với cái chấm như Parker đã kể”, Geller nói.
“Giọt lệ quỷ”, Lukas thì thầm.
“Đúng vậy”, Geller nói. “Rồi sau đó là… một chữ cái. Có phải chữ t không nhỉ ? Nước mắt chết tiệt, tôi chẳng thấy gì cả.”
“Đúng rồi”, Lukas nói. “Chắc chắn là chữ t. R-i-t
“Chữ tiếp theo là gì đấy ?”, Hardy hỏi và vươn người về phía màn hình.
“Tôi không đọc được”, Lukas lầm bẩm. “Mờ quá. Một chữ cái ngắn, không có bất kỳ, Parker gọi chúng là gì nhỉ, thân trên hay thân dưới thì phải”.
Cô vươn người qua vai chàng kỹ thuật viên. Mùi khói từ người cậu ta vẫn rất nồng. Trên màn hình, các chữ cái rất mờ nhạt nhưng đúng là có một chữ ii và một chữ t. Tuy nhiên, chữ tiếp theo thì mờ tịt.
“Chết tiệt”, Geller lẩm bẩm. “Máy tính nói rằng chữ cái ấy phù hợp. Các nét mực khớp nhau. Nhưng tôi chẳng nhận ra nổi. Có ai nhìn rõ hơn tôi không ?”
“Trông như là hình dích dắc hay gì đó”, Lukas nói.
Đầu Cage ngẩng phắt lên. “Dích dắc à ? Hay chữ z ?”
“Ritz !”, Hardy buột kêu. “Có thể là Ritz-Carlton không ?”
“Chắc là nó rồi !”, Lukas nói và gật đầu với Evans. “Nghi phạm nhắm vào những người giàu có hơn mà.”
“Đúng rồi !”, Evans nói. “Và cũng hợp lý lắm, cứ theo cái cách gã thích dắt mũi chúng ta thì gã hẳn nghĩ rằng chúng ta sẽ loại trừ các khách sạn vì gã đã dùng mẹo ấy một lần rồi.”
Trên chiếc ghế văn phòng, Geller xoay người sang một máy tính khác. Trong vòng năm giây, cậu ta đã có danh bạ Những trang vàng trên màn hình. “Có hai khách sạn Ritz trong khu vực. Một ở phố Tysons Comer. Cái còn lại ở Pentagon City.”
Lukas nói, “Parker đã bảo nghi phạm sẽ bám lấy Đặc khu. Tôi đặt cược cho Pentagon City”.
Cô gọi cho Jerry Baker và nói với anh ta mục tiêu mới nhất. “Tôi muốn huy động tất cả các đặc vụ tác chiến trong Đặc khu và Bắc Virginia. Cử một đội tối thiểu tới Tysons.” Cô nói thêm, “Anh sẽ không thích đâu nhưng lần này không mũ giáp gì cả”.
Ý cô là: không đội mũ trùm đầu Nomex và mang mũ bảo hiểm Kevlar, cách nói vắn tắt trong Cục hàm ý mặc thường phục.
“Cô chắc không ?”, Baker nghi ngại hỏi. Khi các sĩ quan vận thường phục để làm nhiệm vụ chìm, họ không thể mặc quá nhiều giáp hộ thân như trong các hoạt động tác chiến công khai được. Việc ấy sẽ mang lại nguy hiểm gấp bội, đặc biệt là khi tội phạm được trang bị vũ khí hiện đại.
“Bắt buộc phải thế, Jerry. Lần trước, chúng ta đã suýt tóm được Digger, hắn sẽ bất an như một con nai. Nhìn thấy gì khác thường là hắn lẩn ngay. Tôi sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm”.
“Được rồi, Margaret. Tôi tiến hành đây.”
Cô tắt máy.
Len Hardy nhìn cô chằm chằm. Đột nhiên, khuôn mặt anh ta có vẻ già dặn và đanh thép hơn. Cô tự hỏi có phải anh ta sắp tiếp cận mình một lần nữa để xin vào đội tác chiến. Nhưng anh ta lại hỏi, “Cô đang điều hành một chiến dịch thường phục ?”.
“Đúng vậy. Có vấn đề gì sao, thanh tra ?” “Như thế có nghĩa là cô sẽ không sơ tán khách sạn ?”
“Không”, cô trả lời.
“Nhưng sẽ có cả ngàn người ở đó đêm nay.”
Lukas nói, “Nó phải mở cửa như bình thường. Digger không được phép nghi ngờ gì hết”.
“Nhưng nếu hắn vượt mặt được chúng ta… Ý tôi là, thậm chí chúng ta còn không chắc trông hắn như thế nào.”
‘Tôi biết rồi, Len.”
Anh ta lắc đầu, “Cô không thể làm vậy”.
“Chúng ta không còn lựa chọn nào khác.”
Thanh tra cảnh sát nói, “Cô biết tôi làm nghề gì mà, tôi gom nhặt các số liệu. Cô có muốn biết bao nhiêu người qua đường thiệt mạng trong các chiến dịch tác chiến công khai không ? Dễ có đến tám mươi phần trăm nguy cơ thiệt mạng đối với người vô tội nếu cô cố hạ hắn trong một tình huống như thế này”.
“Thế anh định tính sao ?”, cô quát lại, để anh ta thấy một phần cơn giận của mình.
“Cứ để người của cô mặc thường phục nhưng hãy đưa tất cả khách khứa ra ngoài. Để lại nhân viên nếu nhất thiết phải thế, chỉ việc đưa những người còn lại ra.”
“Khá lắm chúng ta chỉ có khoảng năm đến sáu mươi đặc vụ vào trong khách sạn”, cô chỉ ra. “Digger bước vào cửa chính, trông đợi sẽ thấy khoảng năm trăm khách, và hắn tìm được cái nhúm ấy ? Hắn sẽ lùi ngay và tới một nơi khác để xả súng”
“Vì Chúa. Margaret”, Hardy lẩm bẩm, “ít nhất cũng phải đưa bọn trẻ ra chứ ?”
Lukas chìm vào im lặng, mắt vẫn dán vào lá thư.
“Làm ơn”, thanh tra nài nỉ.
Cô nhìn vào mắt anh ta. “Không. Nếu chúng ta cố sơ tán bất kỳ một ai, tin tức sẽ lan ra ngoài và mọi người sẽ hoảng loạn.”
“Vậy là cô chỉ còn biết cầu nguyện cho điều tốt đẹp nhất ?”
Cô liếc nhìn lá thư đòi tiền chuộc.
Kết thúc là đêm.
Dường như nó đang cười nhạo cô.
“Không”, Lukas nói. “Chúng ta sẽ ngăn cản được hắn. Đó là việc chúng ta sẽ làm.” Một cái liếc mắt về phía Evans, “Tiến sĩ, ông ở lại đây nhé”. Rồi một cái liếc mắt khác cho Hardy. “Anh phụ trách liên lạc.”
Hardy thở dài giận dữ. Anh ta không nói gì.
“Đi thôi”, Lukas nói với Cage. “Tôi phải ghé qua văn phòng.”
“Để làm gì ?” Cage hỏi, gật đầu với bao súng trống không của cô. “Ồ, thêm trợ giúp à ?”
“Không, để lấy quần áo dự tiệc. Chúng ta phải hòa nhập vào đám đông chứ.”
“Anh ta có tin tốt cho chúng ta.” Wendell Jefferies tuyên bố, hai ống tay chiếc áo mi được đặt may riêng gập lên cao, để lộ những canh tay cơ bắp.
“Anh ta” ở đây tức là Slade Phillips, Thị trưởng Kennedy hiểu như vậy.
Hai người đang ở trong văn phòng Tòa thị chính. Ngài thị trưởng vừa mới tiến hành một cuộc họp báo đáng hổ thẹn nữa, thành phần tham dự chỉ có khoảng một tá phóng viên, mà thậm chí ngay lúc ông đang nói, vẫn cứ nghe điện thoại và kiểm tra máy nhắn tin để hy vọng chộp được tin gì hay ho hơn từ những nguồn khác. Ai có thể đổ lỗi cho họ ? Chúa ơi, ông chẳng còn gì để nói. Tất cả những gì ông nêu ra được chỉ là tình trạng tinh thần của vài nạn nhân mình đã tới thăm ở các bệnh viện.
“Anh ta sẽ lên sóng lúc chín giờ”, Jefferies nói với ngài thị trưởng. “Một bản tin đặc biệt”
“Với cái gì ?”
“Anh ta không chịu nói”, Jefferies đáp. “Vì lý do gì đó anh ta nghĩ như vậy là vi phạm đạo đức nghề nghiệp.”
Kennedy vươn vai và ngả người ra sô pha, thứ đồ nhái thời Georgia mà người tiền nhiệm của ông đã mua về. Ở khâu hoàn thiện, hai tay ghế đã bị xước. Còn cái ghế quỳ ông đang kê đôi giày cỡ mười hai lên thì rất rẻ tiền; chỉ là một tấm bìa các tông gập lại và nhồi dưới một bên chân để giữ nó đứng vững.
Ông liếc nhìn chiếc đồng hồ bằng đồng.
Thưa ngài thị trưởng, cảm ơn ngài rất nhiều vì đã tới nói chuyện với chúng cháu ngày hôm nay. Được nghe ngài nói là một niềm vinh dự. Ngài là người rất tử tế đối với học sinh, sinh viên như chúng cháu và chúng cháu muốn được tưởng… tưởng… tưởng nhớ chuyến thăm của ngài bằng một món quà, chúng cháu hy vọng ngài sẽ thích…
Kim phút tiến tới một khắc. Trong vòng một tiếng nữa, ông nghĩ, sẽ có bao nhiêu người nữa phải thiệt mạng ?
Điện thoại kêu. Kennedy thờ ơ liếc nhìn nó và để Jefferies trả lời.
“Xin chào ?”
Rồi anh ta im lặng.
“Chắc chắn rồi. Chờ máy nhé.” Anh ta vừa đưa ống nói cho Kennedy vừa bảo, “Chuyện này thú vị đấy !”.
Ngài thị trưởng cầm lấy điện thoại. “Vâng ?”
“Thị trưởng Kennedy ?”
“Đúng vậy.”
“Tôi là Len Hardy.”
“Thanh tra Hardy ?”
“Đúng vậy. Có… có ai khác đang nghe không ?”
“Không. Đây là đường dây riêng của tôi.”
Thanh tra cảnh sát ngập ngừng một chút rồi nói “Tôi đang nghĩ… Về điều chúng ta đã nói với nhau”.
Kennedy ngồi thẳng dậy, bỏ chân xuống khỏi ghế sô pha.
“Nói tiếp đi, con trai. Cậu đang ở đâu ?”
“Phố Ninth. Trụ sở FBI.”
Một khoảng im lặng. Ngài thị trưởng khuyến khích, “Tiếp tục đi !”.
“Tôi không thể ngồi đây thêm được nữa. Tôi phải làm điều gì đó. Tôi nghĩ cô ấy đang phạm một sai lầm.”
“Lukas à ?”
Hardy nói tiếp, “Họ đã tìm ra nơi hắn định tấn công tiếp theo đêm nay. Tên Digger ấy”.
“Thế à ?” Bàn tay khỏe mạnh của Kennedy tóm chặt điện thoại. Ra hiệu cho Jefferies đưa cho ông một cái bút và tờ giấy. “Ở đâu ?”
“Khách sạn Ritz-Carlton.”
“Cái nào ?”
“Họ không chắc. Có thể ở Pentagon City… Nhưng, ngài thị trưởng, cô ấy đã không cho sơ tán.”
“Cô ta làm gì ?”, Kennedy quát.
“Lukas không sơ tán khách sạn. Cô ấy…”
“Chờ đã”, Kennedy nói. “Họ biết hắn sắp tấn công vào đâu mà cô ta không nói với ai ư ?”
“Không, cô ấy sẽ dùng khách khứa làm mồi nhử. Ý tôi là, đó là cách duy nhất để nói về chuyện đó. Dù thế nào, tôi cũng đã nghĩ về những gì ông bảo. Tôi quyết định phải gọi cho ông.”
“Cậu đã làm đúng, thanh tra ạ.”
“Tôi hy vọng thế, thật sự hy vọng thế. Tôi không thể nói chuyện lâu hơn, thị trưởng. Tôi chỉ muốn thông báo cho ông biết.”
“Cảm ơn cậu.” Jerry Kennedy cúp máy và đứng dậy.
“Có chuyện gì ?”, Jefferies hỏi.
“Chúng ta đã biết hắn sẽ tấn công vào đâu. Khách sạn Rite. Gọi Reggie đi, tôi muốn ô tô của mình ngay bây giờ. Và có cả cảnh sát hộ tống.”
Trong lúc ông lao ra cửa, Jefferies lại hỏi, “Thế còn báo chí ?”.
Kennedy liếc nhìn trợ thủ. Ý nghĩa của cái nhìn không thể nhầm vào đâu được. Nó nói: Tất nhiên, chúng ta cần tới báo chí rồi.
***
Cả hai đang đứng khá kỳ quặc, bên cạnh nhau, bốn cánh tay đều khoanh trước ngực, trong phòng trọ của Digger.
Cả hai đều đang xem ti vi.
Buồn cười thật.
Những hình ảnh trên ti vi trông rất quen thuộc với Digger.
Ti vi đang chiếu cảnh nhà hát. Nơi mà đáng lẽ ra hắn phải xoay một vòng như hồi ở trong rừng tại Connecticut và xả đạn vào cả triệu chiếc lá. Nơi hắn đã muốn xoay vòng, nơi đáng lẽ hắn phải làm như vậy, nhưng lại không thể.
Nhà hát nơi mà… click… nơi cái người đáng sợ với quai hàm to và chiếc mũ cao đã lao tới bắt hắn. Không, thế không đúng…. Đó là nơi cảnh sát tới để bắt hắn.
Hắn nhìn thằng bé trong lúc nó đang xem ti vi. Thằng bé nói, “Chết tiệt !”. Nhưng có vẻ chẳng vì lý do gì.
Y như Pamela.
Digger gọi vào hòm thư thoại của mình và nghe giọng điện tử của một người phụ nữ nói, “Bạn không có tin nhắn mới”.
Hắn cúp máy.
Digger không có nhiều thời gian. Hắn nhìn đồng hồ. Thằng bé cũng nhìn đồng hồ của hắn.
Nó vừa gầy vừa yếu. Khu vực quanh mắt phải hơi sẫm hơn nước da đậm màu của nó và Digger biết rằng người đàn ông hắn vừa giết đã đánh thằng bé rất nhiều lần. Hắn nghĩ hắn vui vì đã bắn chết gã kia. Cho dù vui nghĩa là gì.
Digger tự hỏi người chỉ dạy hắn mọi điều sẽ nghĩ gì về thằng bé. Đúng là anh ta đã bảo hắn phải giết bất kỳ ai nhìn vào mặt mình. Còn thằng bé thì đã nhìn rồi. Nhưng có vẻ như… click… có vẻ như… không đúng lắm khi giết nó.
Tại sao, với tôi, dường như mỗi ngày, tôi đều yêu em nhiều hơn.
Hắn đi vào trong bếp và mở một hộp xúp. Múc một ít ra bát. Rồi nhìn cánh tay gầy gò của thằng bé và múc thêm chút nữa. Mỳ. Chủ yếu là mỳ. Hắn hâm lại xúp trong lò vi sóng đúng sáu mươi giây – đó là lời chỉ dẫn để làm cho xúp “sôi sùng sục”. Hắn đặt cái bát trước mặt thằng bé. Đưa cho nó cái thìa.
Thằng bé ăn một miếng. Rồi một miếng nữa. Nó không thể ngừng ăn. Nó nhìn vào màn hình ti vi. Cái đầu nhỏ hình viên đạn cứ quay từ bên này sang bên kia, mắt nó trĩu xuống và Digger nhận ra thằng bé bị mệt. Mắt và đầu của Digger cũng như thế mỗi khi hắn mệt.
Hắn và thằng bé giống nhau thật, hắn quyết định.
Digger chỉ về giường. Nhưng thằng bé chỉ sợ hãi nhìn hắn mà không phản ứng gì. Digger chỉ vào ghế sô pha và thằng bé đứng lên rồi bước đến chỗ ghế. Nó nằm xuống, vẫn nhìn chằm chằm ti vi. Digger lấy một cái chăn và đắp ngang người nó.
Digger nhìn ti vi. Lại thêm tin tức. Hắn tìm được một kênh chiếu quảng cáo. Bán hamburger, ô tô và bia.
Những thứ đại loại thế.
Hắn nói với thằng bé, “Tên…”. Click… “Tên cháu là gì ?”
Thằng bé nhìn lại hắn bằng đôi mắt đã trĩu xuống một nửa. “Tye.”
“Tye.” Digger nhắc lại vài lần với chính mình. “Ta sắp… sắp ra ngoài.”
“Nhưng ông có quay lại không ?”
Ý nó là gì nhỉ ? Digger lắc đầu, cái đầu với một chỗ lõm rất nhỏ phía trên thái dương.
“Ôngcóquaylạikhông ?”, thằng bé lại thì thầm.
“Ta sẽ quay lại.”
Thằng bé nhắm mắt.
Nguyên văn: Butyourebeback ? (Ám chỉ cậu bé nỏi líu ríu vào nhau khiến Digger không nghe rõ.)
Hắn cố nghĩ thêm điều gì để nói với Tye. Có vài từ hắn cảm thấy mình rất muốn nói ra nhưng không nhớ nổi chúng. Dù sao cũng chẳng còn là vấn đề nữa vì thằng bé đã ngủ thiếp đi rồi. Digger kéo cái chăn lên cao hơn.
Hắn bước đến tủ quần áo, mở khóa và lấy ra một trong mấy hộp đạn. Hắn đi găng tay cao su, nạp hai băng đạn vào khẩu Uzi rồi lắp lại ống giảm thanh. Và khóa tủ.
Thằng bé vẫn đang ngủ. Digger có thể nghe thấy tiếng nó thở.
Digger nhìn cái túi hình chó con đã bị rách. Hắn định vò nát nó rồi ném đi, nhưng bỗng nhớ lại lúc Tye nhìn cái túi với vẻ thích thú. Thằng bé thích cún con. Digger vuốt phẳng cái túi và đặt nó bên cạnh thằng bé để nếu nó tỉnh dậy trong lúc Digger ra ngoài, nó sẽ nhìn thấy bọn chó con và chẳng còn sợ hãi.
Digger không cần cái túi hình chó con nữa.
“Lần thứ ba hãy dùng một cái túi nâu bình thường”, người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã dặn.
Và thế là Digger mua một cái túi màu nâu.
Thằng bé xoay người nhưng vẫn ngủ.
Digger đặt khẩu Uzi vào trong chiếc túi nâu, mặc áo khoác tối màu của mình và đeo găng tay vào rồi rời khỏi phòng.
Ở dưới nhà, hắn bước vào ô tô, một chiếc Toyota Corolla rất xinh xắn.
Hắn yêu thích các quảng cáo.
Ôi, mỗi ngày người ta…
Hắn thích câu đó hơn câu.
Ôi, thật là một cảm giác…
Digger biết lái xe. Hắn là một tài xế giỏi. Hắn từng lái xe cùng Pamela. Nàng lái xe rất nhanh còn hắn thì lái rất chậm. Nàng có nhiều vé phạt tốc độ, còn hắn thì chưa từng có bao giờ.
Hắn mở hộp đựng găng. Có mấy khẩu súng ngắn bên trong. Hắn lấy ra một khẩu và nhét vào túi. “Sau nhà hát”, người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã cảnh báo, “sẽ có thêm nhiều cảnh sát tìm kiếm anh. Anh phải thật cẩn thận. Nhớ là, nếu ai nhìn thấy mặt anh..”. Tôi nhớ rồi.
***
Trên tầng, trong phòng của Robby, Parker đang ngồi với con trai. Thăng bé ngồi trên giường còn Parker thì ngồi trên chiếc ghế xích đu anh đã mua ở tiệm Đồ cổ và Mọi thứ, cũng từng cố sửa lại nó nhưng không thành công.
Hai tá đồ chơi đang nằm trên sàn, một chiếc máy Nintendo 64 cắm vào màn hình ti vi cũ, áp phích Chiến tranh giữa các vì sao thì dán khắp tường. Luke Skywalker. Cả Darth Vader…
Vật cầu may của chúng ta đêm nay.
Cage đã nói vậy. Nhưng Parker đang cố không nghĩ đến Cage. Hay Margaret Lukas. Hay Digger. Anh đang đọc truyện cho con trai nghe. Truyện Anh chàng Hobbit.
Robby chìm đắm trong câu chuyện cho dù nó đã được bố đọc cho nghe vô số lần. Hai bố con luôn bị hút về phía cuốn sách này mỗi khi Robby thấy sợ hãi, đặc biệt là đoạn giết con rồng tàn bạo. Phần đó của cuốn sách luôn khiến thằng bé dũng cảm hơn.
Khi anh bước qua ngưỡng cửa nhà mình một lúc trước, cả khuôn mặt thằng bé đã trở nên sáng rỡ. Parker đã nắm tay Robby và hai bố con cùng đi ra hiên sau. Anh kiên nhẫn cho thằng bé thấy thêm một lần nữa là chẳng có kẻ đột nhập nào ở sân hay gara. Họ đã quyết định rằng ông Johnson già cả, lú lẫn lại để xổng con chó của mình ra ngoài vì quên đóng cổng rào.
Stephie cũng ôm bố và hỏi bạn của anh sao rồi, người bị ốm ấy.
“Chú ấy khỏe”, Parker nói, dù đã tìm kiếm nhưng không kiếm nổi một mẩu sự thật nào để níu kéo câu tuyên bố ấy. Ôi, cảm giác tội lỗi của bậc cha mẹ… Nó mới đau xót làm sao !
Stephie đã nhìn theo đầy cảm thông khi Robby và Parker trèo lên gác đọc sách. Nếu là vào lúc khác con bé sẽ đi cùng bố và anh mình, nhưng bản năng của nó lúc này lại biết rằng nên để họ ở riêng với nhau. Điều anh đã học được về lũ trẻ nhà mình: Chúng xích mích với nhau như những đứa trẻ con khỏe mạnh khác, cố tranh giành ảnh hưởng của nhau, ẩu đả lẫn nhau theo kiểu anh chị em. Thế nhưng khi có điều gì đó làm ảnh hưởng tới tâm trí của một đứa, giống như Người chèo thuyền, thì bản năng luôn mách bảo đứa kia sẽ cần phải làm gì. Con bé biến mất vào trong bếp và nói, “Con sẽ làm cho Robby món tráng miệng bất ngờ”.
Trong lúc đọc, thi thoảng anh có liếc nhìn sắc mặt con. Đôi mắt thằng bé nhắm lại và nó có vẻ hoàn toàn hài lòng. (Trong cuốn cẩm nang ghi: “Đôi khi việc của bạn không phải là nói lý lẽ hay dạy bảo các con, hay thậm chí là nêu gương người trưởng thành mẫu mực. Bạn chỉ cần ở bên chúng. Thế là đủ”.)
“Con muốn ba đọc tiếp không ?”, anh thì thầm.
Thằng bé không trả lời.
Parker để sách lên đùi và tiếp tục ngồi trên cái ghế xích đu xập xệ, khẽ đưa đi đưa lại. Và ngắm con trai.
Vợ của Thomas Jefferson, bà Martha, đã chết không bao lâu sau khi sinh hạ đứa con gái thứ ba của họ (cô bé cũng chết năm lên hai). Jefferson chẳng bao giờ tái hôn mà chỉ vật lộn với việc nuôi dạy hai cô con gái còn lại. Là một chính trị gia và nhà lãnh đạo, ông bị buộc phải làm người cha vắng mặt thường xuyên, điều đó khiến ông ghét cay ghét đắng. Chính những lá thư đã giúp ông giữ liên lạc với các con. Ông viết hàng ngàn trang cho các cô con gái, phân phát sự ủng hộ, lời khuyên, phàn nàn và cả tình yêu. Parker hiểu rõ Jefferson như chính cha mình và có thể đọc thuộc lòng nhiều lá thư của ông. Lúc này, anh đang nghĩ về một bức trong số đó, được viết hồi Jefferson còn làm phó tổng thống và đang đứng trước một trận chiến chính trị khốc liệt giữa các đảng phái đối thủ thời đó.
Ngắm nhìn con trai, lắng nghe tiếng con gái loảng xoảng xoong nồi dưới bếp, anh bỗng thấy lo lắng, như vẫn thường thấy thế, rằng liệu mình có đang nuôi dạy các con đúng cách không.
Đã biết bao lần anh nằm trằn trọc giữa đêm khuya để lo lắng về điều ấy.
Rốt cuộc, anh đã chia cách hai con với mẹ chúng. Dẫu tòa án cùng hầu hết bạn bè của anh (và cả bạn bè của Joan) đều đồng tình rằng đó là điều đúng đắn nhất cần làm, thì anh cũng chẳng thấy có gì khác. Anh đã không trở thành một ông bố đơn thân vì thói tật của Thần chết giống như Jefferson; không, Parker đã tự mình quyết định chuyện đó.
Nhưng đó có thực là vì lũ trẻ ? Hay là vì anh muốn thoát khỏi sự bất hạnh của chính mình ? Điều đó thường xuyên dằn vặt anh. Trước khi cưới, Joan ngọt ngào biết bao, quyến rũ biết bao. Nhưng giờ anh nhận ra hầu hết những điều đó đều chỉ là giả tạo. Thực tế, cô ta là một người khó gần và tính toán chi li. Tính khí cô ta thật thất thường: Đôi lúc vui tươi, nhưng lắm khi lại lên cơn giận dữ và nghi ngờ, hoang tưởng suốt nhiều ngày liền.
Hồi mới gặp Joan, anh đang bắt đầu hiểu ra rằng cuộc sống sẽ khác đến nhường nào nếu bạn mất cha mẹ từ khi mình còn trẻ. Khu vực phi quân sự giữa bạn và cái chết sẽ biến mất. Bạn sẽ tìm kiếm một người bạn đời hoặc ai đó chăm lo cho bạn, và trong trường hợp của Parker là ai đó để bạn chăm sóc.
Anh không nghĩ như thế là tốt nhất hay sao ? Không ai phải chăm sóc ai cả ? Đấy là quy tắc. Hãy ghi lại đi.
Vậy nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi anh tìm kiếm một người phụ nữ dù xinh đẹp và quyến rũ nhưng một phần nào đó lại nhõng nhẽo và yếu đuối.
Đương nhiên, chẳng bao lâu sau khi bọn Who ra đời, khi cuộc sống hôn nhân của họ bắt đầu đòi hỏi những trách nhiệm và đôi lúc chỉ còn lại lao động vất vả lẫn sự hy sinh, Joan đã đầu hàng cảm giác bất mãn cùng những cơn mưa nắng thất thường của minh.
Parker thử mọi thứ mình nghĩ ra được. Anh cùng cô tới gặp nhà tâm lý, đảm nhận quá nửa phần công việc chăm sóc lũ trẻ, cố trêu đùa để cô bớt ủ dột, lên kế hoạch các bữa tiệc, đưa cô đi nghỉ, nấu ăn cho cả nhà.
Nhưng trong số tất cả những điều bí mật Joan che giấu anh là tiền sử gia đình nghiện rượu, anh đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra cô ta uống nhiều hơn anh tưởng. Đôi lúc, cô ta cũng áp dụng quy trình mười hai bước và cố thử các biện pháp được tư vấn. Nhưng rồi cô ta luôn sa ngã.
Cô ta ngày càng xa cách với anh và bọn trẻ, lấp dầy thời gian của mình bằng các thú vui cùng những sở thích nhất thời. Đi học lớp nấu ăn đặc biệt, mua xe thể thao, mua sắm bốc đồng, tập luyện như vận động viên Olympic ở một câu lạc bộ xa xỉ (nơi cô ta gặp người chồng tương lai Richard). Nhưng cô ta luôn bỏ giữa chừng; khiến anh và lũ trẻ phải chịu đựng quá đủ.
Rồi đến vụ việc ấy.
Tháng Sáu, bốn năm về trước.
Parker từ chỗ làm ở phòng Thí nghiệm Tài liệu của Cục về và phát hiện Joan đã bỏ đi, cô vú em đang chăm sóc bọn Who. Bản thân việc đó không có gì khác thường hay đáng lo ngại. Nhưng khi anh lên lầu để chơi với lũ trẻ, anh lập tức nhận ra có gì đó không đúng. Stephie và Robby, khi ấy mới lên bốn, lên năm, đang ngồi trong căn phòng chung của chúng và lắp Tinkertoys. Nhưng Stephanie ngồi không vững. Mắt con bé chẳng hề tập trung và mặt thì đổ mồ hôi nhễ nhại. Parker để ý thấy con bé đã nôn trong lúc tới nhà tắm. Anh đặt con bé lên giường và đo nhiệt độ, hoàn toàn bình thường. Parker không ngạc nhiên khi người vú em chẳng biết gì về việc Stephanie bị ốm; trẻ con thường xấu hổ mỗi khi bị nôn ọe hay bĩnh ra quần, vì thế chúng thường cố giấu các bí mật về những tai nạn đó. Nhưng Stephie, và anh trai nó, có vẻ trốn tránh hơn Parker tưởng rất nhiều.
Mắt thằng bé cứ liên tục liếc về phía thùng đồ chơi của chúng. (“Để ý ánh mắt đầu tiên”, cuốn Cẩm nang của anh ra lệnh. “Sau đó mới nghe lời chúng nói”) Parker đi về phía cái thùng và Robby bắt đầu khóc, cầu xin anh đừng mở nó ra. Nhưng tất nhiên, anh đã làm. Và rồi đứng bất động nhìn xuống đống chai vodka Joan giấu ở đó.
Stephanie đã bị say rượu. Con bé cố bắt chước mẹ nó, uống rượu từ cái cốc Winnie the Pooh của mình.
“Mẹ bảo đừng nói gì về bí mật của mẹ”, thằng bé vừa kể vừa khóc. “Mẹ bảo ba sẽ điên tiết nếu ba biết. Mẹ bảo ba sẽ la bọn con.”
Hai ngày sau, anh bắt đầu các thủ tục ly dị. Anh thuê một luật sư giỏi và yêu cầu Cơ quan bảo vệ trẻ em can thiệp trước khi Joan kịp dựng lên những lời cáo buộc bạo hành mà luật sư nghĩ là cô ta sẽ thử.
Cô ta đấu tranh quyết liệt nhưng đó là cách một người giành giật bộ sưu tập tem hay chiếc xe thể thao chứ không phải điều gì đó họ yêu quý hơn cả mạng sống.
Rốt cuộc, sau khi mất hàng tháng đau đớn và hàng chục ngàn đô la, lũ trẻ thuộc về anh.
Anh đã tưởng anh có thể tập trung sửa chữa lại đời mình và cho lũ trẻ một cuộc sống bình thường.
Đúng là anh đã làm được, trong bốn năm vừa qua. Nhưng giờ cô ta đã trở lại và đang cố thay đổi phán quyết của tòa.
Ôi Joan, sao cô làm điều này ? Cô không bao giờ nghĩ cho con hay sao ? Cô không hiểu rằng lòng tự tôn của cô, của những bậc làm cha làm mẹ, phải bị gạt đi hoàn toàn khi đặt trước lợi ích của con cái hay sao ? Nếu anh nghĩ việc lũ trẻ chia sẻ thời gian ở với cả bố và mẹ sẽ thực sự tốt hơn cho chúng thì anh sẵn sàng đồng ý ngay tắp lự; cho dù một phần trong anh sẽ tan nát. Nhưng anh vẫn làm.
Thế nhưng anh tin đó sẽ chỉ là thảm họa cho các con anh. Vì vậy, anh chiến đấu không ngừng nghỉ với vợ cũ trước tòa và cùng lúc bao bọc sao cho các con anh tránh khỏi cảm giác thù địch trong thời gian kiện tụng ấy. Vào những lúc như vậy, bạn phải chiến đấu ở cả hai mặt trận: Chiến đấu với kẻ thù và với chính mong muốn da diết được làm một đứa trẻ và chia sẻ nỗi đau của mình với các con. Nhưng đó là việc bạn không bao giờ được phép làm.
“Ba ơi”, Robby bỗng nói, “ba ngừng đọc rồi kia”.
“Ba tưởng con ngủ rồi.” Anh cười.
“Con chỉ cho mắt nghỉ chút thôi. Chúng mệt quá mà. Nhưng con chưa mệt.”
Parker liếc nhìn đồng hồ. Tám giờ kém mười lăm. Còn mười lăm phút nữa là đến… Không, lúc này đừng nghĩ ngợi về nó.
Anh hỏi con trai, “Con có khiên chưa ?”.
“Ngay đây ạ.”
“Ba cũng thế.”
Anh lại cầm sách lên và bắt đầu đọc.