Ở thị trấn Hoa Tây có đến vài chục cửa hàng cửa hiệu, cũng như mọi ngày, buổi sáng hầu như không có hoạt động mua bán gì. Vào giữa trưa, khung cảnh mới bắt đầu hơi nhộn nhịp.
Tư Dao lần lượt vào từng cư xá, khách sạn và cả các hiệu tạp hóa, chìa ra bức ảnh ông Cố Trân mà cô in ra từ trên mạng, hi vọng họ nhớ ra những động tĩnh kỳ lạ gì đó vào nửa đêm hôm kia chăng. Người ở đơn vị du lịch nói, hôm qua công an cũng đến hỏi, họ cũng chỉ trả lời như lúc này khi nói với cô rằng không biết gì hết.
Sau khi đã đi khắp thị trấn, Tư Dao mệt nhoài, đành đi vào khách sạn nghỉ ngơi, định sớm ngày mai sẽ đi đến Thôn quái dị. Khi cô đang làm thủ tục đăng ký thì một thanh niên nom ngái ngủ từ trong bước ra. Chị nhân viên đứng sau quầy tiếp tân cười đon đả: “Đã ngủ đẫy chưa? Lại sắp đi à?”
Tư Dao chợt nghĩ ngợi. Khi anh ta trở vào, cô bèn hỏi chị: “Thợ ngủ ngày cày đêm à?”
“Mấy chú này hay tạm trú ở khách sạn, thường vận chuyển hàng địa phương đến khu du lịch, nhưng dịp này vắng khách du lịch nên họ chỉ mải cờ bạc suốt đêm. Tôi không để cho họ làm ồn, ảnh hưởng đến khách ở đây, nên bắt họ ra cái lều ngoài kia mà hò hét, ban ngày thì họ lại ngủ”.
Tư Dao vội chạy theo hỏi ngay: “Anh ơi cho tôi hỏi mấy câu, các anh… khi chơi bài đêm qua có thấy động tĩnh gì, hoặc có nghe thấy ai đánh nhau gì đó không?”
“Đánh nhau à? Bọn tôi đánh bạc thì ngày nào chẳng đánh nhau!” Anh ta nhìn Tư Dao từ đầu đến chân, trong đầu nghĩ ngợi đủ thứ. “Nhưng tôi thì rất nghiêm chỉnh, rất ôn hòa”.
Tư Dao chìa bức ảnh ông Cố Trân ra nghiêm nghị hỏi: “Đêm qua ông này đã gọi điện cho tôi, nói là gặp nguy hiểm, sau đó không thấy tin gì nữa. Nếu anh có thể giúp tôi, tức là đã cứu một mạng người…”
Anh ta thở dài: “Có lẽ tôi sẽ làm cho cô phát hoảng. Tôi vốn rất sợ nói chuyện nghiêm túc… để tôi nghĩ đã… Nếu cô không sợ, thì tôi sẽ dẫn cô đến gặp một… thằng bé 14 tuổi, mồ côi cha mẹ, sống lang thang ở vùng này, cũng thường đến đánh bài ở chỗ bọn tôi. Tờ mờ sáng hôm nay, nó run như cầy sấy mò đến cái lán của bọn tôi, rồi nằm vật ra ngủ, người vẫn run rẩy và toàn ngủ mê nói vớ vẩn và hú hét… Bọn tôi hỏi tại sao, nhưng nó cứ ngậm miệng”.
“Này, em đã nhìn thấy những gì? Nói cho chị biết đi, được không?” Tư Dao hỏi thằng bé gầy ngẳng như que củi.
Có vẻ như nó không tin Tư Dao, cứ lắc đầu quầy quậy.
“Có phải người ấy giống ông này không?” Tư Dao chìa bức ảnh ra.
Thằng bé chợt giật mình, gật đầu: “Không chắc lắm, nhưng cũng hơi hơi giống”. Tư Dao định hỏi tiếp, thì nó nói: “Chị phải cho em tiền”.
Tư Dao đưa ra tờ 100 đồng, rồi bảo: “Chị cần cứu người này, em hãy giúp chị với!”
Thằng bé cầm tờ tiền lên soi, thấy đúng là tiền thật, liền lắp bắp nói bằng tiếng phổ thông: “Em bám theo một ông, định cướp của ông ta cái túi khi ông ta đang gọi di động; Cũng may mà em chưa xốc tới, vì bỗng có một tốp người không nói không rằng bủa vây rồi quật ông ta ngã lăn ra và trói lại. Chúng không đánh đập, chỉ trói bỏ đấy rồi lùi lại…” Thằng bé lại run bắn người. Chắc câu chuyện sau đó rất là kinh khủng.
Người thanh niên dẫn Tư Dao đến lên tiếng: “Mày nên kể ra đi, thế có lẽ còn dễ chịu hơn!”
Sau một lúc lâu thằng bé mới nói tiếp: “Vì trời tối nên em không nhìn rõ, chỉ thấy ông ta lăn lộn trên mặt đất, hình như trên người có một thứ gì đó. Nhưng đáng sợ nhất là tiếng kêu của ông ta. Ông ấy bị nhét giẻ vào mồm, nhưng chắc là vì người đau khiếp quá nên mới rú lên, tiếng rú rất đau đớn phát ra từ cổ họng… Vì ban đêm yên tĩnh nên em nghe thấy rất rõ, nó là tiếng rú cực kỳ đau đớn khốn khổ, muốn chết không xong muốn sống chẳng được, em nghe thấy cũng suýt chết ngất! Em không dám động đậy vì sợ bọn kia nghe thấy, đành ngồi co rúm sau thân cây, hai tay bịt tai lại mà vẫn nghe thấy tiếng rú ấy”. Thằng bé ngừng lại, thở hổn hển.
“Rồi sao nữa, ông ấy còn sống không? Hiện đang ở đâu?”
“Ông ta cứ lăn lộn rất lâu, rồi bất động. Em cũng không biết ông ấy sống hay chết. Bọn người kia vác đến một tấm ván, đặt ông ấy lên đó, phủ mảnh vải lên rồi khiêng đi. Bọn chúng đi rất lâu rồi em mới dám lò dò ra, bước đến chỗ lúc nãy người ấy lăn lộn xem sao. Em ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc, hình như mặt đất có rất nhiều máu chảy. Nhưng sáng nay em lại đến chỗ đó xem thì không hề thấy gì. Hình như chỗ đó đã bị xới lên, xúc đi rất nhiều đất.”
Không để lại dấu vết, để công an hết cách điều tra. Tư Dao thầm nghĩ.
Mình đã đến muộn, lại thêm một người bỏ mạng vì mình.
“Em có nhìn rõ bọn ấy trông thế nào không?”
“Trông đều rất bình thường, trời tối, nhìn không rõ, nhưng… họ đều mặc áo mưa lùng thùng, đầu đội mũ mưa nhòn nhọn”.
Tư Dao mới đi được nửa đường, trời lại sắ tối và cô bắt đầu nghi ngờ sự lựa chọn của mình. Cách đây hơn một tháng cô đã thề không bao giờ đặt chân lên đây nữa, thế mà giờ đây cô lại đang dấn bước về phía bóng tối đang trải ra vô tận. Đã đặt phòng ở khách sạn, tại sao mình lại vội vã đi ngay trong tối nay? Có lẽ vì vẫn còn một tia hy vọng ông Cố Trân chưa chết, mình sẽ đến kịp thời để cứu ông ta. Cứu thế nào đây? Chỉ bằng sức trói gà không chặt của mình liệu có thể đối phó được với sự hung hãn mà những kẻ quái dị kia dã thể hiện ra không? Nếu bọn người áy không phải là dân Thôn quái dị, thì mình sẽ đi đâu để tìm đây?
Tư Dao cố gắng không để ý đến những bộ hài cốt và những tấm bia ở bên đường, cô chiếu đèn pin dấn bước.
Có lẽ tương lai của cô sẽ giống như con đường giữa rừng cây này, chẳng rõ bao giờ mới thấy ánh sáng.
Khác với lần trước đi đến Thôn quái dị, lần này cô có cảm giác cô độc chưa từng thấy. Không chỉ vì “Năm tráng sĩ núi Lang Nha” nay còn sót lại một mình Tư Dao, người bạn thân cuối cùng Thường Uyển vừa chết thê thảm trong ngôi nhà cô đang ở, mà còn vì Lâm Nhuận, sau khi điều trị trở về gần như đã biến thành một con người khác.
Có lẽ, từ trong tiềm thức, cô đã thật sự “vượt ra ngoài sự sống chết” hay nói đúng hơn là… không còn thiết sống nữa.
Đôi chân bắt đầu rã rời, ý nghĩ này của cô còn đáng sợ hơn cả những bộ xương khô nằm hai bên đường. Khi con người ta đã cạn hết khát vọng sống thì đất trời biến thành lao tù.
Chống đỡ vật lộn là vì cái gì? Vì bản thân chăng? Những ai đã vào hang quan tài, như hẹn nhau đều đã ra đi, tại sao cô vẫn may mắn còn sống? Là vì người khác chăng? Cha mẹ đã qua đời, các bạn thân đã ra đi, người yêu thì đang suy sụp.
Tư Dao dừng lại, khóc nấc lên.
Rất lâu, mãi cô mới hơi bình tĩnh trở lại nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi nỗi tuyệt vọng. Cô chỉ rõ một điều, đến Thôn quái dị rồi, dù ông Cố Trân có còn sống hay không, thì coi như cô cũng dứt khoát được một mối băn khoăn. Rồi cô sẽ không cần phải nhọc lòng tất bật, hao tâm tổn trí để lo thân nữa. Cô sẽ bình thản đón nhận cái chết. Như thế sẽ là tốt cho mọi người.
Khi cô đến Thôn quái dị thì đêm đã rất khuya. Trong màn đêm dày đặc, Tư Dao không còn thấy e sợ gì nữa. Hẳn là ông Cố Trân lành ít dữ nhiều, còn cô chẳng còn ngại ngần gì, cùng lắm là bọn chúng sẽ hại ta như hại ông ấy, bắt cô sống chẳng được, chết không xong! Cảm nhận của cô lúc này là như vậy!
Cô gần như không suy nghĩ gì nữa, đưa tay lên đập mạnh vào cánh cổng của ngôi nhà đầu thôn. Cô nhớ rõ cô bé ở ngôi nhà này là bạn của Trần Kỳ Lân, còn mẹ cô ta đã từng rất hằn học với mình.
Thật là kỳ lạ, cô đập cửa ầm ầm mà bên trong không hề có ai lên tiếng.
Hay là cả nhà đã đi vắng? Dịp này sắp Tết, họ đi thăm họ hàng bạn bè chăng?
Cô lại đi đến gõ cửa một ngôi nhà cách đó không xa. Cánh cửa nhà này treo hai cái vòng đồng, cô mạnh tay đập chúng vào miếng đồng gắn ở cửa. Trong đêm thanh vắng, kim loại va đập phát ra những tiếng inh tai nhưng cũng không có chút hồi âm.
Cô gõ cửa năm nhà, đều không thấy động tĩnh gì. Kể cả một tiếng chó sủa cũng không?
Nỗi sợ hãi lại đến với Tư Dao. Sao lại thế này? Cô đẩy mạnh, cánh cổng mở ngay ra.
Thì ra là cổng không khóa. Chắc đây là miền đất thái bình “đêm ngủ không phải cài cửa” còn sót lại cũng nên (1)!
(1) Trích một câu cổ văn “Đêm ngủ không cần cài cửa, thấy của rơi trên đường cũng không ai thèm nhặt”, tả cảnh thái bình sung túc, con người rất có nhân cách
Liệu còn có nguyên nhân gì khác không?
“Có ai ở nhà không?” Tư Dao bước vào sân, gọi to.
Đêm lặng ngắt, chỉ có tiếng của cô vang lên.
Sao tiếng của cô mà cũng đáng sợ thế này, nhất là khi không hề có ai đáp lại.
Cô lia đèn pin soi khắp quanh sân. Đây là một ngôi nhà rất bình thường ở thôn quê. Đi hết sân, cô lại gõ vào cửa nhà. Vẫn không một tiếng trả lời.
Cửa cũng vậy, đẩy là cửa mở ngay.
Vào rồi cô lại thấy hối hận.
Trong nhà nồng nặc mùi thum thủm, không hiểu sao tim cô bắt đầu đập thình thịch, tay cầm đèn pin cũng run run.
Ngay sau cửa bếp là gian bếp, một nồi cháo còn mở hé vung. Trên bàn ăn gần đó là các thức ăn còn thừa, Có lẽ mùi om om thối bốc ra từ đây.
Họ ra khỏi nhà mà cũng không thu dọn bát đĩa!
Trên một cái bàn khác có một tờ giấy, vẽ một con chó; nét bút non nớt, còn đang vẽ dở dang, cây bút chì đặt trên tờ giấy. Hình như đứa trẻ này cũng vội vã đi khỏi nhà
Có vẻ như cả gia đình này vì một việc gấp nào đó đã hấp tấp ra đi.
Càng bước vào sâu, mùi khó chịu càng thêm nồng nặc.
Cuối cùng, trong gian có vẻ như phòng ngủ, Tư Dao thấy một xác chết.
Đèn pin rơi ngay xuống đất, cô kinh hãi hét lên.
Không vì tiếng hét ấy mà cô hết sợ, huống chi, cô biết sẽ chẳng ai nghe mình kêu
Cả cái thôn này đã chết.
Nhưng có lẽ không phải xác chết. Cô soi kỹ không thấy máu me, không thương tích… có lẽ người ấy đang ngủ say, đang nằm trên nền đất lạnh.
Cô lấy hết can đảm, nhặt chiếc đèn pin lên. Đó là xác của một thiếu niên, mắt vẫn đang mở trừng trừng, nhưng mặt đã bắt đầu rữa nát, những con ròi đang ngọ ngoạy trên đó
Anh ta chính là Trần Kỳ Lân – chàng trai “phản nghịch” lần trước cứu Tư Dao!
Anh ta đã chết như thế nào?
Đau thương đến chết?
Người nhà anh ta đâu? Dù các người cho rằng đây là đứa con “lạc loài”, nhưng khi anh ta từ giã cõi đời thì các người cũng không thể phủi tay bỏ mặc như thế này! Cũng rất có thể vì anh ta chết nên các người đã vội bỏ đi.
Các người sẽ đi đâu?
Tư Dao nghĩ ngay đến những cái xác không chôn cất, phơi ở hai bên đường.
Hệt như thế.
Cô rùng mình, chạy vội ra ngoài sân, rồi quay lại ngôi nhà cô bạn gái của Trần Kỳ Lân ở đầu thôn. Cổng cũng không khóa, cô đẩy cánh cửa, rồi chạy thẳng vào trong nhà.
Chỉ trong vài phút ngắn ngủi, cô luôn hy vọng giả thiết của mình sai, không đúng logic. Nhưng cô vẫn nhìn thấy xác cô gái đó, tuổi hoa mơn mởn đã ra đi.
Nơi này đã xảy ra chuyện gì vậy?
Tư Dao lại vào mấy nhà khác, nhà nào cũng vườn không nhà trống với những dấu hiệu ra đi rất vội vã. Không phải nhà nào cũng có xác chết, nhưng cô đã nhìn thấy cả thảy năm xác chết. Mỗi lần nhìn thấy một sinh mạng héo tàn, lòng cô càng thêm trĩu nặng.
Cô đã sai lầm quá lớn. Đến lúc này vẫn chưa thấy bóng ông Cố Trân. Chuyến đi của cô thật vô ích. Cái mà cô nhận được chỉ là một nỗi ân hận tại sao cô không sớm tỉnh ngộ?
Đây là một cái thôn chết thật sự, chỉ toàn người chết, kể cả bản thân cô.
Giá mà cô cũng nằm trên nền đất giá lạnh kia, thì mọi nỗi ưu phiền sẽ hết, những người yêu mến cô, những kẻ đang tìm mọi cách để hại cô… đều không phải vướng bận gì nữa
Kẻ định giết cô đâu rồi? Ở đây không có vệ sỹ, không có ngả nào thần kỳ để chạy trốn, cô quyết sẽ không chạy trốn.
Tư Dao đến gần xác Trần Kỳ Lân, cầm chiếc chăn trên giường đắp lên cho anh ta. Nhớ đến nét cười ngồ ngộ của anh ta, cô lại khóc rấm rứt.
Cô đứng khóc rất lâu. Rồi nảy ra ý nghĩ muốn tìm người để thổ lộ. Có lẽ cô nên tìm gặp Du Thư Lượng. Ít hôm trước vì trăm mối ngổn ngang nên cô đã lỡ hẹn một lần.
Bỗng có một tiếng động rất khẽ bên ngoài cửa sổ.
Tim cô như ngừng đập.
Thôn quái dị đang im lặng đến phát sợ như cõi chết, nhưng cô vẫn chỉ mong thà chỉ có một mình mình đang ở đây.
Cô bước đến bên cửa sổ, ngoài kia vẫn chỉ là tĩnh mịch.
Có lẽ mình nên rời khỏi đây
Cô đang bước ra ngoài thì trước mặt bỗng lóe sáng.
Ánh lửa. Trong khoảnh khắc, một đám lửa dữ dội bao trùm lên ngôi nhà nhỏ.
Khói ngạt thở, có lẫn mùi xăng. Có kẻ đã chủ tâm giúp cô thực hiện nguyện vọng chấm dứt cuộc đời. Tất cả, rất giống như một bản sao cơn ác mộng mà cô vẫn gặp phải, trơ trọi trong một căn nhà nhỏ, đám lửa thiêu đốt… có lẽ đây chính là số phận dành cho cô.
Nhưng cô biết mình vẫn chưa chống trả lần cuối cùng.
Nếu chạy ra cửa trước thì phải vượt qua biển lửa, không thể được. Vả lại, sau biển lửa ấy chắc chắn có mối nguy hiểm rình rập. Cô lập tức chạy vào căn phòng có cái xác của Trần Kỳ Lân, định nhảy qua cửa sổ.
Nhưng ngoài đó cũng là lửa cháy.
Và cả bóng người nữa!
Cô kêu lên, nhìn thấy bóng người đó lao qua đám lửa, bám lên cửa sổ, nhảy xuống ngã xoài xuống đất.
Cô định giơ đèn pin đập hắn thì bỗng nghe thấy tiếng gọi quen thuộc và thân thiết: “Dao Dao, anh đây!”
Không thể là sự thật!
Nhưng đúng là Lâm Nhuận, người mà cô ngỡ ngàng là đã đầu hàng trước số phận.
Cô cảm nhận sâu sắc, đối với cô, anh quan trọng biết nhường nào!
“Sao anh lại đến đây?”
“Để lát nữa hãy nói, chúng ta chạy ra đã!” Anh kêu lên, nhổm dậy dìu Tư Dao: “Chân anh vẫn bất ổn, đành nhờ em vậy, nhà này có ống nước không?”
“Để em vào bếp xem sao!” Tư Dao lớn tiếng.
“Mau nhúng ướt áo ngoài của em, rồi mở vòi, mở hết cỡ. Chúng ta sẽ vượt tường phía sau, góc tường ấy có một rãnh thoát nước, sẽ đỡ hơn”.
Tư Dao vội chạy vào bếp mở vòi nước hết cỡ, nghiêng người vào cho ướt, tiện thể hứng luôn một chậu nước hắt vào người Lâm Nhuận.
Hai người trèo qua cửa sổ, chạy qua đám lửa, rồi trèo qua bức tường sân sau. Vượt qua bức tường đất họ lăn xuống rãnh nước, coi như đã giập được lửa bám trên mình.
Lâm Nhuận luôn miệng nhắc Tư Dao phải đi ngay. Hai người dìu nhau loạng choạng tiến ra phía đầu thôn. Lúc này Tư Dao mới nhìn lại. Tất cả mọi căn nhà trong thôn đều chìm trong biển lửa.
Cô bám chặt Lâm Nhuận, nước mắt tuôn trào, dường như muốn giập tắt tất cả cái biển lửa này.
Dù sao, cũng đã được an toàn, cô đã có thêm sức mạnh, không thấy sợ sệt gì nữa. Cô lại có thể chờ đợi những điều tốt đẹp, đó là tình yêu.
“Em biết, anh sẽ không để cho em phải một mình chịu khổ”.
“Vẫn cố nói cứng nhỉ? Anh biết, em đã rất thất vọng về anh, đã thầm mắng nhiếc anh không ít đâu!”
“Em đâu có thể nghiệt ngã như thế? Anh bị đau còn chưa khỏi hẳn đã về ngay Giang Kinh, em thật sự hết sức cảm động rồi!”
“Hãy hứa với anh, đừng nên đơn độc lặn lội như thế, anh vô cùng lo lắng băn khoăn”
“Vâng, em xin nghe. Bài học lần này… chỉ là sợ hãi, xác chết, chứ không có gì khác!”