Công Tước Và Em

Chương 1



Ngày sinh của Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset, Bá tước Clyvedon, được tổ chức rất long trọng. Nhà thờ đổ chuông trong hàng giờ liền, champagne được xả lênh láng hào phóng trong khuôn viên tòa lâu đài khổng lồ, nơi cậu bé mới sinh gọi là nhà, và cha ngài Bá tước nhỏ tuổi yêu cầu toàn thể dân làng Clyvedon nghỉ việc để tham dự yến tiệc và kì nghỉ.

“Đây,” bác bán bánh mì nói với người thợ rèn, “không phải là đứa trẻ bình thường.”

Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset không phải được sinh ra để cả đời sống với tước vị là Bá tước Clyvedon. Đó chỉ là một tước vị có được do ưu đãi. Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset – cậu bé con có nhiều tên hơn hẳn bất kỳ đứa trẻ nào khác – là người thừa kế một trong những tước vị Công tước lâu đời và giàu có nhất nước Anh. Và cha cậu bé, ngài Công tước Hastings thứ chín, đã chờ đợi khoảnh khắc này trong nhiều năm liền.

Khi ngài đứng trong đại sảnh bên ngoài phòng sinh của vợ, nâng niu đứa con đỏ hỏn đang khóc ầm ĩ trong tay, trái tim ngài Công tước gần như nổ tung vì tự hào. Nhiều năm sau khi bước qua tuổi 40, ngài đã chứng kiến biết bao người bạn của mình – những vị Công tước và Bá tước khác, tất cả – đều sinh ra hết người thừa kế này đến người thừa kế nọ. Một vài người có con gái trước khi đứa con trai quý giá của họ được sinh ra, nhưng cuối cùng, tất cả họ đều tin chắc dòng dõi của họ sẽ tiếp tục, dòng máu của họ sẽ được truyền lại cho thế hệ tiếp theo.

Nhưng không phải ngài Công tước Hastings. Mặc dù vợ ngài đã mang thai năm lần trong suốt 15 năm hôn nhân của họ, chỉ hai lần bà hạ sinh, và cả hai lần con ngài đều chết yểu ngay khi mới chào đời. Sau lần mang thai thứ năm, kết thúc bằng việc sẩy thai vào tháng thứ năm của thai kỳ, các bác sĩ đều cảnh báo họ không nên thử thêm một lần có con nào khác. Mạng sống của nữ Công tước đã ở trong tình trạng nguy hiểm. Bà quá yếu, quá mỏng manh, và có thể, họ nhẹ nhàng nói, quá lớn tuổi rồi. Ngài Công tước chỉ đơn giản cố gắng chấp nhận thực tế, rằng tước vị sẽ không còn liên quan đến dòng họ Basset nữa.

Nhưng nữ Công tước, Chúa phù hộ cho bà, biết rõ vai trò của mình, sau sáu tháng hồi phục, đã mở cánh cửa thông giữa phòng ngủ của họ, và ngài Công tước lại tiếp tục yêu cầu có một đứa con trai.

Năm tháng sau, nữ Công tước thông báo cho ngài biết, bà đã có mang. Tâm trạng của ngài Công tước lập tức phấn chấn hẳn lên, bằng một niềm tin không gì lay chuyển được – chắc chắn là không gì lay chuyển được – rằng lần mang thai này sẽ thành công. Nữ Công tước đang nằm trên giường trong giây phút bà nhận ra mình đã trễ tháng. Các bác sĩ đến khám cho bà mỗi ngày, và trong suốt thời kỳ mang thai ấy, ngài Công tước đã mời vị bác sĩ được nể trọng nhất ở London, trả cho ông ta một khoản hậu hĩnh để ông tạm thời rời khỏi phòng mạch của mình, đến sống ở lâu đài Clyvedon.

Ngài Công tước không còn cơ hội nào khác ngoài lần này. Ngài phải có một đứa con trai, và tước vị sẽ vẫn ở trong tay của dòng họ Basset.

Kinh nghiệm về những cơn đau của nữ Công tước đến sớm hơn một tháng, những tấm đệm được lót dưới hông bà. Trọng lực sẽ giúp đứa bé bên trong, bác sĩ Stubbs giải thích. Ngài Công tước nghĩ đó là một lập luận có cơ sở, và, vị bác sĩ rời đi vào buổi chiều, sau khi đặt những tấm đệm khác cho vợ ngài, giúp bà nằm theo một góc nghiêng hai mươi độ. Bà đã nằm trong tư thế ấy suốt một tháng.

Rồi cuối cùng, khoảnh khắc ấy cũng đến. Tất cả mọi người đều cầu nguyện cho ngài Công tước, người luôn muốn có một người thừa kế, và cả cho nữ Công tước, lúc bấy giờ rất mảnh khảnh và yếu ớt, vào lúc vòng bụng của bà ngày càng tròn và to hơn. Tất cả đều cố gắng không hy vọng quá nhiều – bởi nữ Công tước đã hai lần hạ sinh và cả hai lần đều phải chôn đứa bé. Ngay cả nếu như bà an toàn sinh hạ một đứa trẻ, thì đứa trẻ ấy, chà, rất có thể là một bé gái.

Khi tiếng hét của nữ Công tước ngày một lớn và lặp lại thường xuyên hơn, ngài Công tước xô cửa bước vào phòng bà, mặc kệ lời phản đối của bác sĩ, bà đỡ và cả đám hầu gái. Ngài nhất quyết phải ở đây, dù nơi đây đang hỗn độn cả lên bởi máu và máu, để chứng kiến giây phút được biết giới tính của đứa bé.

Đầu đứa bé xuất hiện trước, rồi đến bờ vai. Mọi người đều cúi người quan sát nữ Công tước căng ra và cố gắng, và rồi…

Và rồi ngài Công tước biết đó là Chúa, và ngài mỉm cười với toàn thể dòng tộc Basset. Ngài cho bà đỡ một phút để lau sạch đứa bé, rồi để bà đặt đứa bé trai nhỏ bé vào vòng tay ngài, rồi ngài bước vào đại sảnh để khoe cậu với cả thế giới.

“Ta có một đứa con trai!” Ngài gầm lên. “Một đứa con trai nhỏ xíu hoàn hảo!”

Tất cả người hầu đều vỗ tay và thở phào nhẹ nhõm, ngài Công tước cúi xuống nhìn vị Bá tước tí hon trong tay mình và nói. “Con thật hoàn hảo. Con mang họ Basset. Con là của ta.”

Công tước muốn ẵm cậu ngài ra ngoài để chứng minh với mọi người rằng cuối cùng ngài đã cho ra đời một thằng bé khỏe mạnh, nhưng vẫn còn quá sớm khi thằng bé hãy còn là một đứa trẻ mới sinh nhỏ bé vào tháng tư, nên ngài giao đứa trẻ lại cho bà đỡ, để bà đem thằng bé đến chỗ mẹ nó. Ngài Công tước bừng lên niềm vui về phần thưởng quý giá và tổ chức tiệc mừng, hét lên về vận may của mình cho bất kỳ ai chịu lắng nghe.

Trong lúc đó, nữ Công tước, mất quá nhiều máu sau khi sinh và dần dần chìm vào hôn mê. Cuối cùng bà ra đi.

Ngài Công tước tiếc thương vợ. Ngài thực sự tiếc thương. Ngài không yêu bà, dĩ nhiên, và bà cũng chẳng yêu ngài. Nhưng họ đã là bạn trong gần như cả cuộc đời. Ngài Công tước không mong mỏi gì hơn một đứa con trai và một người thừa kế từ cuộc hôn nhân, và trước sự quý trọng ấy, vợ ngài đã chứng tỏ là một người vợ mẫu mực. Ngài đặt những bông hoa tươi thắm bên cạnh mộ phần của bà vào mỗi tuần, bất kể đó là mùa nào trong năm, và hương phần của bà được chuyển từ phòng khách vào đại sảnh, trên một vị trí trang trọng nhất.

Sau đó, ngài Công tước bận bịu với việc nuôi dạy con trai.

Chẳng có việc gì ngài có thể làm được trong năm đầu tiên, dĩ nhiên là thế. Con ngài vẫn còn quá nhỏ cho những bài học về quản lý đất đai và trách nhiệm, nên ngài Công tước để Simon lại cho bảo mẫu và lên đường đi London. Tại đây, cuộc sống của ngài vẫn tiếp diễn như thường lệ, như trước khi ngài nhận biết được về tình cảm cha con, ngoại trừ việc ngài thuyết phục tất cả mọi người – thậm chí cả Đức vua – để chiêm ngưỡng con trai ngài trong một bức họa nhỏ mà ngài vẽ sau khi thằng bé chào đời.

Ngài Công tước ghé thăm Clyvedon trong nhiều lần, rồi trở lại để chuẩn bị quà cho sinh nhật hai tuổi của Simon, sẵn sàng cho việc học của thằng bé. Ngài mua một chú ngựa con; một khẩu súng nhỏ cho cuộc săn bắn cáo trong tương lai cũng được ngài chọn sẵn, và ngài cũng đã thuê hẳn các gia sư cho mỗi môn học cần thiết giúp con trai ngài trở thành một người đàn ông thực thụ.

“Cậu ấy còn quá bé cho tất cả những thứ này!” Bảo mẫu Hopkins la lên.

“Không sao cả.” Hastings đáp trả nhún nhường. “Rõ ràng là, ta không hy vọng thằng bé nắm vững hết được bất cứ cái nào trong khoảng thời gian này, nhưng không bao giờ là quá sớm để bắt đầu việc giáo dục một Công tước.”

“Cậu ấy không phải là một Công tước.” Bà bảo mẫu lẩm bẩm.

“Nó sẽ là Công tước.” Hastings quay lưng khỏi bà và cúi xuống cạnh con trai. Cậu bé đang xây những tòa nhà xiên vẹo bằng những hình khối trên sàn. Ngài Công tước đã không xuống Clyvedon trong vài tháng, và ngài hài lòng với sự lớn lên của Simon. Cậu bé giờ đây đã đã là một cậu trai trẻ tuổi cứng cáp, khỏe mạnh, với mái tóc nâu bóng mượt và đôi mắt xanh thẫm trong suốt.

“Con đang xây cái gì thế, con trai?”

Simon cười toe và chỉ chỉ cho cha cậu.

Hastings ngước lên nhìn bảo mẫu Hopkins. “Thằng bé không nói gì à?”

Bà lắc đầu. “Vẫn chưa, thưa ngài.”

Công tước cau mày. “Nó đã hai tuổi. Lẽ ra nó phải biết nói rồi chứ?”

“Một vài đứa trẻ cần thời gian lâu hơn những đứa khác, thưa ngài. Cậu ấy thực sự là một cậu bé thông minh.”

“Dĩ nhiên thằng bé thông minh. Nó mang họ Basset.”

Bà bảo mẫu gật đầu. Bà luôn luôn thế mỗi khi ngài Công tước nói về sự vượt trội của dòng dõi Basset. “Có thể,” bà gợi ý, “chỉ là cậu ấy không có gì muốn nói.”

Ngài Công tước trông không có vẻ gì là bị thuyết phục, nhưng ngài đưa cho Simon chú lính chì đồ chơi, vỗ nhẹ vào đầu thằng bé, rồi rời khỏi nhà để tập luyện với con ngựa cái mà ngài mới mua từ Quý ngài Worth.

Tuy nhiên, hai năm sau, ngài không còn lạc quan được nữa.

“Tại sao nó vẫn chưa nói?” Ngài phát hỏa.

“Tôi không biết.” Bà bảo mẫu trả lời, vặn xoắn hai bàn tay.

“Bà đã làm gì nó?”

“Tôi không làm gì cả!”

“Nếu bà làm công việc của mình một cách đúng đắn, thì nó” – Công tước vung tay giận dữ về phía Simon – “đáng lẽ ra phải nói rồi mới phải.”

Simon, đang tập viết tại cái bàn nhỏ của mình, quan sát cuộc cãi vả với vẻ quan tâm.

“Nó đã bốn tuổi rồi, khốn khiếp thật.” Công tước rống lên. “Nó nên nói được mới đúng.”

“Cậu ấy có thể viết.” Bà bảo mẫu nhanh chóng nói. “Tôi đã nuôi năm đứa trẻ, và không ai trong số chúng có thể viết như cậu chủ Simon làm.”

“Viết tốt để làm cái quái gì nếu nó không thể nói.” Hastings quay qua Simon, cơn thịnh nộ bùng lên trong mắt. “Nói đi, thằng ranh con!”

Simon lùi lại, môi dưới của cậu rung lên.

“Thưa ngài!” Bà bảo mẫu hét. “Ngài đang làm cậu ấy sợ.”

Hastings quay phắt lại đối diện với bà. “Có lẽ nó cần đe dọa. Hoặc có lẽ nó những gì nó cần là một sự trừng phạt thích đáng. Đó sẽ là cái đệm tốt giúp nó tìm lại được giọng nói của chính mình.”

Ngài Công tước chộp lấy cái bàn chải màu bạc mà bà bảo mẫu đã chải tóc cho Simon và khuyên thằng bé. “Ta sẽ làm cho con nói, thằng con nhỏ bé ngốc nghếch–”

“Không!”

Bà bảo mẫu há hốc miệng. Công tước đánh rơi cái bàn chải. Đây là lần đầu tiên cả hai nghe thấy giọng nói của Simon.

“Con vừa nói gì?” Công tước thì thầm, những giọt nước mắt chảy dài.

Bàn tay Simon nắm chặt, cậu bé hếch cái cằm nhỏ của mình lên. “Đừng đ-đ-đ-đ-đ-đ-”

Mặt ngài Công tước tái nhợt như chết. “Nó nói gì thế?”

Simon cố gắng lần nữa. “Đ-đ-đ-đ-đ-đ-đ-”

“Lạy Chúa tôi.” Công tước thở hắt ra, kinh hãi. “Thằng bé là một đứa ngờ nghệch.”

“Cậu ấy không phải.” Bà bảo mẫu thét lên, vòng tay che chở quanh cậu bé.

“Đ-đ-đ-đ-đ-đ-đ-đừng đ-đ-đ-đ-đ-đ-đánh” – Simon hít sâu – “con.”

Hastings rũ xuống chỗ ngồi bên cửa sổ, gục đầu vào tay.

“Ta đã làm gì để bị như thế này? Ta có thể làm gì…”

“Ngài có thể cho con trai ngài lòng tự hào!” Bảo mẫu Hopkins quát mắng. “Ngài đã đợi trong bốn năm để nghe cậu ấy nói, và–”

“Và nó là một đứa ngốc.” Hastings gầm lên. “Quỷ thần ơi, một thằng nhỏ ngốc nghếch đần độn!”

Simon bật khóc.

“Cái tên Hastings sẽ biến thành ngốc nghếch.” Công tước rên rĩ. “Suốt bao nhiêu năm cầu nguyện về một người thừa kế, và giờ tất cả đã sụp đổ hết. Ta đáng lẽ nên để tước vị lại cho họ hàng ta.” Ngài quay lưng khỏi con trai, vẫn còn đang thút thít và cố lau sạch nước mắt, chứng tỏ cho người cha thấy sự mạnh mẽ của mình. “Ta không thể nhìn mặt nó được nữa.” Ngài thở dốc. “Ta không thể chịu được việc nhìn nó lâu hơn thế nữa.”

Và với những lời đó, ngài Công tước sải bước ra khỏi phòng.

Bảo mẫu Hopkins ôm chặt cậu bé vào lòng. “Con không phải đứa ngốc.” Bà thầm thì quả quyết. “Con là đứa trẻ thông minh nhất mà ta biết. Và nếu bất kỳ ai có thể học nói rõ ràng, ta biết đó là con.”

Simon trở mình trong vòng tay ấm áp của bà và sụt sịt.

“Nào hãy cho cha con thấy.” Bà bảo mẫu hứa hẹn. “Ông ấy sẽ cứng họng nếu như đó là điều cuối cùng ta có thể làm được.”

Bảo mẫu Hopkins đã chứng minh những lời bà nói là đúng. Trong khi Công tước Hastings trở về London và cố vờ như ngài không có một đứa con, bà dành từng phút giây với Simon, phát âm từng từ và âm tiết, không tiếc lời ca ngợi mỗi khi cậu đúng, và cho cậu sự cổ vũ khi cậu không làm được.

Sự tiến bộ diễn ra chậm chạp, nhưng khả năng nói của Simon ngày càng được cải thiện hơn. Vào năm sáu tuổi, “đ-đ-đ-đ-đ-đ-đ-đừng” đã rút gọn lại thành “đ-đ-đừng”, và khi cậu lên tám, cậu có thể nói cả câu mà không phạm một lỗi nào. Cậu vẫn còn gặp rắc mỗi khi tinh thần suy sụp, và bà bảo mẫu phải nhắc nhở thường xuyên rằng cậu cần thư giãn, sắp xếp lại từ ngữ nếu cậu muốn một câu hoàn chỉnh. Nhưng Simon rất quyết tâm, Simon cũng thông minh nữa, và có lẽ quan trọng nhất, cậu cứng đầu chết đi được. Cậu học cách thở trước mỗi câu nói, nghĩ về từng từ trước khi cố gắng phát âm ra. Cậu học về cử động miệng khi cậu phát âm đúng. Và cố gắng phân tích cái gì sai khi cậu không làm thế. Và cuối cùng, vào năm lên mười một, cậu đến trước mặt bảo mẫu Hopkins, dừng lại để sắp xếp suy nghĩ, và nói. “Cháu nghĩ đã đến lúc chúng ta đi gặp cha.”

Bà bảo mẫu cảm thấy nhói đau. Ngài Công tước đã không thèm để mắt đến con trai trong bảy năm liền. Ngài cũng không trả lời một dòng nào cho những lá thư của Simon. Simon đã gửi gần như một trăm lá thư. “Cháu chắc chắn chứ?” Bà hỏi. Simon gật đầu.

“Tốt lắm, vậy ta sẽ chuẩn bị xe ngựa. Chúng ta sẽ lên đường đi London vào ngày mai.”

Cuộc hành trình mất cả hơn một ngày rưỡi trời, và đã tối muộn khi cỗ xe ngựa lăn bánh đến ngôi nhà Basset. Simon đưa mắt nhìn đường phố London nhộn nhịp khi bảo mẫu Hopkins dẫn cậu đến bậc thềm. Cả hai đều chưa từng đến khu nhà Basset trước đó, nên bà bảo mẫu không biết phải làm gì ngoài việc gõ cửa khi bà đứng bên ngoài. Cánh cửa bật mở trong vài giây, vị quản gia oai vệ liếc xuống họ.

“Giao hàng,” lão ta ngân nga, gần như đóng sầm cửa lại, “đi cửa sau.”

“Khoan đã!” Bà bảo mẫu nhanh chóng nói, nhét chân vào khe hở. “Chúng tôi không phải người hầu.”

Lão khinh khỉnh liếc nhìn bộ dạng bà.

“Tôi đúng là người hầu, nhưng cậu ấy không phải.” Bà nắm tay Simon và kéo cậu về phía trước. “Đây là Bá tước Clyvedon, và ông phải cư xử cho phải phép với cậu ấy.”

Miệng người quản gia trễ xuống, lão phải chớp mắt vài lần trước khi nói. “Theo những gì tôi hiểu thì Bá tước Clyvedon đã chết.”

“Cái gì?” Bà bảo mẫu rít lên thất thanh.

“Ta chắc chắn là ta còn sống!” Simon hét, với tất cả sự căm phẫn chính đáng của đứa trẻ mười một tuổi.

Lão quản gia quan sát Simon, nhận ra ngay cậu có dáng vẻ của người họ Basset, và cho cả hai vào.

“Tại sao ngươi nghĩ là ta đã c-chết?” Simon hỏi, tự rủa thầm bản thân vì đã lắp bắp, nhưng không lấy làm ngạc nhiên. Cậu luôn thế mỗi khi giận dữ.

“Đó không phải là việc tôi có thể nói.” Viên quản gia trả lời.

“Hiển nhiên là,” bà bảo mẫu bắn trả. “ông không thể nói một câu như thế, trước một cậu bé mới chỉ chừng ấy tuổi và không có lấy một lời giải thích.”

Lão quản gia im lặng trong một thoáng, cuối cùng cũng lên tiếng. “Đức ngài đã không nhắc đến cậu trong nhiều năm trời. Lần cuối tôi nghe được, ngài nói rằng ngài chẳng có đứa con trai nào cả. Ngài có vẻ đau khổ khi nói thế, nên chẳng ai bàn về vấn đề đó nữa. Chúng tôi – bọn người hầu kẻ hạ, vì thế – đoan chắc là cậu đã chết.”

Quai hàm Simon nghiến chặt, cậu cảm thấy cổ họng rát bỏng.

“Ngài ấy không để tang đúng không?” Bà bảo mẫu gặng hỏi. “Ông có nghĩ về điều đó không? Sao ông dám khẳng định cậu chủ đã chết nếu cha cậu ấy không để tang?”

Viên quản gia nhún vai. “Đức ngài vẫn thường mặc đồ đen. Có tang hay không vẫn chẳng thay đổi phục trang của Ngài.”

“Đây là một sự lăng mạ.” Bảo mẫu Hopkins nói. “Ta yêu cầu ông đi gọi Đức ngài.”

Simon không nói gì. Cậu khó khăn, cố gắng hết sức kiểm soát bản thân. Cậu phải vậy, cố gắng hết sức. Cậu sẽ không nói được một lời nào với cha trong lúc mọi tế bào máu trong người đều chạy đua thế này.

Lão quản gia gật đầu. “Ngài ấy đang ở trên gác. Tôi sẽ đi gọi Ngài ngay.”

Bà bảo mẫu bắt đầu điên cuồng bước tới bước lui, lầm bầm trong miệng và kết nối ngài Công tước với những từ ngữ hèn hạ trong vốn từ vựng đang được mở rộng đến đáng ngạc nhiên của bà. Simon đứng giữa phòng, nép tay giận dữ vào hai bên sườn, cố gắng thở sâu.

Mày có thể làm được, cậu gào lên trong tâm trí. Mày có thể làm được.

Bà bảo mẫu quay qua, nhìn cậu cố gắng kiểm soát cơn giận dữ và nhanh chóng hổn hển. “Phải, đúng rồi, như vậy đấy.” Bà nói nhanh, khụy gối xuống và nắm lấy tay cậu. Bà biết rõ hơn ai hết chuyện gì sẽ xảy ra nếu Simon đối mặt với cha trước khi cậu lấy lại được bình tĩnh. “Thở sâu vào. Và đảm bảo cháu nghĩ tới từ ngữ trước khi nói. Nếu như cháu có thể kiểm soát–”

“Ta thấy là bà vẫn còn đang nuông chiều thằng bé.” Một giọng nói hống hách bật ra từ phía khung cửa.

Bảo mẫu Hopkins đứng thẳng người lên và chậm chạp quay lại. Bà cố nghĩ đến một lời gì đó kính trọng để nói. Bà cố gắng nghĩ đến bất cứ gì mềm mỏng để làm dịu tình trạng căng thẳng này. Nhưng khi bà nhìn ngài Công tước, nhìn thấy hình ảnh Simon trong ông, cơn thịnh nộ của bà bùng nổ. Công tước có thể nhìn hệt như con trai ngài, nhưng ngài chắc chắn không phải là cha cậu ấy.

“Ngài, thưa ngài,” bà phun ra, “thật là đáng khinh.”

“Và bà, thưa bà, bị sa thải.”

Bà bảo mẫu loạng choạng lùi lại.

“Không ai có thể nói năng kiểu đó với Công tước Hastings.” Ông rống lên. “Không ai!”

“Ngay cả Đức vua sao?” Simon chế nhạo.

Hastings quay phắt lại, không chú ý đến việc con trai mình nói năng rõ ràng. “Mày.” Ông nhỏ giọng nói.

Simon gật đầu cụt ngủn. Cậu đã xoay sở nói được một câu hoàn hảo, nhưng chỉ là một câu ngắn, và không muốn thử vận may thêm một lần nữa. Không, khi mà cậu đang cảm thấy phát điên lên được. Thông thường, cậu có thể nói cả ngày mà không lắp bắp, nhưng ngay lúc này…

Cái cách cha nhìn chằm chằm vào cậu, khiến cậu có cảm giác mình chỉ là thằng nhãi. Một thằng nhãi ngờ nghệch.

Và cậu cảm thấy lưỡi mình đột nhiên vụng về và cứng lại.

Công tước mỉm cười tàn nhẫn. “Mày định nói gì với bản thân vậy, chàng trai? Hả? Mày định nói gì?”

“Sẽ ổn thôi, Simon.” Bảo mẫu Hopkins thì thầm, ném cho Công tước cái nhìn giận dữ. “Đừng để ông ta làm cháu xuống tinh thần. Cháu có thể làm được, cháu yêu.”

Và không hiểu sao, sự cổ vũ của bà lại làm mọi thứ tệ hơn. Simon đến đây để chứng tỏ bản thân mình với cha cậu, vậy mà giờ đây bà bảo mẫu lại đối xử với cậu như một đứa trẻ con.

“Có chuyện gì vậy?” Công tước châm chích. “Mày cắn phải lưỡi rồi à?”

Các bắp cơ của Simon gồng chặt đau đớn, và cậu bắt đầu run rẩy.

Cha và con lườm nhau chằm chằm, có cảm giác không bao giờ dứt ra được, cho đến khi Công tước bật ra tiếng chửi thể và sải bước về phía cửa.

“Mày là sai lầm tệ hại nhất của tao.” Ngài rít lên với con trai. “Tao không biết tao đã gây nên tội gì mà bị trừng phạt bởi mày, nhưng Chúa cũng sẽ hiểu cho tao nếu tao không bao giờ liếc tới mày lần nữa.”

“Đức ngài!” Bảo mẫu Hopkins hét lên phẫn nộ. Không cách gì có thể nói với một đứa trẻ như thế.

“Lôi nói ra khỏi tầm mắt ta.” Ông quát lại bà. “Bà có thể giữ công việc của mình lâu chừng nào bà còn giữ nó tránh xa khỏi ta.”

“Đợi đã!”

Công tước chậm chạp quay về phía giọng nói Simon phát ra. “Mày vừa nói gì?” Ông dài giọng.

Simon hít thở sâu vào ba hơi dài, môi cậu vẫn còn mím chặt trong giận dữ. Cậu bắt quay hàm mình thư giãn, chà xát lưỡi trong họng, cố gắng gợi cho bản thân nhớ lại cảm giác khi nói rõ ràng. Cuối cùng, chỉ vừa kịp lúc Công tước định xen vào lần nữa, cậu mở miệng và nói. “Con là con trai cha.”

Simon nghe bảo mẫu Hopkins thở phào nhẹ nhõm, và có cái gì đó cậu chưa từng thấy trước kia bùng lên trong mắt cha cậu. Niềm tự hào. Không phải là quá nhiều, nhưng nó vẫn ở đâu đó trong kia, lẩn khuất sâu thẳm bên trong. Cái gì đó cho Simon một tia hy vọng nhỏ nhoi.

“Con là con trai cha,” cậu lặp lại, lần này lớn hơn, “và con không p-”

Đột nhiên cổ họng cậu tắc nghẹn. Và Simon điếng người.

Mày có thể làm được. Mày có thể làm được.

Nhưng cổ họng cậu siết chặt, và lưỡi cậu cứng đờ. Đôi mắt cha cậu từ từ thu hẹp lại…

“Và con không p-p-p-”

“Cút về nhà.” Công tước thấp giọng. “Ở đây không có chỗ cho mày.”

Simon cảm thấy sự chối bỏ của Công tước đến tận xương tủy, cảm thấy nỗi đau đớn kỳ lạ tràn khắp cơ thể, len lỏi vào tận trong tim. Và với nỗi căm hờn tràn ngập, dâng đầy trong mắt, cậu nghiêm nghị thề.

Nếu không thể trở thành người con trai như ông muốn, thì thề có Chúa, cậu sẽ trở thành chính xác ngược lại những gì ông đã mong.

Gia đình Bridgerton đã bước lên những nấc thang cao hơn và ngày càng tiến xa trong việc trở thành gia đình sinh đẻ nhiều nhất của xã hội. Một phần trong đó là nhờ sự chăm chỉ của bà Tử tước cùng ngài Tử tước quá cố và thật đáng ca ngợi làm sao, mặc dù ai cũng có thể tìm thấy sự tầm thường trong cách đặt tên cho con họ. Anthony, Benedict, Colin, Daphne, Eloise, Francesca, Gregory, và Hyacinth – một cách có hệ thống theo mẫu tự alphabe, dĩ nhiên, sẽ có lợi ở nhiều mặt, nhưng ai cũng cho rằng bất kỳ một bậc cha mẹ thông minh nào cũng có thể nuôi dạy con cái tốt mà không cần đặt tên cho chúng theo thứ tự chữ cái như thế.

Hơn nữa, cảnh tượng bà Tử tước và tám người con của bà trong cùng một phòng cũng đủ để biến nỗi sợ hãi từ một thành nhân đôi – hoặc nhân ba – hoặc tệ hơn nữa. Tác giả đây chưa từng nhìn thấy bộ sưu tập về sự cạnh tranh giữa các anh chị em ruột cực kỳ lố lăng hay như việc quan tâm đến bạo lực của họ. Tuy không bao giờ phí thời gian vào việc ghi nhận màu mắt, Tác giả cũng nhận thấy cả tám người đều sở hữu những khung xương giống nhau và mái tóc dày màu hạt dẻ. Chắc phải có ai đó lấy làm tiếc cho bà Tử tước, khi bà tìm kiếm những ưu điểm của hôn nhân qua việc nuôi một bầy con, thay cho việc cho ra đời một đứa con với mái tóc nhiều màu sắc hợp thời hơn. Dù vậy, vẫn còn nhiều ưu điểm với những cái nhìn quả quyết – không có sự nghi ngờ nào rằng cả tám người đều là những đứa con hợp pháp.

Vâng, toàn thể Độc giả thân mến, với tất cả niềm mong mỏi của mình, Tác giả đây ước rằng đó là trường hợp chung của các gia đình đông con…

Quý bà Whistledown, Thời báo Xã Hội, 26 tháng Tư năm 1813.

“Gggggrrrrrruuuuuuừ!” Violet Bridgerton vò nát tờ Thời-báo-một-trang thành nhúm tròn cho đến khi nó có hình dạng quả banh, rồi quăng vào góc phòng khách một cách hết sức duyên dáng.

Con gái bà, Daphne, khôn khéo không đưa ra lời bình luận nào, và vờ như mê mẩn với việc thêu thùa.

“Con đã đọc xem bà ta viết gì chưa?” Violet hỏi dồn. “Con đọc rồi chứ?”

Daphne liếc mắt về phía quả banh mà trước đó một giây vẫn còn là tờ báo, giờ đây đang nằm cuối cái bàn gỗ. “Con không có cơ hội nào để đọc nó trước khi mẹ, ờ, đọc xong.”

“Vậy thì đọc đi.” Violet ré lên, đột ngột chém tay vào không khí. “Đọc xem bà ta bôi nhọ chúng ta thế nào.”

Daphne bình tĩnh đặt khung thêu xuống và với tới tờ báo ở góc bàn. Cô đặt nó vào lòng, vuốt nhẹ góc, và đọc bản tin về gia đình cô. Chớp mắt, cô ngước lên. “Nó đâu có tệ thế, mẹ à. Thật ra thì, nó khá hơn nhiều so với những gì bà ấy viết về những người nhà Featherington cuối tuần trước.”

“Làm sao mà mẹ có thể kiếm cho con một tấm chồng, trong khi người đàn bà đó lại đang chế nhạo tên con?”

Daphne bắt bản thân mình phải nguôi giận. Gần như sau hai mùa lễ hội ở London, chỉ nội việc đề cập đến một từ chồng cũng đủ khiến cô phát điên. Tất nhiên cô muốn kết hôn, cô thật sự muốn vậy, và cô thậm chí còn không mong mỏi quá vào tình yêu. Nhưng có phải là quá nhiều khi hy vọng về một người chồng ít nhất cũng tạo cho cô cảm giác yêu mến?

Đã từng, có bốn người ngỏ lời cầu hôn cô, nhưng khi Daphne nghĩ tới việc phải chung sống cả đời với bất kỳ ai trong số họ, cô chỉ đơn giản là không chịu được. Cũng có vài người cô nghĩ phải chăng có thể trở thành người chồng tốt, nhưng vấn đề là – không ai trong số họ có vẻ có hứng thú với điều đó. Ồ, tất cả họ đều thích cô. Mọi người đều thích cô. Tất cả đều nghĩ cô vui tính, tốt bụng, khá thông minh, và không ai nghĩ cô không hấp dẫn cả. Nhưng cũng phải nói thêm rằng, chưa một ai từng bị lóa mắt bởi sắc đẹp của cô, choáng váng sững sờ đến câm lặng khi cô xuất hiện, hay đặt bút viết một bài thơ về lòng tôn kính dành cho cô.

Bọn đàn ông, cô ghê tởm nghĩ, chỉ có hứng thú với những phụ nữ kính sợ họ. Không ai có vẻ như sẵn sàng tán tỉnh một người như cô. Tất cả họ đều quý mến cô, hay như họ nói vậy, vì cô rất dễ trò chuyện cùng, và bởi vì cô rất dễ thấu hiểu cảm giác của họ. Một lần, gã đàn ông mà Daphne nghĩ sẽ thích hợp làm một người chồng tốt đã nói rằng, “Quỷ tha ma bắt, Daff, em không không như những cô gái gái khác. Em hết sức bình thường.”

Cô cũng có thể xoay sở coi đó như lời ca tụng, nếu như hắn ta không lăn tăn săn đuổi một sắc đẹp tóc vàng mới mẻ khác.

Daphne cúi xuống, chú ý rằng tay cô đang nắm chặt lại. Rồi cô ngước lên và nhận ra mẹ cô đang nhìn cô chằm chằm, rõ ràng là trông đợi cô nói điều gì đó. Đã kìm chế cơn giận, Daphne hắng giọng và nói.

“Con chắc rằng cái cột báo nhỏ bé ấy của Quý bà Whistledown không làm tổn hại đến cơ hội của con trong việc kiếm một người chồng đâu.”

“Daphne, đã hai năm rồi đấy!”

“Và Quý bà Whistledown chỉ mới xuất bản báo được ba tháng, nên con thấy chúng ta khó có thể đổ lỗi cho bà ta được.”

“Mẹ sẽ quy tội cho bất cứ ai mà mẹ chọn.” Violet lầm bầm.

Móng Daphne ghì chặt vào lòng bàn tay, như thể cô cố bắt mình không được vặn vẹo lại. Cô biết bà chỉ là đang quan tâm tới cô bằng cả trái tim, cô biết bà yêu cô. Và cô cũng yêu bà. Thật ra, cho đến khi Daphne đến tuổi kết hôn, Violet đã luôn là người mẹ tuyệt nhất. Bà vẫn sẽ mãi như thế, ngay khi bà không tuyệt vọng trước sự thật rằng sau Daphne, bà còn ba cô con gái nữa để lo lắng về chuyện hôn nhân của chúng.

Violet ép đôi tay mảnh khảnh lên ngực bà. “Bà ta quăng ra lời vu khống về nguồn gốc của con.”

“Không.” Daphne chậm rãi nói. Cô luôn khôn ngoan, biết lúc nào thì tiến tới, và luôn chú ý quan sát mỗi khi tranh cãi với mẹ. “Thật ra thì, những gì bà ta viết là, không có sự nghi ngờ gì tất cả chúng con đều là những đứa con hợp pháp. Những người trong cái xã hội thượng lưu này còn có nhiều điều để nói hơn nữa về hầu hết các gia đình đông con.”

“Bà ta không nên bận tâm về vấn đề đó.” Violet khịt mũi.

“Mẹ à, bà ta là tác giả của những tin ngồi lê đôi mách đường phố. Công việc của bà ấy là khơi mọi chuyện lên.”

“Bà ta thậm chí còn không phải là con người thật.” Violet điên tiết thêm vào. Bà chống tay vào tấm hông mảnh dẻ, thay đổi ý kiến và lắc lắc tay trong không trung. “Whistledown, ha! Mẹ chưa bao giờ nghe bất cứ cái gì về họ Whistledown. Bất kể ả đàn bà hư hỏng ấy là ai, mẹ nghi ngờ việc bà ta là ai đó trong số chúng ta. Như thể bất kỳ ai có giáo dục lại đi viết nên những lời nói dối xấu xa đó vậy.”

“Dĩ nhiên bà ta phải là một người nào đó trong số chúng ta.” Daphne nói, đôi mắt nâu đong đầy sự thích thú. “Nếu bà ta không phải là người của xã hội thượng lưu, không cách gì bà ta moi được những thông tin riêng tư như thế để viết trên báo hằng ngày. Mẹ không nghĩ bà ta lại là một kẻ lừa đảo, lén lút ngoài cửa sổ và kề tai nghe trộm ở cửa ra vào đó chứ?”

“Mẹ không thích giọng lưỡi của con đâu, Daphne Bridgerton.” Violet nói, mắt bà nheo nheo lại.

Daphne lùi lại với một nụ cười khác trên môi. “Mẹ không thích giọng lưỡi của con.” thường là câu trả lời của Violet khi một trong những đứa con của bà thắng trong cuộc tranh cãi.

Nhưng quả thật rất vui khi trêu chọc bà. “Con không ngạc nhiên chút nào.” Cô nói, nghiêng đầu qua. “Nếu Quý bà Whistledown là một trong những người ‘bạn’ của mẹ.”

“Cẩn thận miệng lưỡi con đó, Daphne. Không ai trong số bạn mẹ lại có thể nông cạn như thế.”

“Tốt thôi.” Daphne chấp nhận. “Có thể không phải bạn của mẹ. Nhưng con chắc chắn rằng đó là ai mà chúng ta biết. Không tên lừa bịp nào có thể có được những thông tin như thế trên báo.”

Vilolet khoanh tay. “Mẹ nên lôi bà ta ra khỏi công việc này một lần và vĩnh viễn.”

“Nếu mẹ ước lôi bà ấy ra khỏi công việc này,” Daphne không thể cưỡng lại được việc chỉ ra vấn đề “mẹ không nên ủng hộ bằng cách mua báo của bà ta nữa mới phải.”

“Và thay vào đó sẽ làm gì?” Violet gặng hỏi. “Mọi người đều đọc nó. Lệnh cấm vận nhỏ bé đáng thương của mẹ sẽ chẳng làm được gì, ngoài việc khiến cho mẹ trở nên không biết tí xíu thông tin nào, trong khi tất cả đều xì xầm về những chuyện tầm phào mới nhất của bà ấy.”

Điều đó hoàn toàn đúng, Daphne im lặng đồng ý. London hào nhoáng bị nghiện Thời báo Xã Hội của Quý bà Whistledown. Tờ báo bí ẩn xuất hiện nơi ngưỡng cửa của từng thành viên thuộc xã hội thượng lưu vào ba tháng trước. Trong hai tuần đầu, nó được tự ý giao đến vào mỗi thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu. Và rồi sau đó, vào thứ Hai của tuần thứ ba, tất cả viên quản gia khắp ngõ ngách của London đều chờ đợi trong vô vọng bóng các cậu bé con vẫn thường giao báo cho Whistledown, để rồi khám phá ra rằng lần này không phải miễn phí. Họ phải trả cho các mẫu tin lượm lặt tầm phào nơi đường phố với cái giá xúc phạm năm penny một tờ.

Daphne cảm thấy ngưỡng mộ sự hiểu biết của Quý-bà-Whistledown-hư-cấu. Vào lúc bà bắt đầu buộc mọi người phải trả tiền cho những tin tức của mình, cả giới thượng lưu đều đã đâm nghiện. Tất cả đều ném ra những đồng penny, và ở một nơi nào đó, một người phụ nữ thích xỏ mũi vào chuyện thiên hạ đang trở nên giàu có.

Trong khi Violet bước đi quanh phòng, gắt gỏng về ‘sự xem thường gớm guốc’ chống lại gia đình bà, Daphne ngước lên và đảm bảo mẹ không chú ý đến mình, và mắt cô hạ xuống nghiên cứu kỹ hơn cột tin gây nên chuyện scandal. Whistledown – như giờ đây được nhiều người gọi – là sự trộn lẫn những lời bình luận tò mò, tin tức xã hội, những lời châm chích kịch liệt, và thỉnh thoảng là lời than phiền. Điều làm cho nó khác so với những tờ báo xã hội khác, đó là tác giả đã gọi thẳng thừng đầy đủ tên nhân vật được nhắc đến. Không có sự ẩn giấu nào đằng sau những từ rút gọn, chẳng hạn như Ngài S—— và Cô G——. Nếu Quý bà Whistledown muốn viết về ai, bà ta sẽ sử dụng tên thật của người đó. Giới thượng lưu bị kéo vào các mẩu tin gây scandal, nhưng họ cũng đồng thời bị mê hoặc một cách bí ẩn.

Những bản tin thường nhật gần đây là kiểu của Whistledown. Bên cạnh những mẩu tin ngắn về những người dòng họ Bridgerton – được miêu tả không khác gì hơn ngoài một gia đình – Quý bà Whistledown đã nhẩm đếm lại các sự kiện của buổi dạ vũ đêm trước. Daphne không có mặt ở đó, vì hôm ấy là sinh nhật của em gái cô, và cả gia đình Bridgerton luôn luôn gây ra sự ồn ào về các buổi tiệc sinh nhật. Và với việc có tận tám đứa con, có quá nhiều tiệc để mà tổ chức.

“Con đang đọc thứ rác rưởi đó.” Violet buộc tội.

Daphne ngước lên, cự tuyệt cảm giác có tý sai trái. “Có một cột thông tin khá ổn hôm nay. Có vẻ như Cecil Tumbley va phải nguyên dàn ly champagne dựng thành tháp vào tối qua.”

“Vậy à?” Violet hỏi, cố gắng để trông không có vẻ gì là hứng thú.

“Uuuhh-mm.” Daphne trả lời. “Bà ấy cũng đưa một mẩu tin đáng giá khác về vũ hội Middlethorpe. Chú ý đến việc ai sẽ đi với ai, mọi người sẽ mặc cái gì–”

“Và mẹ ủng hộ việc bà ta cho là cần thiết cần bày tỏ sự quan tâm về vấn đề ấy.” Violet cắt ngang.

Daphne mỉm cười ranh mãnh. “Ô, thôi nào mẹ. Mẹ biết là Quý cô Featherington lúc nào trông cũng hết sức khủng khiếp trong màu tím mà.”

Violet cố không cười. Daphne có thể thấy một góc miệng của bà giật giật, cứ như thể bà đang cố gắng giữ sự điềm tĩnh mà bà thường có, để thích hợp với vai trò là một nữ Tử tước và một người mẹ. Nhưng chỉ được hai giây, bà đã cười toe toét và ngồi xuống cạnh cạnh con gái trên ghế sofa.

“Để mẹ xem nào.” Bà nói, giật lấy tờ báo. “Còn chuyện gì nữa xảy ra không? Chúng ta không lỡ bất cứ thứ gì quan trọng chứ?”

Daphne nói. “Thật ra, mẹ à, với nhà báo là Quý bà Whistledown, người ta không cần phải thực sự có mặt ở bất kỳ sự kiện nào.” Cô phẩy tay ra hiệu về phía tờ báo. “Đọc nó cũng tốt như có mặt ở đó vậy. À mà tốt hơn, có lẽ thế. Con chắc rằng tối qua chúng ta có thức ăn ngon hơn thứ họ đã ăn ở buổi dạ vũ đó. Và trả lại con tờ báo nào.” Cô giật phắt tờ báo lại, để một mảnh rách trong tay Violet.

“Daphne!”

Daphne ra vẻ giả vờ chính đáng. “Con đang đọc nó.”

“Tốt thôi!”

“Mẹ, nghe chuyện này này.”

Violet nghiêng qua.

Daphne đọc. “Kẻ ăn chơi trác táng trước đây, được biết đến dưới tên Bá tước Clyvedon cuối cùng đã bị nhìn thấy xuất hiện một cách hết sức quyến rũ tại London. Dù Ngài không hạ cố có mặt tại các buổi tối họp mặt đáng kính, vị Công tước mới của Hastings đã vài lần bị bắt gặp đặt chân đến White và một lần đến Tattersall.” Cô dừng lại để lấy hơi. “Đức Ngài đã sống ở nước ngoài trong sáu năm. Liệu có sự ngẫu nhiên nào trong việc Ngài trở về đây bây giờ, chỉ vì Ngài Công tước trước đã qua đời?”

Daphne ngước lên. “Lạy Chúa tôi, bà ta thẳng thắn quá, mẹ nhỉ? Có phải Clyvedon là một trong những người bạn của Anthony?”

“Cậu ấy bây giờ là Hastings rồi.” Violet tự động nói. “Và phải, mẹ tin rằng cậu ấy và anh con đã là bạn tại Oxford. Và cả ở Eton nữa, mẹ nghĩ vậy.” Trán bà nhăn lại và đôi mắt xanh biếc nheo nheo suy nghĩ. “Cậu ấy là một người khó chịu, nếu mẹ nhớ đúng. Luôn luôn cư xử kỳ quặc với cha mình. Nhưng danh tiếng thì khá sáng chói. Mẹ hoàn toàn chắc là Anthony nói cậu ta dẫn đầu trong môn toán. Cái mà,” bà thêm vào, đảo mắt “mẹ có thể nói là giỏi hơn bất cứ đứa con nào của mẹ.”

“Nào, thôi đi mẹ à.” Daphne trêu chọc. “Con chắc chắn con sẽ giữ vị trí đầu lớp nếu Oxford có thể thấy phù hợp khi nhận phụ nữ.”

Violet khịt mũi. “Mẹ đã sửa bài số học cho con khi gia sư con bị ốm đấy, Daphne.”

“À, có thể đó đã là quá khứ rồi, vậy đó.” Daphne nói với nụ cười toe toét. Cô nhìn ngược xuống tờ báo trong tay mình, lơ đãng dừng lại ở tên Công tước. “Ngài ấy có vẻ khá thú vị.” Cô lẩm bẩm.

Violet lườm cô sắc bén. “Cậu ta không phải phải là loại người phù hợp với quý cô trẻ tuổi như con đâu.”

“Thật buồn cười làm sao khi ở ‘tuổi’ con, như mẹ nói, lại trở nên quá trẻ để không thể gặp gỡ ngay cả bạn của Anthony, nhưng lại quá già để mẹ thất vọng vì vẫn chưa có được một cuộc hôn nhân thích hợp.”

“Daphne Bridgerton, mẹ không–”

“–thích giọng lưỡi của con, con biết mẹ à. Nhưng mẹ vẫn yêu con.”

Violet mỉm cười ấm áp và vòng tay qua vai Daphne. “Cầu Chúa phù hộ cho mẹ đi, ừ mẹ yêu con.”

Daphne hôn vội lên má bà. “Đó là lời nguyền của tình mẫu tử. Mẹ cần phải yêu chúng con ngay cả khi chúng con làm mẹ phiền lòng.”

Violet chỉ thở dài. “Mẹ hy vọng một ngày nào đó con sẽ có những đứa con–”

“–giống như con vậy, con biết.” Daphne mỉm cười luyến tiếc và ngả đầu vào vai bà. Mẹ cô có thể hơi quá tò mò, và cha cô có vẻ như đã thích thú với bầy chó và những cuộc săn bắn trong việc giao thiệp nơi xã hội, nhưng cuộc hôn nhân của họ thật nồng ấm, đong đầy tình yêu, tiếng cười, và cả con cái nữa. “Con có thể làm cho mọi chuyện tồi tệ hơn thay vì đi theo con đường của mẹ đấy, mẹ à.” Cô lẩm bẩm.

“Tại sao vậy, Daphne.” Violet nói, mắt bà trở nên sũng nước. “Con nói mới dễ thương làm sao.”

Daphne xoay qua nhìn mái tóc màu hạt dẻ của bà bao quanh ngón tay cô, và cười toe toét, để cho phút giây tình cảm này trở nên sướt mướt hơn với ngày càng nhiều nước mắt. “Con hạnh phúc được noi gương mẹ khi điều đó đến, cùng với hôn nhân và con nhỏ, mẹ à, chỉ là không lâu đến mức con phải có đến tám đứa đâu.”

Vào đúng khoảnh khắc đó, Simon Basset, vị Công tước mới của Hastings và là chủ đề trong cuộc trò chuyện của những quý bà Bridgerton, đang ngồi ở White. Người bạn đồng hành với anh không ai khác hơn ngoài Anthony Bridgerton, anh trai lớn nhất của Daphne. Cả hai cùng gây nên một ấn tượng như nhau, đều cao lớn và khỏe mạnh, với mái tóc dày sẫm màu. Nhưng trong khi mắt Anthony có cùng màu chocolate sâu thẳm như em gái, thì mắt Simon lại mang màu xanh biển lạnh giá, với tia nhìn xuyên thấu kỳ quái.

Đôi mắt cũng có lợi nhiều như bất cứ thứ gì anh tính toán có được, nhờ sự nổi danh của mình. Khi anh chú mục vào một người nào, rõ ràng và kiên quyết, đàn ông trở nên không thoải mái. Phụ nữ thì hoàn toàn run rẩy.

Nhưng không phải là đối với Anthony. Cả hai người họ đều đã biết rõ nhau trong hàng năm trời. Anthony chỉ cười khi Simon nhướng mày, quay đôi mắt lạnh như băng về phía mình. “Cậu quên rồi sao, tôi đã có lần nhìn thấy cậu gục đầu trong cái bô đấy.” Anthony đã có một lần nhắc anh như thế. “Thật khó để nhìn thấy được vẻ nghiêm túc của cậu từ sau lần đó.”

Với những lời ấy, Simon đáp lại. “Đúng thế, nhưng nếu theo tôi nhớ, thì cậu chính là người đã đè tôi vào cái vật nho nhỏ thơm phức ấy.”

“Một trong những khoảnh khắc đáng tự hào nhất của tôi, có thể chắc chắn như vậy. Nhưng cậu đã trả thù vào đêm tiếp theo, khi giường tôi xuất hiện hàng tá giun.”

Simon tự cho phép mình cười phá lên khi nhớ lại cả hai việc rắc rối đã xảy ra, và cuộc nói chuyện sau đó của họ. Athony là một người bạn tốt, là người mà anh luôn muốn bên cạnh vào những lúc khó khăn. Đó là người đầu tiên Simon tìm kiếm từ khi anh quay lại nước Anh.

“Thật tốt chết đi được khi lại có cậu trở về, Clyvedon.” Anthony nói, khi họ ngồi vào bàn của mình trong câu lạc bộ White. “À, nhưng tôi tin rằng từ giờ tôi nên gọi cậu là Hastings.”

“Không.” Simon nói dứt khoát. “Cái tên Hastings sẽ luôn thuộc về cha tôi. Ông không bao giờ đáp lại bất kỳ cách gọi nào khác.” Anh dừng lại. “Tôi sẽ nhận tước vị của ông ấy nếu như tôi phải thế, nhưng tôi sẽ không chịu để bị gọi bằng tên ông.”

“Nếu cậu phải thế?” Mắt Anthony mở lớn. “Hầu hết đàn ông bọn tôi sẽ không đồng ý từ bỏ triển vọng cho tước vị Công tước đâu.”

Simon cào tay vào mái tóc đen. Anh biết anh được mong đợi sẽ tiếp nhận quyền thừa kế, và thể hiện niềm tự hào vững chắc trong lịch sử lừng lẫy của gia đình Basset, nhưng sự thật luôn làm anh phát ốm. Anh đã dành cả đời để không sống theo sự mong mỏi của cha mình; giờ đây trông có vẻ thật nực cười khi cố không sống dưới tên ông. “Đây thật sự là một gánh nặng chết dẫm.” Cuối cùng anh càu nhàu.

“Cậu tốt hơn là sử dụng nó đi.” Anthony thực tế nói. “Bởi vì đó là những gì mọi người sẽ gọi cậu.”

Simon biết đó là sự thật, nhưng anh ngờ rằng tước hiệu đó sẽ đặt gánh nặng lên vai anh.

“Vậy thì, trong trường hợp này,” Anthony thêm vào, tôn trọng giây phút riêng tư của bạn, bằng cách không đào sâu hơn vào chủ đề không lấy gì làm thoải mái ấy, “thật mừng khi cậu trở về. Tôi cuối cùng cũng có được chút thanh bình cho đến khi hộ tống em gái đến buổi dạ vũ.”

Simon ngả người ra sau, vòng tay qua đôi chân dài, cơ bắp rồi ôm lấy mắt cá chân. “Lời bình luận hấp dẫn đấy.”

Anthony nhướng mày. “Chuyện mà cậu chắc rằng tôi sẽ giải thích?”

“Dĩ nhiên là vậy rồi.”

“Tôi nên để cậu tự tìm hiểu lấy mới phải, nhưng vậy đó, tôi chưa bao giờ là người tàn nhẫn đến thế cả.”

Simon tặc lưỡi. “Điều đó đến từ người đã nhúng đầu tôi vào cái bô sao?”

Anthony phẩy tay thô bạo. “Lúc ấy tôi còn trẻ.”

“Và giờ cậu là hình mẫu của con người trưởng thành đúng mực và có trách nhiệm?”

Anthony toe toét. “Hoàn toàn đúng.”

“Vậy nói cho tôi nghe xem.” Simon dài giọng. “Chính xác, bằng cách nào, tôi lại đồng nghĩa với việc khiến cho cuộc sống của cậu trở nên thanh bình hơn?”

“Tôi cho rằng cậu có kế hoạch tham gia vào chỗ đứng của mình trong xã hội?”

“Cậu sai rồi đấy.”

“Nhưng cậu lên kế hoạch có mặt vào buổi dạ vũ của Quý bà Danbury tuần này.” Anthony nói.

“Chỉ bởi vì không hiểu sao tôi lại tìm thấy quý bà đứng tuổi ấy. Bà nói bất cứ gì bà nghĩ, và–” Đôi mắt Simon như che đậy điều gì đó.

“Và?” Anthony thúc giục.

Simon lắc nhẹ đầu. “Không có gì. Chỉ là bà rất tốt khi tôi còn nhỏ. Tôi đã trải qua nhiều mùa hè tại nhà bà với Riverdale. Cháu trai bà ấy, cậu biết đấy.”

Anthony gật đầu. “Hiểu rồi. Vậy cậu không hề có ý định nào về việc bước chân vào xã hội thượng lưu. Tôi bị ấn tượng bởi quyết tâm của cậu đấy. Nhưng để tôi cảnh báo cậu nhé – cho dù cậu không chọn con đường tham dự vào các sự kiện trong giới của họ, thì họ cũng sẽ tìm cậu thôi.”

Simon, chọn ngay lúc này để hớp một ngụm brandy, tặc lưỡi trước vẻ mặt của Anthony khi bạn mình nhắc đến ‘họ’. Sau khi mất thời gian cho việc ho khụ khụ và phun phì phì, anh cuối cùng cũng xoay sở nói được. “Họ, lạy thánh thần, là ai?”

Anthony rùng mình. “Các bà mẹ.”

“Tôi không có mẹ, nên tôi không nghĩ tôi có thể hiểu cậu nói gì.”

“Các bà mẹ trong tầng lớp thượng lưu, cậu ngốc à. Những con rồng thở ra lửa và các cô con gái của họ – Ôi, Chúa phù hộ chúng con – đang ở độ tuổi kết hôn. Cậu có thể trốn chạy, nhưng sẽ không bao giờ thành công trong việc lẩn trốn họ lâu được đâu. Và tôi cũng cần cảnh cáo cậu, kinh nghiệm của tôi thì tệ hơn thế rất nhiều đấy.”

“Lạy Chúa. Vậy mà tôi đã từng nghĩ là Châu Phi mới nguy hiểm chứ.”

Anthony bắn cho bạn mình cái nhìn thương cảm. “Họ sẽ lùng sục, dồn cậu vào đường cùng. Và khi họ tìm thấy cậu rồi, cậu sẽ thấy mình đã bị bẫy chặt trong cuộc trò chuyện với một quý cô trẻ tuổi nhợt nhạt, tất cả đều ăn vận xúng xính trong bộ váy trắng, không thể nói về bất cứ chủ đề nào khác ngoài thời tiết. Họ nhận cả đống biên nhận từ Almack, và rất nhiều dây buộc tóc.”

Một tia nhìn thích thú lướt qua vẻ mặt Simon. “Tôi hiểu rồi, vậy là, suốt trong khoảng thời gian tôi ở nước ngoài, cậu đã trở thành một quý ngài thanh lịch được chọn?”

“Không nằm ngoài bất cứ nguyện vọng nào, trong một phần vai trò của cuộc đời tôi, tôi cho là thế. Nếu nó đổ sụp xuống tôi, tôi sẽ tránh các nhiệm vụ của giới thượng lưu như tránh dịch bệnh truyền nhiễm ấy. Nhưng em gái tôi có mùa ra mắt vào năm ngoái, và tôi bị ép phải hộ tống con bé hết lần này đến lần khác.”

“Ý cậu là Daphne?”

Anthony ngước lên ngạc nhiên. “Hai người gặp nhau rồi à?”

“Chưa.” Simon thừa nhận. “Nhưng tôi nhớ những bức thư cô ấy viết cho cậu ở trường, và tôi nhớ rằng cô ấy là thành viên thứ tư trong gia đình, nên tên cô ấy phải bắt đầu bằng chữ D, và–”

“À, phải rồi.” Anthony nói, đảo nhẹ mắt. “Phương pháp đặt tên của gia đình Bridgerton. Sự bảo đảm chắc chắn không ai quên bạn là ai.”

Simon phá lên cười. “Nó có hiệu quả, phải không?”

“Nhân tiện, Simon,” Anthony đột ngột nói, chồm người về phía trước, “tôi hứa với mẹ sẽ ăn tối tại nhà Bridgerton, vào cuối tuần này với gia đình. Sao cậu không tham gia cùng tôi?”

Simon nhướng hàng lông mày đậm. “Không phải cậu mới vừa cảnh báo tôi về các bà mẹ thượng lưu, cùng các cô con gái lần đầu ra mắt của họ sao?”

Anthony cười nhăn nhở. “Tôi sẽ bảo đảm bà ấy cư xử sao cho tốt nhất, và đừng lo lắng về Daff. Con bé là một trường hợp ngoại lệ trong việc chứng minh ba cái quy tắc đó không phải đúng với tất cả. Cậu sẽ thích nó thôi.”

Simon nheo mắt. Có phải Anthony đang đóng vai trò mai mối không nhỉ? Anh chẳng thể nói trước được.

Như thể Anthony có thể đọc được suy nghĩ của anh, bèn cười rũ. “Lạy Chúa, cậu không nghĩ tôi đang cố gắng ghép đôi cậu với Daphne đó chứ?”

Simon không nói gì.

“Cậu không bao giờ hợp với con bé đâu. Cậu quá nhàm chán so với sở thích của nó.”

Simon nghĩ đó là một lời bình kỳ quặc, nhưng thay vào đó anh lại chọn hỏi một câu khác. “Vậy cô ấy có nhận được bất kỳ lời cầu hôn nào chưa?”

“Có vài lời đề nghị.” Anthony đẩy ly brandy, rồi thở hắt ra hài lòng. “Tôi đã kêu con bé từ chối hết tất cả.”

“Điều đó nghe có vẻ thương tâm nhỉ.”

Anthony nhún vai. “Tình yêu không phải là thứ có thể hy vọng quá nhiều trong những cuộc hôn nhân ngày nay, nhưng tôi muốn con bé ít nhất phải được hạnh phúc với chồng nó. Chúng tôi nhận được lời đề nghị từ một gã đàn ông già đến nỗi đủ để làm cha con bé, người khác lại lớn đến mức có thể làm cha thằng em trai út của tôi, người nữa thì quá hách dịch khi bước chân vào một gia tộc náo nhiệt như cậu đã biết, và rồi tuần này, Chúa lòng lành, lại là điều tệ nhất.”

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Simon tò mò hỏi.

Anthony mệt mỏi chà tay vào thái dương. “Lần cuối này là một người hoàn toàn tử tế, nhưng hắn ta là một thằng đần. Cậu thấy đấy, sau những tháng ngày ăn chơi trác táng của chúng ta trước kia, tôi hoàn toàn không có cảm giác–.”

“Thật sao?” Simon nhăn nhở cười quỷ quái, hỏi. “Cậu nghĩ vậy à?”

Anthony quắc mắt, cau có nhìn anh. “Tôi không có hứng thú đặc biệt trong việc làm tan nát trái tim anh chàng tội nghiệp đó đâu.”

“Chà, chẳng phải Daphne mới mà người làm điều đó sao?”

“Đúng vậy, nhưng tôi phải nói cho cậu ta.”

“Không phải người anh nào cũng cho phép em gái có quyền với những lời cầu hôn của họ.” Simon nói lặng lẽ.

Anthony chỉ nhún vai lần nữa, cứ như là không thể tưởng tượng được sẽ có thể đối xử với em gái theo một cách khác. “Con bé là đứa em yêu quý của tôi. Ít nhất đó là những gì tôi làm được cho nó.”

“Ngay cả nếu điều đó có nghĩa là hộ tống cô ấy đến Almack?” Simon ranh mãnh hỏi.

Anthony làu bàu. “Ngay cả thế.”

“Tôi đành anh ủi cậu bằng cách chỉ cho cậu thấy rằng điều này sẽ qua nhanh thôi, nhưng sao nhỉ, cậu còn ba người em gái nữa đang chờ sự hộ tống phải không?”

Anthony lún sâu vào chỗ ngồi. “Eloise sẽ bắt đầu mùa vũ hội của mình vào hai năm nữa, và Francesca thì vào một năm sau đó, nhưng tôi còn phải lo về nó cho đến khi Hyacinth đến tuổi ra mắt.”

Simon cười thầm. “Tôi không thèm muốn trách nhiện của cậu một tí nào đâu.” Nhưng ngay cả khi nói những lời đó, anh cảm thấy nỗi khao khát kỳ lạ, và anh tự hỏi sẽ như thế nào khi không phải sống lặng lẽ một mình trên thế giới này. Anh không có dự định bắt đầu gầy dựng gia đình cho bản thân, nhưng có thể nếu như anh có một gia đình để bắt đầu, cuộc đời anh đã đổi khác.

“Vậy cậu sẽ đến bữa tối chứ?” Anthony đứng dậy. “Dĩ nhiên là bữa tối thông thường thôi. Chúng tôi không bao giờ ăn uống quá trang trọng khi chỉ có gia đình cả.”

Simon có hàng tá thứ để làm trong vài ngày tiếp theo, nhưng trước khi anh có thể nhắc nhở bản thân rằng anh cần giải quyết công việc, anh đã nghe chính mình nói. “Tôi rất vui lòng.”

“Tuyệt hảo. Và tôi sẽ thấy cậu tại vũ hội của Quý bà Danbury trước chứ?”

Simon rùng mình. “Không nếu như tôi giải quyết được. Ý định của tôi là ở đó và trở ra chỉ trong khoảng 30 phút.”

“Cậu thật sự nghĩ,” Anthony nói, nhướng mày đầy nghi ngờ, “rằng cậu có thể đến buổi tiệc, bày tỏ lòng tôn kính với Quý bà Danbury, và sau đó rời đi?”

Simon gật đầu mạnh mẽ và quả quyết.

Nhưng cái khịt mũi đầy nhạo báng của Anthony thì không đảm bảo điều đó.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.