Bá Nhan sai người dựng lại trướng soái. Xong xuôi, vừa lúc y định đi vào thì một con ngựa phóng nước đại tới, người trên yên mình lấm bụi đường, vẻ mặt căng thẳng. Bá Nhan nhướng mắt nhìn. Kỵ sĩ nhảy xuống ngựa, dỡ
trong ngực ra một cuộn giấy màu vàng. Thoát Hoan đưa tay đón, nhưng kỵ
sĩ nọ không buồn để ý, đi thẳng đến trình cho Bá Nhan. Thoát Hoan đâm
ngượng, lúng túng rụt tay về.
Bá Nhan giở cuộn giấy xem lướt, sắc mặt u ám, từ từ cuốn lại như cũ, nóng nảy cất bước một lúc, chợt nói:
– Truyền lệnh ta, từ tham tướng trở lên, mau về trướng soái nghị sự!
Các thân binh vâng lệnh tỏa đi. Bá Nhan rảo chân vào trướng, ngồi xuống ghế chủ tọa, vẻ mặt kín bưng, chẳng rõ vui hay giận. Bọn Thoát Hoan không
đoán được đã xảy ra chuyện gì, đành nén lòng chờ đợi.
Chỉ lát
sau, các tướng đã tề tựu đủ, Bá Nhan đứng dậy đi đi lại lại, cặp mắt
sáng quắc lướt khắp mặt mọi người, thận trọng thông báo:
– Đại Đô vừa gửi tin khẩn. Con trai Mông Ca là Tích Lí Cát câu kết với Hải Đô âm mưu tạo phản, bắt giữ toàn bộ tướng lĩnh tây bắc và thâu tóm mười vạn
quân đang đồn trú tại đó. Hiện tại hắn và Hải Đô đã hợp nhất lực lượng,
kéo vào giày xéo cố đô Hòa Lâm, chiếm lấy võ trướng[2] của Thành Cát Tư
Hãn. Thánh thượng hạ chỉ cho đại quân ta hỏa tốc hồi sư tây tiến.
Các tướng tái mặt. Đối với người Mông Cổ, võ trướng Thành Cát Tư Hãn cũng
quan trọng như ngọc tỷ truyền quốc đối với người Hán, đánh mất chẳng
phải chuyện chơi, lại thêm vụ binh biến tây bắc và lực lượng phản loạn
lên đến ba mươi vạn người do các danh tướng và phiên vương dũng mãnh như Hải Đô, Tích Lí Cát dẫn dắt, tình thế Đại Đô quả thực quá sức nguy
ngập.
Bầu không khí tịch mịch bao trùm cả trướng, âm thanh duy
nhất là tiếng bước chân bồn chồn của Bá Nhan. Đi lại hồi lâu, y vụt dằn
bước, gọi to:
– Lương Tiêu!
Lương Tiêu giật mình bước ra khỏi hàng. Bá Nhan nói:
– Theo chỉ dụ của thánh thượng, ngươi hãy dẫn tám vạn thiết kỵ Mông Cổ,
Khâm Sát và Hán tộc lên bắc trước để cứu viện Đại Đô. A Truật phá xong
Dương Châu sẽ đến hiệp lực với ngươi.
Đầu óc Lương Tiêu trống
rỗng, chỉ còn quay cuồng một ý nghĩ: “Lại bắt ta phải đánh trận à? Đánh
hết Đại Tống đánh sang Mông Cổ, bao giờ cuộc chiến này mới chấm dứt đây? Vậy mà dám nói thiên hạ thống nhất là sẽ vĩnh viễn không còn chiến
tranh, thật là rỗng tuếch!”.
Thoát Hoan chen ngang:
– Đùng đùng rút hết binh hùng tướng mạnh về bắc thì diệt Tống bằng cách nào nữa?
Bá Nhan nói:
– Việc gấp phải giải quyết trước, thế thôi. Đám tàn binh bại tướng nhà
Tống hiện như cá nằm trên thớt, chẳng có gì đáng ngại. Hải Đô và Tích Lí Cát mới là cường địch kia! – nói đoạn chăm chú nhìn Lương Tiêu. – Chiến dịch lần này có tính quyết định rất cao, chỉ được phép thắng, không
được phép thua!
Lương Tiêu thẫn thờ nhìn xuống. Bộ dạng uể oải ấy làm Bá Nhan phát bực, y toan trách mắng thì một Thiên phu trưởng hộc
tốc chạy vào, gấp rút báo:
– Bẩm Thừa tướng, phò mã nhà Tống là
Dương Trấn đã cắp Ích Vương Triệu Thị và Quảng Vương Triệu Bính trốn
khỏi Lâm An chạy về phía nam rồi!
Bá Nhan đang rối ruột vì phản loạn quân sự ở Tây Bắc, nghe đến tin này thì không sao kiềm chế nổi nữa, quát lớn:
– Thế là thế nào?
Tiếng quát rền như sấm nổ khiến viên Thiên phu trưởng phát run, rủn chân khuỵu xuống. Thoát Hoan láo liên con mắt, cười hì hì:
– Thừa tướng hà tất nổi giận, giao việc này cho bản vương đi! Ta đảm bảo sẽ tóm cổ hai tên oắt con đó.
Bá Nhan đăm chiêu:
– Để hai đứa ấy chạy tuốt xuống nam thể nào cũng sinh hậu hoạn! – Y
nghiến răng, chợt đập mạnh tay làm sụn cả bàn, trầm giọng thốt. – Phải
dùng cách giết gà dọa khỉ, đánh phủ đầu để bọn Tống thôi nuôi vọng
tưởng. Trấn Nam Vương, hễ bắt được Triệu Thị và Triệu Bính, ông hãy giết ngay tại chỗ, không được dung tha!
Thoát Hoan vỗ tay:
– Đúng rồi, phủ đầu phủ đầu, chính hợp ý ta. – Hắn cười sằng sặc, dẫn tùy tùng đi ra khỏi trướng.
Bá Nhan sắp xếp binh mã và phân công nhiệm vụ xong thì cho các tướng lui,
chỉ giữ Lương Tiêu ở lại. Trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng y bảo:
–
Thánh thượng vốn muốn gặp cậu từ lâu, nhưng ngại gián đoạn công cuộc nam chinh nên tạm gác lại. Chuyến này dẫn quân về bắc chính là cơ hội thích hợp để cậu yết kiến người. Lão nhân gia tuổi hạc đã cao, mà tình hình
hiện thời tương đối phức tạp, bên ngoài thì có các phiên vương ngỗ
ngược, hết kẻ này đến kẻ khác theo nhau nổi loạn, bên trong lại được ông thái tử hèn yếu, chẳng làm nổi việc gì cho nên hồn, vì vậy người hằng
mong mỏi tìm được một đại tướng trẻ tuổi tài ba giúp mình chèo chống qua sóng gió, ổn định thể chế cục diện. Người còn mong, cho dù một mai
người có đi xa, viên đại tướng ấy vẫn một lòng phò tá thái tử, trấn áp
phiên vương, mở mang lãnh thổ cho thỏa di chí của Thái Tổ. Kể từ chiến
dịch Tương Dương, hễ cậu đánh trận nào là thánh thượng yêu cầu ta báo
cáo tỉ mỉ tình hình trận nấy. Đợt vừa rồi ta hồi triều, người liên tục
nhắc đến cậu trước mặt các vương gia đại thần, nhưng không gọi thẳng tên mà gọi là “tiểu ái tướng của trẫm”, nói rằng sẽ dành cậu cho không chỉ
đời con mà cả đời cháu của người. Trước đây người đã nhiều lần phá lệ
thăng cấp cho cậu, còn nhớ chứ? Và lần này là chỉ đích danh, phong cậu
làm soái dẫn binh lên bắc rồi đấy. Ân sủng nhường ấy xưa rày rất hiếm,
cậu có phúc lắm mới gặp được đấng minh quân như vậy.
Ngừng một lát, y tiếp:
– Về mặt cầm quân đánh trận, hạng Hải Đô, Tích Lí Cát không bằng một góc
của cậu, chiến thắng chúng chắc chẳng khó khăn gì. Lần này về kinh với
tư thế trọng thần triều đình, lại sắp lập được công to, nhớ phải khiêm
tốn nhún nhường, kiềm chế tính khí kiêu ngạo nóng nảy. Quan trường khác
xa chiến trường, nơi đây tua tủa giáo mác nhưng hiển hiện ngay trước
mắt, còn chốn quan trường lác đác gươm đao nhưng nhiều thuốc độc và đều
ẩn rất sâu. Quan hệ giữa chúng ta có phần đặc biệt nên ta mới rộng dung
cho cậu thích gì làm nấy, người khác thì chẳng độ lượng thế đâu. Huống
hồ bây giờ cậu quyền cao chức trọng, thiếu gì kẻ ghen ghét muốn hạ bệ.
Chẳng may khiến cả thiên hạ thù nghịch với mình thì dẫu có nghìn tay
nghìn mắt cũng không ứng phó nổi! Vì vậy khi nào thẳng thừng được hãy
thẳng thừng, khi nào cần nín nhịn thì nên nín nhịn, đừng khăng khăng tự
phụ tài cao mà kiêu căng háo thắng. Có câu nói thế này: “Biết đâu cao
quá đời ghen, Biết đâu sạch quá đời khen da mà”. Khi chinh chiến cũng
vậy, đã ra sa trường là khó tránh khỏi giết chóc cướp bóc, chớ cấm đoán
xét nét từng li từng tí kẻo người ta kết oán. Còn một điều nữa cậu nhất
thiết phải nhớ, thiên hạ này là thiên hạ của họ Bột Nhi Chỉ Cân. Thánh
thượng trọng nhất là lòng trung thành, thứ nhì mới đến bản lĩnh, cho dù
cậu không nuôi dã tâm chống phá thì cũng nên thận trọng hành xử, vì lưỡi mềm độc quá đuôi ong, lời gièm pha dễ khiến lòng sinh nghi! Nói ngay
chuyện hôm nay thôi, cậu vô lễ với Thoát Hoan là chuyện nhỏ, nhưng lỡ
hắn để bụng trả thù, thẽ thọt sàm tấu nay một câu mai hai câu, việc bé
tất xé ra to. Cái thân làm tướng như chúng ta, một khi bị định tội phản
loạn thì sẽ gánh đủ voi giày ngựa xé, lăng trì xử giảo không thiếu cực
hình nào. À, suýt quên, ta dặn cậu thêm một câu, đừng có hí hoáy mãi với mấy cái que tính, dạo trước Quách Thủ Kính dốc lòng tiến cử cậu về
trông coi cục Thái Sử nhưng bị thánh thượng gạt phắt đi đấy! Đại Nguyên
ta dùng võ công bình định thiên hạ, toán thuật lịch pháp chỉ là trò vè
thêm thắt, đánh trận trị quốc mới là việc chính yếu. Thánh thượng hùng
tài đại lược, không chỉ muốn ôm trọn đất đai trung nguyên mà còn muốn mở rộng ra hải ngoại, dần dần thôn tính cả Cao Ly, Nhật Bản, An Nam, Giao
Chỉ, Phù Nam, Đại Tần… Cậu còn trẻ, bản lĩnh như thế lo gì không có đất
dụng võ…
Bá Nhan nói một mạch, nói rất nhiều, lúc nhìn lại thì thấy Lương Tiêu bộ dạng lừ đừ, mắt nhìn đâu đâu, y nổi giận gắt:
– Hiểu chưa?
Lương Tiêu giật mình, ngao ngán thở dài rồi uể oải đáp:
– Hiểu mà!
Bá Nhan nghĩ thêm một lúc, thấy không còn gì để dặn dò nữa, bèn bảo:
– Thôi, về mà sắp xếp binh mã, hai hôm nữa là phải lên đường đấy!
Lương Tiêu vái một vái thật thấp, đoạn quay mình sải bước đi ra. Bá Nhan nhìn hút theo bóng gã, bất giác ruột gan rối bời: “Cái đồ quỷ sứ nhà giời,
chẳng biết ta còn phải hao tâm tổn sức bao nhiêu nữa với con đây?”.
Lúc ấy trời đã nhọ mặt người, Lương Tiêu bơ phờ đi một quãng, chợt nghe có tiếng cười vang:
– Chúc mừng, chúc mừng!
Gã cau mày nhìn lại thì thấy Minh Quy đang vòng ra từ sau một căn lều. Vốn không muốn nói chuyện với con người này, gã lạnh lùng cắt ngang:
– Có gì mừng mà chúc?
Minh Quy cười tươi:
– Bình chương đại nhân giễu cợt Minh mỗ đấy à? Đại nhân nắm quyền to
trong tay, ngày mai lại dẫn quân lên bắc, nếu thắng lợi thì nhất định sẽ được ghi danh sử sách, chẳng phải là điều mừng hay sao?
Lương Tiêu nhếch mép:
– Ông muốn gì cứ nói thẳng ra, đừng vòng vo tam quốc.
Minh Quy thì thào:
– Ân oán ngày xưa chấm dứt nhé! Nếu ngươi không chê, Minh Quy này sẵn
sàng giúp ngươi một tay. Chắc ngươi cũng biết Bá Nhan đứng về phe thái
tử, đối địch với Thoát Hoan, mai sau Thoát Hoan nhất định sẽ gây khó dễ
cho cả ngươi nữa, nhưng nếu có lão phu làm tay trong bên cạnh hắn và bí
mật thông báo tình hình thì ngươi được lợi nhiều lắm, việc dữ hóa lành,
việc rủi hóa may. – Thấy Lương Tiêu ngờ vực ra mặt, lão bèn ngọt ngào. – Ngươi đừng nghi ngại, ta không có bụng dạ nào khác đâu, vì việc này tốt cho cả ta nữa mà. Hiện thời chính sự nhà Nguyên chứa đựng vô khối mâu
thuẫn, ngoài cõi phiên vương phản loạn, trong triều thân vương khuynh
loát, hễ Hốt Tất Liệt nằm xuống là sẽ sinh biến ngay. Lúc đó ngươi nắm
binh quyền trong tay, ngoài có ta hỗ trợ, trước tiêu diệt Thoát Hoan,
sau lật đổ thái tử, cuối cùng dùng quân đội trấn áp chư vương, trở tay
một cái là nắm gọn giang sơn Đại Nguyên, hai ta chung hưởng phú quý
chẳng phải là hay lắm sao?
Lương Tiêu nhìn bộ mặt quỷ quái, lòng chán ghét lạ lùng, lạnh nhạt hỏi:
– Ông tưởng Lương mỗ sẽ thông đồng làm bậy với ông ư?
Minh Quy sầm mặt:
– Còn giả vờ đóng vai quân tử kia à? Của đáng tội, Minh mỗ tuy có vài ba
mưu mô thật, nhưng chưa đến nỗi thẳng tay tàn sát mạng người như ai đó.
Ngươi chỉ khẽ trỏ búa Việt cờ mao là thây chất thành đống, máu đổ thành
sông, Minh mỗ chả sánh kịp. Ha ha, bốn chữ “thông đồng làm bậy” ta xin
dâng trả cho ngươi. – đoạn rũ áo bỏ đi.
Lương Tiêu chết điếng.
Xưa nay gã vẫn khinh miệt những hành vi của Minh Quy, nhưng lần này bị
lão đả kích đích đáng quá, không đỡ vào đâu được, khổ tâm đứng ngây ra.
Chẳng biết như thế bao lâu, cuối cùng gã bò lên ngựa, vào thành Lâm An
đi loanh quanh, cuối cùng mua một ít phấn son và váy áo đẹp đẽ.
Tối muộn, Lương Tiêu mới về đến trướng. A Tuyết đang lúi húi khâu vá, trông thấy ca ca thì vui mừng ra đón, giúp gã cởi bỏ giáp trụ. Lương Tiêu
nhìn cô gái tươi tắn như hoa, bỗng xót xa trong dạ, ngoảnh đầu đi:
– Trung Điều Ngũ Bảo đâu?
– Họ chạy biến đằng nào từ ban ngày rồi ấy, chơi tới giờ vẫn chưa về.
Lương Tiêu thở dài:
– Vô tư thế cũng vui. Muội đang làm gì đấy?
A Tuyết hồng hồng đôi má, dịu dàng đáp:
– Muội thấy bọn Lý Đình đều có túi hương đeo trong người, mà huynh lại không có…
– Cần chi cái của rách việc thối tha ấy? – Lương Tiêu xẵng giọng, chợt
thấy A Tuyết cúi gằm đầu, gã vội vỗ về. – Thôi thôi, ta nói sai, của ai
khác thì thối hoắc thối hăng, nhưng túi hương A Tuyết làm thì thơm phưng thơm phức.
A Tuyết che miệng cười khúc khích. Lương Tiêu cũng cười khì, đưa một cái hộp cho cô gái:
– Muội xem gì đây này!
A Tuyết tò mò mở ra, trong hộp là một bộ váy dài màu phấn hồng thêu thùa rất tinh xảo, cô ngạc nhiên hỏi:
– Của ai đấy huynh?
– Của ta tặng muội!
A Tuyết đỏ mặt:
– Muội còn phải theo ca ca đi đánh trận, mặc y phục nữ nhi sao tiện?
Lương Tiêu thở dài:
– Từ nay về sau muội không cần vận giáp sắt nữa!
A Tuyết sửng sốt, vội hỏi:
– Huynh… định đuổi muội đi à?
– Muội đừng cả nghĩ.
A Tuyết lộ rõ vẻ hồ nghi, Lương Tiêu bèn bảo:
– Ta đã sai đun nước thơm, muội tắm rửa rồi mặc áo mới vào ta xem.
A Tuyết đi vào phòng, mặt đỏ lựng như quả bồ quân.
Một lúc lâu sau, cô bước ra trong bộ váy mới. Hơi nước nóng chưa tan vun
đôi má cô đỏ hồng, nom càng thêm đáng yêu. Lương Tiêu nhìn không chớp
mắt, A Tuyết đâm cuống, chân tay vụng về thừa thãi, bối rối gọi:
– Ca ca!
Lương Tiêu bừng tỉnh, mỉm cười:
– Thì ra A Tuyết xinh đẹp nhường này! Chẳng biết tên nào tốt phúc rước được em ta về dinh nhỉ?
A Tuyết nghe câu đầu tiên, lòng ngập tràn xao xuyến, nghe đến câu thứ nhì lại ấm ức tột cùng, vùng vằng đi đến ngồi trước gương, khổ nỗi lâu ngày biếng điểm trang, vấn tóc mãi vẫn không ngay ngắn. Lương Tiêu phì cười, đứng dậy lại búi tóc giúp rồi lấy hộp trang điểm, vẽ mày và đánh phấn
cho cô.
A Tuyết ngẩn ngơ soi gương, mặc gã làm, thình lình nước mắt trào ra, cô hỏi nhỏ:
– Huynh trang điểm cho muội như tân nương ấy, không phải… huynh đã hứa gả A Tuyết cho ai đấy chứ?
Lương Tiêu nhăn mặt:
– Chỉ nói nhăng, làm gì có chuyện đó? – Gã nắm bàn tay thon nhỏ, kéo cô
gái ra ngồi trên bậc thềm dẫn xuống sân, rủ rỉ bảo. – Ta chẳng đã nói
rồi đấy ư, ta không bao giờ ép uổng muội lấy ai. Còn nếu muội ưng người
nào, ta cũng quyết không ngăn cản muội!
A Tuyết cúi đầu lí nhí:
– Ngộ nhỡ A Tuyết lấy phải người chẳng ra gì, suốt ngày bị họ ức hiếp thì sao?
Lương Tiêu hừ mũi:
– Ta vặn cổ hắn ấy chứ!
A Tuyết cười khúc khích:
– Ối chà… thế chẳng phải muội sẽ thành… thành…
Cô lắp bắp mãi không thốt được hai chữ “quả phụ”. Lương Tiêu cười:
– Thôi được, nể mặt muội, ta tha cái mạng hèn cho hắn, chỉ chặt cụt hai chân mà thôi.
A Tuyết nghĩ thầm: “Huynh có thể tự chặt chân huynh chăng? Mà dầu huynh
sẵn sàng làm, muội cũng đau lòng lắm lắm”. Cô nhẹ nhàng tựa má vào vai
Lương Tiêu, ánh mắt êm đềm. Gã thiếu niên thẫn thờ tự nhủ: “Nếu A Tuyết
lấy ai đó thật, có thể ta dám vặn cổ hắn lắm”, càng nghĩ, càng thấy lòng đầy mâu thuẫn.
Hai người tựa vào nhau, nói chuyện vu vơ. Đến nửa đêm, A Tuyết mệt rũ, mơ màng thiếp đi, khi tỉnh lại đã thấy mình nằm
ngay ngắn trên giường, người đắp một cái chăn gấm mềm nhẹ và thoang
thoảng thơm. Cô vùng dậy nhìn quanh. Lương Tiêu đang ngồi trước đèn,
chừng như viết lách rồi đóng gói một vài thứ gì đó, đặt lên bàn.
A Tuyết dịu dàng hỏi:
– Ca ca làm gì vậy?
Lương Tiêu ngoái đầu lại:
– Muội tỉnh rồi à? – đoạn nhỏm dậy đẩy cửa, đêm đen mịt mùng in nổi chòm
sáng của sao bắc đẩu. Gã đứng lặng hồi lâu rồi quay vào gần giường, nói
khẽ. – Ta không đánh trận nữa đâu!
– Huynh bảo sao cơ?
Lương Tiêu đáp, sau một lúc trầm ngâm:
– Từ ngày tòng quân tới nay, ta đã tàn hại biết bao người. Những mong sau cuộc chiến này có thể từ bỏ cung mã, về Đại Đô tu đính lịch pháp, sửa
sang thủy lợi, nhưng người ta không cho, cứ khăng khăng bắt ta phải sang tây chinh phạt các phiên vương Mông Cổ, cũng tức là tiếp tục giết
người… – Gã thở dài. – Đã vậy, chỉ còn cách bỏ đi là ổn nhất.
A Tuyết úp mặt vào vai gã:
– Muội cũng mệt rồi. Chúng ta đi đi, đi thật xa, đến Khâm Sát, Ai Cập, và khắp mọi nơi dưới vòm trời này nhé.
Lương Tiêu cúi xuống nhìn cô gái:
– Nghe muội nói thế, ta vui lắm.
Gã sung sướng mỉm cười, A Tuyết cũng cười theo:
– Có báo cho Thổ Thổ Cáp và mấy người kia không?
Lương Tiêu lắc đầu:
– Lẳng lặng mà đi thì hơn!
A Tuyết tuy thắc mắc, nhưng nghĩ đến lúc được cùng Lương Tiêu rong ruổi
mọi nơi thì rạo rực quá, không bận tâm gặng hỏi thêm nữa.
Ý đã
quyết, họ liền đóng gói đồ đạc, nhân đêm theo cửa bắc rời thành. Lương
Tiêu cầm lệnh phù thông hành nên đi qua các trạm trót lọt, không gặp trở ngại gì cả. Nhưng vừa ra đến ngoại vi, họ trông thấy ngay một đội kỵ
binh đèn đuốc gậy gộc hò hét phóng rầm rập trên đường cái. Lương Tiêu
rất kinh ngạc, nhưng đã dứt khoát rời quân đội Nguyên triều nên không
muốn dính dáng tìm biết gì nữa, bèn bảo A Tuyết:
– Chuyến này ta
bỏ đi, nhất định Bá Nhan sẽ nổi giận, phái người đuổi theo. Ta không
muốn chạm mặt đám quân sĩ kia. Để tránh bại lộ hành tung, chúng ta hẵng
lên núi nghỉ chân vài ngày, đợi ồn ào lắng xuống rồi tiếp tục đăng
trình.
Hai người theo hướng đông nam tiến vào vùng núi, không ngờ càng đi càng trông thấy nhiều quân Nguyên hơn. Lương Tiêu tìm đường
vòng tránh né, dắt A Tuyết vào sâu trong núi. Đi được chừng nửa ngày,
đến giữa trưa Lương Tiêu mới chọn được nơi dừng chân. Gã phát chưởng
chặt cây, cùng A Tuyết cất một cái chòi chuẩn bị trú ngụ dài ngày, đợi
sóng yên bể lặng thì sẽ đi chỗ khác.
Dựng chòi xong, Lương Tiêu
toan ngồi xuống nghỉ thì nghe tiếng sột soạt trong một bụi cây cách đó
chừng mười trượng. Đoán là thú rừng, gã mừng rỡ nghĩ: “May thế, có bữa
tối rồi đây”, đoạn nín thở băng mình đến nơi, vung tay trái vạch bụi
cây, tay phải quơ mạnh. Gã xuất chiêu rất khéo, kình lực bao trùm phạm
vi một trượng, dù là hổ báo cũng khó lòng thoát được. Nào ngờ bụi cây
tách ra lại phô bày một gương mặt non nớt đang khiếp đảm. Lương Tiêu cả
kinh, vội vã thu kình lực, trảo thế dừng sát trên mặt đứa bé. Nó chừng
bốn, năm tuổi, quần áo rách rưới, mặt mũi ngoa nguếch máu và đất cát,
thấy Lương Tiêu thì hoảng hồn ngoác miệng khóc oa oa.
Đứa bé khóc làm Lương Tiêu luống cuống tay chân, không biết nên xử trí thế nào cho
phải. Thình lình, sau lưng thằng bé bốn năm tuổi nhô ra một đứa lớn hơn, tay dang rộng, giọng run rẩy:
– Đừng… đừng chạm vào em ta…
Tiếng nó nói chen lẫn với âm thanh gì xè xè, Lương Tiêu cúi xuống nhìn kỹ,
nhận ra thằng bé mồm nói cứng mà thực chất sợ hãi đến mức vãi cả đái, gã vừa kinh ngạc vừa buồn cười: “Rừng hoang núi vắng, mọc đâu ra hai đứa
ranh con thế này?”. Nhác thấy sau lưng chúng, sâu trong bụi cây, có một
người đàn ông mình vận giáp trụ nhà Tống đang nằm dài, mình mẩy bê bết
máu me, gã bèn gạt hai đứa trẻ, vươn tay thăm mũi hắn. Thằng lớn hơn la
lối om sòm:
– Đừng có sờ vào… – nhưng thấy Lương Tiêu không thèm đếm xỉa đến, nó sợ hãi khóc òa lên.
Người nọ đã tắt thở, có lẽ cũng khá lâu rồi. Lương Tiêu bần thần đứng dậy. A
Tuyết nghe tiếng khóc chạy tới, rất lấy làm ngạc nhiên, lập tức ôm hai
đứa bé vào lòng, âu yếm vỗ về. Bọn trẻ chừng như rất tủi thân, A Tuyết
càng nựng nịu, chúng càng khóc dai, đứa nhỏ hơn vừa thút thít vừa kêu:
– Mẹ, mẹ ơi…
Lương Tiêu nhíu mày ngẫm nghĩ chốc lát rồi xoa đầu chúng, nhẹ nhàng hỏi:
– Các ngươi tên gì?
Hai thằng bé vẫn còn sợ gã. Đứa lớn hơn co mình lại, sợ sệt đáp:
– Ta… là Thị, nó… là Bính.
Lương Tiêu hỏi:
– Các ngươi đến đây làm gì?
Thị nhi giọt vắn giọt dài:
– Biết đâu. Ta… và đệ đệ đang ngủ, cô phụ bỗng chạy vào, bế xốc chúng ta
mang lên ngựa, còn có ối người chạy theo sau, ối người chết… cô phụ…
cũng chết… hu hu… cô phụ chết rồi…
Nó nói câu nọ xọ câu kia, kể chuyện không mạch lạc chút nào. Lương Tiêu lắng nghe, vẻ mặt tư lự. Một lúc lâu sau, gã cười buồn:
– Thật không ngờ lại gặp các ngươi ở đây. Hai đứa mang họ Triệu chứ gì?
Hai thằng bé trố mắt nhìn gã. Bính nhi ngây thơ hỏi:
– Vì sao… thúc thúc biết?
Lương Tiêu ngớ người: “Ối chà, lần đầu tiên trong đời có người gọi ta là thúc thúc”. Gã hiền hòa đáp:
– Đương nhiên ta biết, ta còn biết cô phụ ngươi tên là Dương Trấn, thân mẫu ngươi họ Toàn và tổ mẫu ngươi họ Tạ nữa kia.
Hai đứa trẻ càng thêm kinh ngạc, Bính nhi lộ vẻ cảnh giác, rúc sâu vào lòng A Tuyết, hỏi bằng giọng gây gổ:
– Ngươi… ngươi đến bắt ta phải không?
Lương Tiêu không nghi ngờ gì nữa, nhớ lại hôm qua Thoát Hoan đã nhận trách
nhiệm truy tầm Triệu Thị và Triệu Bính, gã cau mày nhìn hai đứa trẻ, lẩn quẩn nghĩ: “Thì ra đám binh mã ngoài núi kia đang lùng sục hai tiểu
vương này. Ta đâu ngờ chúng còn nhỏ thế, thậm chí chưa đầy mười tuổi”.
Gã muốn lìa bỏ chiến tranh chém giết, rủi sao vừa dứt áo ra đi lại gặp
ngay hoàn cảnh oái oăm, cứ lầm lì ngồi nghĩ, trong người bứt rứt.
A Tuyết lau nước mắt cho hai đứa bé, dịu dàng hỏi:
– Các ngươi có đói không?
Triệu Bính gật đầu:
– Bính nhi đói lắm, muốn ăn yến sào.
A Tuyết ngớ người:
– Lấy đâu ra yến sào!
Triệu Thị nuốt nước bọn đánh ực:
– Thế nem uyên ương ngũ trân?
A Tuyết lắc lắc đầu. Triệu Thị và Triệu Bính cùng cau mày:
– Thế canh vịt hầm?
A Tuyết thở dài:
– Cũng không có, chỉ có bánh tét thịt bò thôi.
Rồi cô mang thêm lương khô và nước suối lại. Triệu Thị, Triệu Bính lớn lên
trong cảnh mâm cao cỗ đầy, quần là áo lượt, nào quen đồ ăn đạm bạc đơn
sơ, khổ nỗi suốt một ngày trời chưa có miếng gì bỏ bụng, người đã đói
lả, bèn vớ ngay lấy bánh tọng vào miệng nhai ngấu nghiến, làm A Tuyết
phải trông chừng nhắc nhở, sợ chúng bị nghẹn.
Lương Tiêu lẳng
lặng đi đâu đó một lúc, khi quay về mặt mũi tái xanh, kéo riêng A Tuyết
ra một góc kể rõ lai lịch hai đứa bé, trầm giọng bảo:
– Binh mã
chúng ta gặp trên đường chính là đám săn đuổi bọn trẻ đấy. Ta vừa trông
thấy rất nhiều quân sĩ lảng vảng ở khu phụ cận, chỉ e lát nữa chúng sẽ
lần tới đây.
A Tuyết hoảng hốt:
– Vậy chúng ta mau dẫn hai đứa đi tìm nơi ẩn náu.
Lương Tiêu lắc đầu:
– Thoát Hoan đã lĩnh mệnh, nhất định sẽ dốc toàn bộ lực lượng ra lùng
bắt. Hắn lắm thuộc hạ, lại nhiều trợ thủ giỏi, riêng một Hạ Đà La thôi
đã khó đối phó rồi. Vùng núi này đang bị bao vây, thiên quân vạn mã sẽ
lùng sục từng gốc cây ngọn cỏ, không nấp vào đâu được đâu.
A Tuyết nghe đến tên Hạ Đà La là ớn lạnh, run run hỏi:
– Làm sao bây giờ? Chẳng lẽ bỏ mặc chúng nó?
Lương Tiêu u ám bảo:
– Bá Nhan đã ra lệnh rằng hễ tìm được hai đứa là phải giết ngay tại chỗ.
Quân lệnh như sơn, không thể sửa đổi được. Rời bỏ ngọn núi này, đối với
muội và ta cũng không lấy gì làm khó, nhưng hai đứa kia muốn toàn mạng
thì thực không dễ chút nào.
A Tuyết nhìn gã, vẻ mặt buồn thảm.
Thình lình có tiếng người vọng tới, Lương Tiêu giật mình, quay lại ôm thốc
lấy hai tiểu vương, cùng A Tuyết chạy đi, đợi cho tiếng người xa hẳn mới chui vào một khe núi nghỉ tạm. Triệu Thị kinh hãi quá độ nên kiệt sức,
ngủ lịm đi ngay. Triệu Bính ăn no xong vẫn còn phấn chấn, láu táu trò
chuyện, gọi Lương Tiêu là thúc thúc, gọi A Tuyết là thẩm thẩm. A Tuyết
nghe vừa thẹn, vừa vui. Lương Tiêu chỉ lặng lẽ ngồi uống rượu.
A
Tuyết con cà con kê với Triệu Bính hồi lâu, rất mến nó láu lỉnh đáng
yêu, cứ nghĩ ngoài núi đang có bao nhiêu kẻ nhăm nhăm chực lấy mạng
thằng bé, cô không nén nổi xót thương. Chống má trầm ngâm một lúc, A
Tuyết ghé tai Triệu Bính, vừa thì thầm vừa trỏ Lương Tiêu:
– Con dập đầu lạy ông kia, gọi ông ấy là thúc thúc đi!
Triệu Bính ngơ ngác nhìn A Tuyết bằng cặp mắt long lanh trong trẻo. A Tuyết khẽ đẩy nó, giục:
– Mau!
Triệu Bính không hiểu lắm, nhưng cũng y lời bước đến trước mặt Lương Tiêu,
tới nơi lại không biết nên bắt đầu thế nào, nó cứ đứng ngây ra. Lương
Tiêu đang lử thử, thấy thằng bé co ro cúm rúm thì ngạc nhiên hỏi:
– Ngươi làm gì vậy?
Triệu Bính vốn sợ gã từ lúc mới gặp, đến giờ vẫn chưa xua hết ấn tượng ban
đầu ấy. Lương Tiêu vừa lên tiếng, nó đã bở vía, hai chân mềm nhũn, khuỵu gối xuống dập đầu. Lương Tiêu ngạc nhiên hết sức, thấy nó còn định dập
đầu nữa, vội vàng đỡ dậy:
– Nhóc con, vì sao làm thế?
Triệu Bính líu lưỡi:
– Thúc… thúc thúc…
Gọi được mấy tiếng, nó bỗng sợ hãi bật khóc. Lương Tiêu ngẩn người ra. A Tuyết chạy lại xoa đầu Triệu Bính, cười bảo:
– Nó muốn nhận huynh làm thúc phụ ấy mà!
Lương Tiêu đoán ngay ra nguồn cơn, mắng thầm: “Nha đầu ngốc, muội đánh giá ta thấp quá!”. Quay sang nhìn khuôn mặt đỏ tưng bừng của Triệu Bính, gã
lại tự nhủ: “Cha nó là hoàng đế, mẹ nó là hoàng hậu, nhưng dầu sao nó
vẫn là một đứa trẻ vô tội ngây thơ!”. Gã bỗng sinh lòng thương xót, chùi nước mắt cho thằng bé, mỉm cười bảo:
– Nhóc, bất kể thế nào, ta cũng sẽ bảo vệ con.
A Tuyết mừng rỡ:
– Bính nhi, thúc thúc đã hứa sẽ bảo vệ con, còn không mau lạy tạ đi?
Triệu Bính vẫn không hiểu, nhưng cũng y lời dập đầu, Lương Tiêu vội vàng giữ lại, A Tuyết ôm đứa trẻ vào lòng, dỗ nó ngủ.
Lương Tiêu nặng trĩu tâm sự, không sao chợp được mắt, đến nửa đêm, chợt nghe
có tiếng kim khí xoang xoảng ở mặt bắc, gã kinh sợ vớ ngay lấy cung tên
chạy ra xem. Trên đường núi phía xa lửa thắp sáng trưng, mấy chục tên
lính Nguyên đang giơ đuốc múa đao đấu với bốn người Tống. Thình lình một người rú lên thê thảm rồi gục ngã, lát sau lại thêm hai người, chỉ còn
một nữ nhân trụ được, người này tóc xõa phấp phới, tay khua trường kiếm
loạn xạ như bị ma nhập.
Xem chừng quân Nguyên có ý bắt sống người cuối cùng, một viên Bách phu trưởng hò hét binh lính vây kín hai mặt,
định chặn đứt đường lui của cô ta. Lương Tiêu động lòng trắc ẩn, nhảy ào ngay xuống, nhằm viên Bách phu trưởng bắn một phát. Hắn hự lên, máu ở
cổ ồng ộc trào ra. Lương Tiêu đi lom khom, liên tục giương cung nhả tên, bách phát bách trúng. Quân Nguyên không rõ hư thực, hò nhau giãn vây.
Nữ nhân nọ thừa cơ lẩn luôn vào rừng. Lương Tiêu hô khẽ: “Theo ta!”, rồi chạy thật nhanh đi trước, người kia bám sát theo sau.
Họ chạy
vòng vèo qua rất nhiều ngả rẽ. Về đến chỗ nghỉ, nhờ ánh lửa bập bùng,
Lương Tiêu sửng sốt nhận ra Sở Uyển. Cô ta cũng bàng hoàng vô cùng, giơ
kiếm định đâm, nhưng sực nhớ mình không địch nổi Lương Tiêu nên lại hạ
tay xuống, lòng băn khoăn lúng túng, chưa biết ứng xử ra sao.
Lương Tiêu nhíu mày:
– Thế quái nào mà lại là cô?
Sở Uyển cau có trả lời:
– Câu ấy lẽ ra phải ta hỏi mới đúng!
A Tuyết và hai đứa trẻ nghe động đi ra. Sở Uyển liếc nhìn, bỗng tươi mặt chạy ào tới nắm Triệu Thị và Triệu Bính, mừng rỡ hỏi:
– Thiên tuế… sao lại ở đây? Phò mã gia đâu?
Triệu Thị nức nở:
– Cô phụ chết rồi.
Sở Uyển tái mặt, tức thì cảnh giác đứng chắn trước mặt hai đứa bé, trừng trừng nhìn Lương Tiêu. Gã chán ngán nói:
– Ta mà có ý xấu thì việc gì phải đợi đến bây giờ!
Sở Uyển đỏ mặt hạ kiếm, ôm chặt hai đứa bé vào lòng, hỏi han rối rít. Số
là sau khi rời Thường Châu, cô ta đến Lâm An giúp dàn xếp kế hoạch cho
hai tiểu vương trốn thoát, nhưng quân Nguyên quá đông và mạnh, quân Tống chỉ có mỗi một dúm nên bị đánh cho thất điên bát đảo, phải lủi vào
trong núi, Sở Uyển náu được nửa ngày thì bị truy binh phát hiện.
Lương Tiêu biết rõ rằng quân Nguyên trước sau gì cũng tìm đến đây, bèn dập
lửa, lấy gỗ đá bố trí bẫy rập ở chỗ hiểm yếu bên ngoài. Sở Uyển vẫn đề
phòng Lương Tiêu, cả đêm cầm kiếm canh gác cho hai tiểu vương, một bước
không rời. Khốn nỗi chính cô ta cũng không tránh khỏi mệt rũ sau cuộc
chiến đấu dai dẳng nên đến giờ mão thì bắt đầu gà gật. Mụ mẫm thiếp vào
giấc ngủ một lúc, chợt nghe loáng thoáng có tiếng cười, Sở Uyển mở bừng
mắt nhìn. Lương Tiêu đang dùng cỏ tết một con chim sẻ trông y như thật
cho hai đứa bé chơi.
Sở Uyển kinh hãi quá độ, nhảy ào tới vung kiếm thét:
– Cút ngay!
Lương Tiêu giật lui nửa bộ. Triệu Bính vốn nhút nhát nên rất khiếp hãi trước
bộ dạng hung hăng của Sở Uyển, bèn lao luôn vào lòng Lương Tiêu, khóc:
– Thúc thúc…
Sở Uyển hốt hoảng giục:
– Thiên tuế mau tránh ra đi, hắn chẳng phải người tử tế đâu!
Triệu Bính tròn xoe mắt nhìn Lương Tiêu, thắc mắc:
– Thúc thúc… mà không phải là người tốt ư?
Sở Uyển nóng nảy giậm chân, chực thóa mạ Lương Tiêu, gã này vội xua tay:
– Đừng tuôn những lời ấy ra trước mặt trẻ con, ta có việc muốn nhờ cô đây!
Sở Uyển thừa biết Lương Tiêu là dạng tinh quái, liền cười khẩy:
– Ngươi tài ba thế, còn phải nhờ cậy ai? Hứ, hẳn lại mưu mô xảo trá gì đây!
Lương Tiêu chẳng buồn phân trần, chỉ bảo:
– Ta đã đi thám thính chung quanh, cách đây không xa có một sơn cốc hẹp, cô dắt hai đứa này lại đó trốn.
Sở Uyển nghi ngờ hỏi:
– Tại sao ta phải đến đấy?
– Ngoài kia rất đông lính tráng sục sạo, trốn nấp thế nào cũng sẽ lộ hình tích. Muội tử ta tính tình ngây ngô, không làm nổi việc quan trọng; ta
sẽ nghĩ cách đánh lạc hướng truy binh, trong lúc đó cô dẫn muội ấy và
hai tiểu vương ra sơn cốc ẩn nấp chừng đôi ba ngày, đợi quân Nguyên rút
lui thì lập tức tìm đến Thiên Cơ cung. – Gã vẽ sơ đồ cho Sở Uyển xem. –
Đây là Thiên Cơ cung, cô hãy vào đó gặp cung chủ Hoa Thanh Uyên, chỉ cần nhắc tên ta với ông ấy, nhất định các ngươi sẽ được đón nhận.
Thái độ gã hết sức khẩn thiết, không có vẻ gì giả trá, Sở Uyển ngập ngừng:
– Ngươi… chắc chắn không âm mưu gì chứ?
Lương Tiêu cười buồn, gọi A Tuyết đến, dặn dò y như vậy. A Tuyết liền cự:
– Không, muội phải theo huynh!
Lương Tiêu cười bảo:
– Muội yên tâm, ta ở đây mấy hôm thôi, sau đó sẽ đến Thiên Cơ cung gặp
muội. – đoạn tháo Ảo Nguyên kiếm đưa cho cô. – Muội cầm lấy!
A
Tuyết nhận kiếm, mắt đỏ hoe, cúi đầu im lặng. Lương Tiêu gắng tỏ ra bình thản, chỉ vẽ lối dẫn đến khe núi rồi giục bốn người đi. A Tuyết đi sau
cùng, chân bước như đeo đá, chốc chốc ngoái đầu nhìn lại, ánh mắt chứa
chan bịn rịn. Sở Uyển cũng nhìn Lương Tiêu, lòng đầy nghi hoặc. Triệu
Bính hỏi:
– Thúc thúc không đi với chúng ta à?
Sở Uyển bế nó vào lòng, thở dài quay đầu đi thẳng.
Lương Tiêu đưa mắt nhìn theo cho đến khi bóng họ biến mất dưới sơn cốc, đoạn
dắt ngựa ra, phóng đến chỗ gò cao gần nơi đặt cơ quan. Hầu hết cây cối ở đây đều đã bị kéo cong xuống và ghì lại bằng dây mây bền dai, bên trên
đặt đá tảng và chông nhọn. Hết hàng này đến hàng khác như thế, lập thành nhiều dãy bẫy. Lương Tiêu lấy ra một bình hồn thoát chứa rượu sữa ngựa, tu một ngụm thật to. Phía xa, cây cỏ loạt xoạt chen lẫn những lời hô
gọi bằng tiếng Mông Cổ.
Một lúc sau, hồn thoát đã cạn đáy, hơi
men bốc phừng phừng, Lương Tiêu nằm dài ra đất tĩnh trí, tự nhủ: “Một
ngày trước đây ta còn là Bình chương của Đại Nguyên, dẫn quân càn quét
khắp vùng hạ lưu Trường Giang, nào ngờ hôm nay lại trở đao chống đối
đồng bào”. Gã nhìn thẳng lên trời, bất giác ngây người, những đám mây
trắng đang tụ lại với nhau, lờ mờ kết thành hình một khuôn mặt. Gã chớp
mắt nhìn lại lần nữa thì thấy giống Lương Văn Tĩnh vô cùng, bỗng run
rẩy: “Phải chăng cha ở trên trời cũng biết, cũng đang quan sát con đấy
ư?”. Nhiệt huyết sôi trào, gã ngồi bật dậy, dõi mắt trông ra xa, một tốp mười binh sĩ lăm lăm giáo mác đang tiến lại gần gò cao.
Lương
Tiêu thình lình chống tay nhảy lên, cất tiếng cười dài. Mấy tên lính
nghe động, chưa kịp ngước trông thì hai mũi tên đã bay xuống, bắn trúng
hai kẻ đi đầu khiến chúng ngã sấp.
Lương Tiêu phát tiễn liên tục, bọn lính không kịp trở tay, lại thêm bảy tên mất mạng, kẻ cuối cùng lập tức rút lui. Lương Tiêu cũng không đuổi theo, mặc hắn chạy trốn. Chừng
thời gian tàn một cây nhang, bốn mặt đã lố nhố những người, hàng trăm
hàng ngàn binh lính hò la rầm rĩ, giương khiên tràn tới quanh gò.
Lương Tiêu nín lặng chờ đợi cho đến khi bọn chúng bò lên tới sườn núi mới
vung đao chặt đứt dây mây. Sau một hồi rầm rầm rung chuyển, đá tảng
chông nhọn ầm ầm bắn xuống. Đám binh lính trở tay không kịp, hết kẻ này
đến kẻ khác bị đá đè chông đâm, tiếng gào rú liên miên, máu thịt bắn
tung tóe. Bẫy thả hết, quân sĩ cũng tử thương gần như toàn bộ, số còn
lại rút xuống chân núi, hàng ngũ chen chúc hỗn loạn.
Lương Tiêu
không đợi đối phương chấn chỉnh lực lượng, lập tức nhảy lên ngựa. Gã đã
tính sẵn đường đi nước bước, xác định rằng mặt đông nam thưa cây cối,
đường núi tương đối bằng phẳng, chính là chỗ để dụng võ, bèn vỗ ngựa cầm cung phóng ào xuống như cơn lốc.
Quân lính không ngăn cản nổi,
trân trối nhìn gã phá trùng vây, xuyên qua một sơn cốc, men theo đường
mòn phi ra khỏi vùng núi. Đám truy binh tức giận vô cùng, cũng phi ngựa
đuổi bắt chặn đường. Lương Tiêu vận hết tài kỵ xạ, bắn không sai trật
phát nào, xác chết ngã đầy đất. Thoát Hoan nghe báo vô cùng tức giận,
triệu tập thuộc hạ, cầm cung lên ngựa hộc tốc đuổi theo.
Lương
Tiêu đánh giết xuống tới chân núi thì mười túi tên bên mình đã cạn, ba
cây cung đứt dây oằn cánh, không thể dùng được nữa, bèn giục ngựa quay
đầu, lay trường mâu đâm chết năm tên truy binh, đoạt lấy cung tên, lao
vào giữa lớp lớp binh lính, kéo căng cung, bắn liên tục sang hai bên
trái phải, xông một mạch tới trước mặt viên trưởng toán. Tên này kinh
hãi, cử thương lên đỡ, Lương Tiêu vươn tay tóm thương, vung giáo đâm
thẳng vào mặt hắn. Tên trưởng toán đổ nhào xuống đất, Lương Tiêu thuận
tay ném trường mâu đi, chuyển sang dùng hoa thương, vừa tiến vừa xoay
tít mũi thương, mỗi bước tiến là mấy người gục ngã.
Lương Tiêu
hết xáp vào lại tách ra khỏi đám truy binh, đánh giết như thế một mạch
hơn mười dặm đường. Binh lính ùn ùn kéo đến càng lúc càng đông. Lương
Tiêu lại theo kế cũ, cướp hai con chiến mã, giật cương quay đầu vào làm
rối trận, len qua hàng quân lại gần viên Thiên phu trưởng, định bụng
giết tướng trước rồi đập tan lính sau, đang rung thương chực đâm, kẻ đó
bỗng thảng thốt kêu lên:
– Bình chương đại nhân!
Lương
Tiêu ngừng thương, nhận ra là một trong các thuộc hạ của mình. Thấy hắn
há hốc mồm hãi hùng, gã không nỡ xuống tay, cười bảo:
– Đi đi, về bảo Thoát Hoan, Lương Tiêu này làm phản rồi. – đoạn vung thương gạt
phắt hắn lại sau lưng, tiếp tục tả xung hữu đột di chuyển ra khỏi trận.
Gã vừa đánh vừa tiến như thế thêm một lúc thì thấy cờ soái của Thoát Hoan từ từ lướt tới, quân lính nhất tề hô to:
– Bắt sống tên phản tặc Lương Tiêu!
Chắc hẳn viên Thiên phu trưởng vừa rồi đã báo tin về. Lương Tiêu phá lên cười lớn:
– Sống thì chả bắt được đâu, chết có cần không?
Gã giật ngựa lao vào phá trận, tiến đến cờ soái như thủy triều cuộn xô.
Quân lính thấy gã kiêu dũng như vậy, đều xúm xít lùi lại bảo vệ Thoát
Hoan. Thực chất Lương Tiêu chỉ dương đông kích tây, nhằm lúc hỗn loạn
cướp lấy một con tuấn mã dông tuốt về phía đông nam.
Lương Tiêu
đánh giết đến giờ ngọ thì con ngựa trúng tên khuỵu xuống. Gã bỏ ngựa
chạy lên một gò nhỏ. Thiết kỵ Mông Cổ từ bốn bề ập tới, la hét dập dồn.
Lương Tiêu giương cung, kéo nhưng không bắn, ngẩng đầu nhìn quanh. Núi
non vây bọc trập trùng, cỏ cây vươn lên rậm rạp. Gã tự nhủ: “Vùng này
phong cảnh hữu tình, vạn vật tốt tươi, vùi thây nơi đây cũng không đến
nỗi nào”, nghĩ đoạn cười vang. Tất cả tướng sĩ nghe động, từ bốn mặt
nhung nhúc kéo đến. Lương Tiêu đứng sừng sững trên đỉnh gò, uy phong lẫm liệt, quân lính đâm chợn, không ai dám lao lên.
Thình lình, có
những tiếng hú dài vọng đến như hưởng ứng tràng cười của Lương Tiêu.
Ngay sau đấy, xa xa ở phía bắc xuất hiện năm người phi ngựa ào ào. Quân
Nguyên chưa ổn định trận thế, lập tức bị họ phá vỡ hàng ngũ.
Lương Tiêu kinh ngạc nhìn xuống, sững sờ nhận ra Trung Điều Ngũ Bảo. Năm
huynh đệ bỏ ngựa, thoắt chạy thoắt nhảy tránh tên, băng lên gò nhanh như luồng khói. Hồ Lão Nhất gọi toáng lên từ xa:
– Đại ca định làm phản à? Trò vui thế sao không cho lão tử biết?
Bốn anh em gật đầu:
– Hồ Lão Nhất nói đúng lắm!
Lương Tiêu giận sôi:
– Vui cái con khỉ! Ai bảo các ngươi đến gây rối?
Hồ Lão Vạn cười:
– Lý Đình không cho lão tử tiết lộ!
Lương Tiêu đoán ra ngay, chắc hẳn Lý Đình nghe tin nhưng không dám tự ra mặt, đành xui năm người đến tương trợ. Một cảm giác khó tả trào lên trong
lòng, gã mắng ầm ĩ:
– Năm tên khốn, không khiến các ngươi đa sự!
Gã định bụng chiến đấu rồi vùi thân ở đây, dùng cái chết chấm dứt hết mọi
ân oán buồn vui, nhưng đến giờ lại không nỡ lòng bỏ rơi Trung Điều Ngũ
Bảo. Mấy tên này ngây ngô bừa bãi nhưng rất có tình nghĩa, đã đến đây
rồi thì dứt khoát không đời nào để gã lại một mình. Lương Tiêu đành thay đổi ý định cũ, trỏ thương về phía nam, thét:
– Được, xông ra phía kia! – đoạn gắng lấy lại tinh thần, chạy xuống trước tiên.
Trung Điều Ngũ Bảo vốn thích bới chuyện, đang yên đang lành còn gây sự được,
nay gặp hoàn cảnh ồn ào phức tạp thế này lý đâu không vui, lập tức cười
lớn, nhao nhao phụ họa:
– Đúng, xông ra phía kia!
Cả năm vung binh khí chạy theo Lương Tiêu, giết người phá trận, đồng tâm hiệp lực cướp lấy mấy con chiến mã, xé vây phóng đi.
Liên tục đánh giết hết chỗ này đến chỗ kia chừng nửa canh giờ, sáu người tạm thời cắt đuôi được truy binh, lao vào một vạt rừng. Lương Tiêu nghiêng
tai lắng nghe tiếng vó ngựa, nhận ra số nhân mã đuổi theo đã tăng thêm
gấp đôi, gã nghĩ bụng: “Lần này kinh động ba quân, hẳn Bá Nhan cũng tới
chứ chẳng chơi. Ai còn tâm trí đâu để ý đến mấy đứa bé họ Triệu kia
nữa?”. Nghĩ lại mưu kế thành công, gã không nhịn được phá lên cười lớn.
Hồ Lão Nhất ngạc nhiên:
– Đại ca vui vẻ cái nỗi…
Chưa dứt lời, hắn bỗng ho rũ rượi, Lương Tiêu đưa mắt nhìn. Năm huynh đệ võ
công cao cường nhưng chưa từng trải chiến trận bao giờ, không giỏi che
chắn cung cứng tên mạnh nên ai nấy đều thương tích cùng mình. Lương Tiêu cười bảo:
– Lão tử chém giết suốt nửa ngày trời, đột nhiên buồn tiểu, muốn đi cho nhẹ bụng!
Hồ Lão Bách cụt hứng:
– Đi đái thì vui gì đâu?
Lương Tiêu tủm tỉm đáp:
– Lão tử đái vừa cao vừa xa, phải nói là thiên hạ đệ nhất, ngẫm các ngươi không thể sánh bằng nên lão tử cao hứng thế thôi!
Trung Điều Ngũ Bảo phát bực:
– Chỉ bịa! Lại đây đọ thử!
Năm người vừa khinh suất vừa háo thắng, bất chấp truy binh đang ở sau lưng, cùng nhảy lịch bịch xuống ngựa, đứng thành một hàng tụt quần xuống.
Lương Tiêu giả vờ cởi đai rồi chầm chậm dịch vòng ra sau lưng họ. Năm
người say sưa thi tài. Hồ Lão Thiên nhìn độ dài vệt nước, hí hửng nói:
– Gì chứ đi tè, chẳng ai bén gót lão tử…
Chưa dứt lời, chợt thấy lưng đau tê, chân bủn rủn ngã vật xuống, Hồ Lão
Thiên giương mắt nhìn, nhận ra bốn huynh đệ kia cũng đã nằm quay ra đất. Ai nấy cùng ngoác mồm mắng:
– Đại ca, ngươi ám toán người ta, không tính, không tính…
Lương Tiêu không để cho bọn họ chửi xong, vỗ vào á huyệt từng người, ném lên
một chỗ um tùm trên tán cây rồi nhảy lên ngựa, thả năm con chiến mã đi
trước, vung thương chặt chém cành lá hai bên đường, thét lớn:
– Lương Tiêu ở đây!
Âm thanh rền vang như sấm, quân Nguyên đang quanh quẩn ngoài rừng, chưa
dám mạo hiểm đi vào, nay nghe động liền kéo đến bao vây. Lương Tiêu
giương cung hò hét, lao bổ vào giữa đoàn người, xông ra hướng tây được
mấy dặm thì bải hoải cả người, gục xuống lưng ngựa thở dốc. Đúng lúc ấy, đằng trước chợt có tiếng vó ngựa, mấy trăm kỵ binh đổ dồn tới, Lương
Tiêu định cử thương đón thì thấy toán người đó bỗng rối loạn. Một kỵ sĩ ở đâu múa trường kiếm xông vào đấu với bọn họ.
Lương Tiêu sửng sốt nghĩ bụng: “Ngoài Trung Điều Ngũ Bảo lại còn ai nữa đây?”. Gã giương
mắt nhìn kỹ, kinh hoàng suýt ngã, người đó tóc vấn áo thêu, chẳng A
Tuyết thì còn ai vào đấy. Chắc A Tuyết khổ chiến đã lâu, vì mình mẩy
thấm đầy những máu. Thình lình lại trúng hai mũi tên, cô chới với chao
người đi. Ruột gan đau như ai cào cấu, Lương Tiêu gạt mạnh trường thương phi đến bên ngựa A Tuyết, nhoài ôm lấy cô, đoạn trở thương đâm chết tên đầu lĩnh, xé trận phóng ra. Tên bắn đuổi theo rào rào như mưa. Chưa đến mười trượng, con ngựa trúng tên, hất Lương Tiêu rơi xuống.
Lương Tiêu vốn đã kiệt lực, không hiểu sao vừa tiếp đất bỗng như lấy được sức mạnh ở đâu ra, guồng chân chạy điên cuồng. Quân lính tổn thất trầm
trọng, mắt đỏ vằn máu, thấy đối thủ mất ngựa liền hùng hổ lao vào như
đàn sói. Lương Tiêu đột ngột quay mình nhảy vào cánh rừng bên cạnh. Đám
chiến mã đang chạy theo quán tính, bị giật cương cũng không kịp ghìm vó, vấp cây chựng lại, lớp sau ủn lớn trước, lớp trước đẩy lớp sau, ngã dồn một đống.
Ánh sáng hiếm hoi lọt xuống qua tàng lá dày, cảnh rừng có phần u ám, xa xa phía trước có tiếng gì ì oạp như nước chảy. Lương
Tiêu chạy mãi chạy mãi, mặt bị gai cào xước nát cũng không biết đau.
Chạy thêm một quãng thì ra khỏi rừng, không gian trở nên sáng sủa rộng
rãi, một dòng sông lượn quanh đồi núi, mở rộng dần về phía biển. Nước
trời mênh mang, bọt tung trắng xóa, thì ra đã tới bờ sông Tiền Đường.
Lương Tiêu bải hoải khuỵu xuống, đang gượng nhỏm dậy thì nghe A Tuyết thều
thào: “Ca ca!”. Cổ thiếu nữ trúng tên, máu chảy ròng ròng không cầm lại
được, khuôn mặt xanh tái loang lổ những máu, ánh mắt tươi cười đã bắt
đầu mờ đi. Lương Tiêu đau lòng quá đỗi, thở hộc ra: “Đồ ngốc…”. Gã luống cuống băng bó cho cô. A Tuyết khẽ than:
– Muội ngốc nghếch… bản lĩnh lại chả ra gì… không giúp được ca ca… Nhưng đời này kiếp này, gặp được ca ca… muội… vui lắm…
Máu chảy ồ ồ như suối, ánh mắt A Tuyết mỗi lúc một tối lại. Lương Tiêu thu
hết sức tàn đặt tay lên huyệt Mệnh môn của cô, nói qua hàng lệ:
– Ta nói sai, kẻ ngốc là ta, đáng lẽ ta phải hiểu ngay từ đầu là muội sẽ quay lại…
A Tuyết lướt ngón tay thon nhỏ xanh xao qua khóe mắt Lương Tiêu, mỉm cười:
– Thực ra … muội cũng không… muốn chết…
Lương Tiêu ôm chặt cô gái mà tan nát lòng, lắc đầu quầy quậy:
– Đừng nói linh tinh, muội chết sao được… Ta không cho muội chết.
Đối mặt với thiên quân vạn mã, gã vẫn nói cười như không, vậy mà lúc này, nước mắt cứ tuôn lã chã, thấm ướt cả ngực áo.
Trời dần chuyển màu u ám, mây xếp tầng tầng, hệt như một đốm mực đen lớn rớt trên nền giấy trắng. Cuồng phong nổi lên, lùa hun hút qua dãy cỏ dại
lau lách dọc bờ sông, sấm nổ ùng oàng khiến trời rung đất chuyển.
Tiếng sấm nện vào tai A Tuyết, giúp cô tỉnh táo hơn đôi chút. Cảm thấy ba hồn bảy vía mình như đang bị gió rút dần đi, cô gượng đưa tay vuốt ve tóc
mai Lương Tiêu, thở dài:
– Muội chết cũng không sao, chỉ hiềm…
không yên tâm, vì huynh chẳng bao giờ biết thương bản thân mình. Muội đi rồi, ai sẽ lo lắng cho huynh đây… – Cô lẩm bẩm, nước mắt thánh thót
rơi. – Ai cũng nói huynh mạnh mẽ lắm, thực ra… muội biết, huynh giống
như ngọn lửa, đốt cháy được kẻ khác, nhưng cũng có thể thiêu rụi chính
bản thân mình.
Trí óc A Tuyết bỗng sáng suốt lạ lùng, những điều
bình thường không nghĩ tới, không nói ra, lúc này lại ào ạt tuôn chảy
thành lời:
– Huynh giống như ngọn lửa, còn A Tuyết giống như
thiêu thân… lao vào ngọn lửa… – Một tia sáng kỳ lạ lóe lên trong đôi mắt đẹp, A Tuyết thu hết sức tàn ôm lấy cánh tay Lương Tiêu, lẩm nhẩm. –
muội yêu… huynh… rất… yêu… – Giọng cô nhỏ dần, cuối cùng lặng lẽ thoát
đi như sợi khói.
.
Sông Tiền Đường ùng ục chảy về đông,
một con thủy điểu hót lên ai oán, chớp cánh bay qua mặt nước, dông tuốt
về phía tây. Trái tim Lương Tiêu cũng lạnh dần đi như tấm thân người con gái gã đang ôm trong tay. Trên cao, những lằn chớp loằng ngoằng giằng
xé vầng mây mù nhưng không đâm xuyên qua được, sấm ì ùng cứ nối nhau rền mãi lên, lấp đi tiếng vó ngựa của hàng trăm hàng ngàn truy binh. Họ đổ
dồn đến sau lưng Lương Tiêu mỗi lúc một đông, mỗi lúc một dày. Đột
nhiên, một tia chớp ngoằn ngoèo như rắn lửa rạch ngang vòm không, hắt
lên muôn ánh nhói buốt, phóng xuống Lương Tiêu tựa lưỡi rìu.
Một
tên Bách phu trưởng bạo gan tuốt đao chém vào lưng gã. Quân sĩ nhất tề
hô vang trợ uy. Chớp bỗng nhoằng lên, Bách phu trưởng rú thảm, ngã bật
ra xa năm trượng, co giật một lúc rồi bất động. Tiếng gầm rống của toàn
quân vụt lặng tắt, dải bờ sông mênh mông bỗng yên tĩnh lạ lùng.
Tiếng sấm mỗi lúc một riết róng, lác đác vài hạt mưa to tướng lẫn trong cuồng phong quất xuống mặt người rào rạo, buốt thấu vào tận xương cốt. Lương
Tiêu rùng mình ngẩng đầu nhìn lên, da mặt lạnh buốt, không rõ nước mưa
hay nước mắt. Phía sau chợt có tiếng quát vang lừng, rồi tiếng vô số vó
ngựa chộn rộn phóng lại. Lương Tiêu cúi xuống, đăm đăm nhìn A Tuyết,
trong mắt tràn ngập bi thương. Gã vén tóc cô, thì thầm:
– Hiền muội, muội đi trước vậy, ta sẽ theo ngay đây! – đoạn hất hai tay.
A Tuyết lăn tòm xuống nước, sóng trùm lên, chỉ tích tắc đã nuốt chửng cô gái.
Chớp xẹt một cái, cùng lúc một thanh trường mâu đâm vút tới. Lương Tiêu khẽ
tràn người sang một bên, nắm lấy cán mâu rồi thúc mạnh cùi chỏ lại sau,
kẻ tập kích ộc máu mồm, bay vù ra xa hai trượng. Lương Tiêu quay mình
lại, kiếm quang loe lóe, chỉ thoáng chốc, nhiều bóng người xô tới, Lương Tiêu đâm chém như phát cuồng, máu hắt lên ràn rạt. Quân sĩ đều kinh hãi trước uy thế ấy, định dùng đến tên bắn, chợt đằng xa có tiếng cười dài, rồi một giọng u u trầm bổng vọng tới:
– Vương gia có lệnh, bắt sống kẻ đó!
Ai nấy ngoái đầu nhìn. Một tốp kỵ mã đang phóng thốc lại. Ngựa chưa tới
gần, ba bóng đen đã buông cương nhảy xuống, chân không chạm đất lướt vào như bay, người đi đầu ré lên:
– Tránh ra mau! – đoạn dập dình hai tay lên xuống, tóm quân sĩ lẳng sang hai bên.
Lương Tiêu nhướng mày cười khẩy:
– Hỏa Chân Nhân! Lao đầu vào chỗ chết mà náo nức thế kia à?
Hỏa Chân Nhân hừ mũi giận dữ, nhảy phóc đến vận kiếm đâm liền. Lương Tiêu
bật cao, trở tay tuốt kiếm đâm luôn xuống vai hắn. Lão đạo sĩ chặn đỡ,
hai kiếm giao nhau làm lóe ra muôn vàn tia lửa. Cứ thế, hai bên xoay
vòng, dịch chuyển, mũi kiếm lúc ẩn lúc hiện. Chưa được ba hiệp, ánh đỏ
vãi tung, Hỏa Chân Nhân lảo đảo giật lui liền ba bước, máu theo cánh tay phải tong tong rỏ xuống, hắn trố mắt, bàng hoàng không thể tin nổi.
Lương Tiêu quát:
– Kẻ tiếp theo! – đoạn khoa trường kiếm đâm Cáp Lý Tư.
Tên này vội múa loan đao xoay mình chém xéo. Lương Tiêu chưa xuất hết chiêu đã xoạc chân dịch ngang, gẩy mũi kiếm từ dưới lên. Cáp Lý Tư vội vã
thụt lùi, Lương Tiêu di chuyển cực nhanh, xẹt tới sát bên hắn, đâm ra
liền ba kiếm, Cáp Lý Tư đành giật lui tiếp. Lương Tiêu liên tục ra tay
trước, đều vận dụng chiêu số tấn công, xuất liền mười nhát kiếm. Cáp Lý
Tư không đánh trả nổi chiêu nào, chỉ còn nước dẹo trái, vặn phải, tức
giận gào rú.
Hỏa Chân Nhân không ngờ võ công Lương Tiêu tấn tới
đến thế, vì khinh địch mà thảm bại nên trong lòng ảo não vô cùng. Nay
thấy Cáp Lý Tư bị dồn vào thế yếu thì hí hửng được một lúc, nhưng càng
theo dõi càng khiếp đảm và căm thù, bèn đổi kiếm sang tay trái, đâm vào
vai Lương Tiêu. Lương Tiêu hồi kiếm cản lại. Cáp Lý Tư thở phào, cùng
hợp kích với Hỏa Chân Nhân, chia nhau tấn công thượng đoạn và hạ bàn
Lương Tiêu.
Quân sĩ vốn tưởng hai tùy tùng cao thủ này sẽ đơn đả
độc đấu với Lương Tiêu, ngờ đâu chỉ chớp mắt đã giở trò hai đánh một,
đây đó bắt đầu có những tiếng xì xào. Hỏa Chân Nhân và Cáp Lý Tư đều
nghe thấy, mặt đỏ như gà chọi, nhưng nghĩ thắng bại mới quan trọng,
những việc khác chỉ là tiểu tiết, lại cho rằng hễ bắt sống được Lương
Tiêu thì sẽ không còn lời ong tiếng ve nào nữa, họ liền gắng bỏ ngoài
tai, tiếp tục hiệp lực tấn công.
Lương Tiêu tập trung tinh thần
thi triển Quy Tàng kiếm. Trước lộ kiếm pháp cao thâm khó lường, Cáp Lý
Tư và Hỏa Chân Nhân dần dần lúng túng. A Than vốn vẫn trọng thân phận,
đứng ngoài thản nhiên quan sát, đến đây thầm nhủ nếu hai tên kia thua
thì một mình mình không thể nào là đối thủ của Lương Tiêu được, lập tức
bỏ ngay kiểu làm bộ làm tịch, tuốt vòng kim cô nhảy vào tham chiến.
Lương Tiêu cười nhạt:
– Đến đúng lúc lắm!
Trường kiếm vạch quanh một vòng, đón lấy hắn. Bốn bóng người lúc lên lúc xuống, nghiêng
nghiêng ngả ngả như cỏ bồng trong gió, ánh kim loại chợt lóe chợt tắt,
cùng lập lòe đua sáng với chớp nháng trên trời.
Hỏa Chân Nhân bị
thương từ đầu, kịch chiến đã lâu nên mất khá nhiều máu, xuất chiêu dần
dần chậm lại. Lương Tiêu nhận ra, liền đâm ngay vào mặt hắn. Hỏa Chân
Nhân vội vã hụp đầu, chiếc mũ tử kim quan bị hất bay xuống đất, hắn đang lẩm bẩm hú hồn hú vía thì Lương Tiêu quát: “Cút này!”, rồi tung cước đá bộp vào bụng dưới hắn. Hỏa Chân Nhân ộc máu, người lộn phộc lên cao đến hơn một trượng, chân chổng ngược, đầu đâm sầm xuống đất.
.
Mấy hiệp nữa trôi qua, giữa những bóng người loáng động vụt hắt lên một ánh sáng lòa, kèm theo tiếng gầm vang phẫn nộ của Cáp Lý Tư. Từ thắt lưng
đến bắp đùi hắn đã xuất hiện một đường rạch dài chừng nửa thước, thịt
bửa cả ra ngoài nom gớm chết. Cáp Lý Tư đau quá vùng thoát khỏi vòng
chiến, ngồi bệt xuống đất bịt vết thương, mặt mày rúm ró.
A Than
hoảng hồn, múa vòng kim cô xẹt đến, Lương Tiêu khẽ khom mình xuống, trở
kiếm đâm ngược. A Than liền ngoặc vòng kim cô vào thân kiếm, giằng mạnh
về phía mình, trường kiếm tuột tay Lương Tiêu. A Than mừng thầm: “Để xem ngươi còn làm ăn gì được khi mất kiếm báu đây?”. Hắn dồn hết tâm trí
vào việc khống chế binh khí, không ngờ bị Lương Tiêu quạt tả chưởng
trúng ngay giữa ngực. Hệt như hứng một chùy nặng ngàn cân, hắn loạng
choạng giật lui hai trượng, ngã ngửa xuống đất, lục phủ ngũ tạng nhộn
nhạo hết cả nhưng vẫn chưa cam chịu buông xuôi, lại chống hai tay, run
run đứng dậy. Đúng lúc ấy, một tiếng sấm rền nổ lộng trời cao, A Than
giật lên một cái, miệng phun máu tươi, hai mắt trợn tròn, thân hình to
lớn đổ ầm xuống đất.
Lương Tiêu liên tiếp đả bại ba cao thủ, mắt
váng mày hoa, nhưng đã mất A Tuyết, gã cũng chẳng muốn sống nữa, chỉ
mong cùng chết theo cho rảnh, bèn đưa mắt quét khắp mặt tướng sĩ, hai
tay chống nạnh, thét vang:
– Mông Cổ không còn hảo hán nào hay sao?
Tiếng thét cùng tiếng sấm rền cuồn cuộn truyền đi xa, mấy ngàn binh mã đều im phăng phắc.
Chợt một giọng trầm trầm vẳng đến:
– Ai bảo Mông Cổ không còn hảo hán?
Giọng nói tuy ở rất xa, nhưng vẫn vang lên rành rọt giữa hàng tràng sấm chớp. Tiếng người vừa dứt, tiếng vó ngựa đã dồn tới gần, một tốp nhân mã xuất hiện ở hướng bắc, rầm rập phi lại. Bá Nhan đi hàng đầu, uy phong lẫm
liệt, sau lưng lần lượt là Thoát Hoan, Hạ Đà La, Thổ Thổ Cáp, Lý Đình,
Nang Cổ Ngạt, xem chừng toàn bộ tướng lĩnh Nguyên quân đều đổ cả về đây.
Bá Nhan phóng ngựa tới nơi, binh lính lập tức giãn ra nhường đường. Đến
cách Lương Tiêu ba trượng, y gò cương, trừng trừng nhìn xuống, trán nổi
gân xanh chằng chịt, không nói một lời. Thoát Hoan trông bộ dạng thảm
hại của ba tên thủ hạ, cảm thấy không còn tí thể diện nào, liền khoát
tay:
– Bắn chết hắn cho ta!
Hạ Đà La xua tay cười vang:
– Việc gì phải phí tên thế chứ! – Hắn liếc con trai rồi nhảy xuống ngựa,
nhìn Lương Tiêu bằng cặp mắt xanh biếc, cười hí hí. – Mong được thỉnh
giáo cao chiêu của Bình chương đại nhân!
Bá Nhan lạnh lùng ngăn lại:
– Hắn hỏi Mông Cổ có hảo hán hay không, liên quan gì tới dân Sắc Mục nhà ngươi!
Một tia căm giận lóe lên trong cặp mắt xanh, nhưng bị dìm tắt ngay lập tức, Hạ Đà La cười ha hả, lùi sang một bên. Bá Nhan trỏ roi ngựa vào mặt
Lương Tiêu, cao giọng bảo:
– Ta với ngươi đơn đả độc đấu, để ngươi đừng coi thường hảo hán Mông Cổ chúng ta!
Các tướng cả kinh, định can gián, Bá Nhan nghiêm giọng mắng át:
– Khỏi phải nhiều lời! – đoạn cởi trường bào ném xuống đất, thét lớn. – Mang chiến mã và trường cung cho hắn.
Thổ Thổ Cáp không để ai kịp thi hành mệnh lệnh, nhảy phắt xuống ngựa, dắt tới trước mặt Lương Tiêu:
– Ngươi cưỡi ngựa của ta!
Tất cả sửng sốt, Thoát Hoan mắng:
– Ngươi cũng định tạo phản phải không?
Thổ Thổ Cáp không đáp, lùi sang một bên. Lý Đình tiến đến, nâng trường thương bằng hai tay:
– Huynh dùng thương của đệ!
Nang Cổ Ngạt cũng bước lại, gỡ cung, cảm khái nói:
– Cầm lấy cung của ta đi!
Thoát Hoan sôi sục thét Bá Nhan:
– Phản rồi, phản một lũ!
Bá Nhan lắc đầu:
– Người Mông Cổ chúng ta trị thiên hạ bằng tín nghĩa, ta có thể bảo họ vứt bỏ nghĩa khí được sao?
Thoát Hoan sững người, không biết đáp lại thế nào.
Lương Tiêu thấy mình đã lâm bước đường cùng mà bằng hữu còn nặng tình như thế thì không nén được cảm động. Gã đón binh khí, đoạn dùng trường thương
rạch ngang mặt đất, rành rọt bảo:
– Ta và ba ngươi vạch đất tuyệt giao, từ nay trở đi, không còn quan hệ gì với nhau nữa.
Bọn Thổ Thổ Cáp hiểu Lương Tiêu nói vậy vì sợ liên đới đến mình, nhớ lại
tình nghĩa bao năm, không ai cầm được nước mắt, đều chắp tay vái một
vái.
Lương Tiêu ngoảnh ngay mặt đi, nhảy lên yên giơ cao trường
thương, ngửa mặt hú dài bi phẫn. Quân sĩ nghe thấy mà nhiệt huyết bừng
bừng, đều giật cương ngựa, chiến mã chồm dậy, loạt vó sắt tiếp đất gõ ầm vang như trống trận. Đúng lúc này, hơi nước nổi lên mát lạnh, sau một
hồi sấm chớp thị uy, mưa rào cuối cùng cũng trút xuống.
Lương
Tiêu hú vang cho xả bớt u uất trong lồng ngực, đoạn giật cương phi gần
vào vòng đấu. Bá Nhan tế ngựa chạy chênh chếch, dây cung “phựt” một
tiếng, mũi lang nha tiễn xé mưa lao tới. Lương Tiêu cử thương đập xuống, hổ khẩu đau tê, suýt đánh rơi binh khí. Thật vậy, Bá Nhan là Mông Cổ đệ nhất thần tiễn thủ, uy danh hai mươi năm nay tất nhiên không phải xây
dựng nhờ may mắn. Y bắn liên tiếp hai phát nữa. Lương Tiêu hụp mình
xuống, vung trường thương gạt nhanh, một mũi tên ghim lên cán thương,
mũi thứ hai lướt qua đỉnh đầu gã, kéo theo kình phong làm rối tung tóc
Lương Tiêu.
Hết màn bắn đỡ, hai ngựa đã áp sát. Bá Nhan vứt cung, chuyển sang dùng trảm mã đao. Lương Tiêu đẩy thương vào mặt y. Bá Nhan
hoành đao chặn lại. Lương Tiêu bèn xoáy tay vặn thật nhanh, trường
thương gãy roẹt làm đôi đúng chỗ ngù thương. Bá Nhan vốn chỉ chú tâm đề
phòng thương pháp linh hoạt của Lương Tiêu, nào ngờ gã giở ra chiêu thức lạ lùng ấy, tay trái cầm đoạn cán gãy làm gậy gạt trảm mã đao, tay
phải dùng mũi thương làm chủy thủ đâm thẳng vào mắt chiến mã của y. Con
ngựa đau buốt tận óc, tung vó rống lên thảm thiết, hất chủ ngã nhào. Bá
Nhan thân pháp rất nhanh, trước khi tiếp đất còn kịp quét trường đao một vòng như gió, chặt đứt ba chân ngựa của Lương Tiêu. Hai người đổ ập
xuống đất gần như đồng thời, làm nước bùn bắn lên tung tóe.
Bá
Nhan nhảy nhỏm ngay dậy, chưa kịp giơ đao, Lương Tiêu đã lật người chồm
tới giậm luôn hai chân lên đao, vung hai tay trái chém phải đâm, đạp
thanh đao lui ra xa. Bá Nhan đành buông binh khí giật lùi, Lương Tiêu
liền tiến theo, tay trái cầm cán thương múa như rồng lượn, tay phải cầm
mũi thương khoa như rắn vờn, ngắn dài hỗ trợ lẫn nhau, phối hợp cả hư
lẫn thực. Bá Nhan luống cuống nắm lấy cánh cung dài năm thước chém vù vù thay đơn đao. Hai bên vận dụng binh khí khác với đường lối thông
thường, tướng lĩnh đứng quan chiến đều trố mắt, nghĩ bụng: “Không ngờ
cung và thương còn có cách dùng như thế nữa!”.
Sấm nổ điếc tai,
mưa trắng mù trời, giông bão càng lúc càng khủng khiếp. Hai người dầm
chân trong nước, thoắt tiến thoắt lui. Kịch đấu hồi lâu, Bá Nhan sử cung càng lúc càng nhuyễn, ngoài đao pháp còn biến hóa thêm nhiều cách thức
tinh diệu, thi thoảng chặt ngang chém dọc, thình lình dùng dây cung
giằng lấy binh khí đối phương. Lương Tiêu bèn rùn người xuống, chân trái quét mạnh, hắt một vồng nước mưa lên mặt Bá Nhan, nhân lúc y mờ mắt,
lại chọc ngay cán thương vào giữa hai đầu mày y. Bá Nhan nhích phần cánh cung ra chặn cán thương của Lương Tiêu, hai người đồng thời sử kình,
chiếc cung bị kéo căng tròn.
Lương Tiêu lăng mạnh tay trái ném
mũi thương đi, Bá Nhan nhích vai tránh, nhưng cú ném của Lương Tiêu chỉ
là hư chiêu, cốt lừa y đưa cổ đến đúng đầu gậy, lúc này cung đã căng hết mức, đoạn gậy chỉ đợi buông tay là bật ra. Bá Nhan ứng biến rất thần
tốc, buông tay khỏi cung, hụp đầu xuống, cán thương lướt sát qua trán y. Hai bên đều đã mất binh khí, chỉ còn tay không, bèn giở quyền cước ra
đấu với nhau.
Hạ Đà La xem đến đây cũng phải gật đầu tán thưởng:
“Võ công hai người tuy chưa phải là tuyệt đỉnh, nhưng biến hóa đa dạng
khôn lường!”.
Trong bãi đấu, thân pháp hai bên thình lình thay
đổi, Bá Nhan di chuyển thần tốc, tưởng tiến lại lui, tưởng né lại thành
chống đỡ, song chưởng chuyển động rất kỳ lạ, không rõ trên dưới, không
phân trái phải, Lương Tiêu thì dịch hết bên này sang bên nọ, chưởng thế
giữ nguyên không đẩy ra, chỉ chạy vòng vòng. Hai người ở cách nhau chừng mấy thước, càng di chuyển càng thần tốc, hệt như hai luồng gió nhanh,
vậy mà xoay liền hai mươi vòng vẫn không chạm nhau một chiêu nào.
Thoát Hoan sốt ruột hỏi:
– Hạ tiên sinh, theo ông thắng thua ra sao?
Lúc này mưa như trút nước, bốn tên thân binh dùng trường mâu chống một bộ
giáp trụ che trên đầu Thoát Hoan cho đỡ ướt, nhưng cũng không ăn thua
gì. Hạ Đà La lắc đầu:
– Đại nghịch tru tâm chưởng gặp Tam tài quy nguyên chưởng, thắng phụ khó nói lắm.
Thoát Hoan thắc mắc:
– Mong tiên sinh giải thích rõ hơn xem!
Hạ Đà La thủng thẳng:
– Thừa tướng thi triển lộ chưởng pháp Đại nghịch tru tâm do Tiêu Thiên
Tuyệt sáng tạo. Vương gia nhìn nhé, hễ tay ông ấy chĩa sang trái thì hạ
chưởng xuống lại thành bên phải, khi chĩa tay sang phải thì lại nhằm
đánh xuống bên trái; vốn là hướng lên trên, lúc kết chiêu lại ra tấn
công bên dưới, rõ ràng là giật lui, lúc tới điểm bỗng hóa thành tiến
đến. Ý nghĩa của chữ “đại nghịch” là tiến thoái công thủ đều trái với lẽ thường. Còn “tru tâm” có nghĩa là đánh vào trái tim người ta, làm cho
người ta mù mờ, không phân biệt nổi hư thực.
Thoát Hoan phì cười:
– Thế chẳng hóa đánh lừa người ta hay sao?
Hạ Đà La tủm tỉm:
– Vương gia thật sáng suốt, bí quyết của lộ công phu này chính ở hai chữ
“tru tâm”, nếu đánh lừa đến mức khiến đối thủ hoang mang thì chắc chắn
sẽ có cơ chiến thắng. Vì vậy, lộ võ công này có thể xếp vào loại công
phu trí trá bậc nhất thiên hạ, Tiêu Thiên Tuyệt sáng tạo ra cốt để đối
phó với Tam tài quy nguyên chưởng.
– Chưởng ấy thế nào?
–
Tam tài quy nguyên chưởng là lộ chưởng pháp mà Lương Tiêu đang vận dụng
kia kìa. Yếu lĩnh của nó nằm ở chỗ thăm dò hư thực của đối phương, luyện tới mức tuyệt đỉnh thì bách chiến bách thắng, người Hán gọi yếu lĩnh ấy là “quen tay hay việc”, cảm nhận không phải bằng thị giác nữa mà bằng
thần khí, ngũ quan đã dừng nhưng tuệ tính còn tiến mãi, nhắm mắt cũng có thể tránh chỗ mạnh, lựa chỗ yếu mà đả thương kẻ thù, có thể nói là công phu đối địch bậc nhất thiên hạ.
Thoát Hoan nửa hiểu nửa không, lại hỏi:
– Nhưng vì sao mãi mà hai người kia không giao thủ?
Hạ Đà La cười:
– Công phu trí trá gặp công phu thẩm thấu, một bên dùng trăm phương ngàn
kế đánh lừa đối thủ, bên kia thì cẩn thận dò xét từng điểm hư thực của
địch nhân, nếu không chắc chắn hoàn toàn, họ không đời nào liều lĩnh ra
tay đâu.
Thoát Hoan gật đầu:
– Bản vương hiểu rồi, chỉ cần Bá Nhan làm Lương Tiêu mắc lừa thì sẽ chiến thắng.
Hạ Đà La lắc đầu:
– Tiểu tử ấy đâu dễ vào tròng như thế? Vừa rồi Thừa tướng giăng ra vô số
bẫy rập, hắn đều không mắc lừa. Hà, hai người này, không đấu thì thôi,
mà đấu thì thật khó đoán ai sống ai chết!
Hắn cố ý khoe khoang
nên nói từng câu từng chữ đều vang dội rành rọt, hai đấu thủ nghe thấy,
cùng ngấm ngầm kinh ngạc. Loay hoay thêm ba hiệp nữa, Lương Tiêu vụt
phát hiện một sơ hở ở ngực Bá Nhan, liền bổ nhào tới trước, xuất một
chiêu Tam tài quy nguyên. Bá Nhan cũng đã tự mình phát hiện ra rồi, liền khép khít song chưởng chắn lên trước ngực. “Bình” một tiếng, hai người
dồn toàn lực chạm một chưởng, nước mưa bị kình phong hất dạt, hệt như
một màn phi tiễn nhỏ. Lương Tiêu bật ra xa hai trượng, ngã bịch xuống
làm bắn tung lên bao nhiêu là bùn đất. Bá Nhan lảo đảo một hồi mới đứng
vững được, hai tay run bần bật, khí huyết cuộn ngược trong ngực.
Thình lình, có tiếng động ì ầm như sấm từ đằng đông truyền tới. Lương Tiêu
gắng gượng giãy giụa, nhưng không sao nhỏm dậy được, máu hòa với nước
mưa chảy xuống theo khóe miệng gã. Kỳ thực, luận về võ công, gã vốn thua sút Bá Nhan, huống hồ trước trận đấu lại đã huyết chiến cả ngày trời,
đầu óc mụ mẫm sức lực hao mòn, chỉ nhờ dũng khí cùng sự xuất hiện đúng
lúc của Trung Điều Ngũ Bảo và A Tuyết mới gắng chèo chống được đến bây
giờ. Sau chưởng vừa rồi, thực đã đến lúc sức tàn lực kiệt.
Hạ Đà La cười ha hả:
– Lương Tiêu, ngươi nhận thua chưa?
Lương Tiêu hừ mũi, gắng chống hai tay, cuối cùng cũng loạng choạng đứng dậy
được. Bá Nhan nhìn gã, nói mấy câu, nhưng tiếng động đằng đông ầm ầm như núi lở, khiến tai nghe lùng bùng, làm lấp đi lời nói của y.
Lương Tiêu chật vật ưỡn thẳng lưng dậy, nhìn xuống dòng nước cuồn cuộn, cảm
thấy toàn thân nhức nhối, xương cốt như muốn nứt, nhưng cũng không bằng
một phần vạn nỗi đau đớn trong tim, nước mắt tuôn rơi hòa vào nước mưa,
cứ ròng ròng hết nóng lại lạnh, hết lạnh lại nóng. Bá Nhan bỗng siết
chặt hai nắm tay, bộ dạng hung dữ, chậm rãi tiến lại gần Lương Tiêu,
bước chân chậm và nặng, làm trái tim người ta cũng trĩu xuống. Tướng sĩ
xung quanh bỗng ồn ào, nhiều quân sĩ chỉ trỏ về phía đông, kinh hãi la
lối. Bá Nhan đưa mắt nhìn theo. Một bức tường trắng xóa đang ùn ùn kéo
đến. Y chỉ kịp nghĩ: “Sóng Tiền Đường!”.
Con sóng tràn tới rất
nhanh, hất tung mọi thứ, tiêu diệt hủy hoại mọi chướng ngại cản đường.
Tướng sĩ Nguyên triều tuy đã từng trải nhiều chiến trận, nhưng chưa gặp
phải sự lạ như thế bao giờ, kinh hãi đến mức không kịp giật lui, lần
lượt bị cuốn vào con sóng khổng lồ. Bá Nhan đang đứng ngẩn ra, Lương
Tiêu đã thu hết hơi tàn lao phốc lại phía y. Bá Nhan chìa tay ngăn,
nhưng chưa phát lực thì con sóng đã ồ ạt trào qua, trùm kín hai người.
Thoát Hoan và đám còn lại đứng cách bãi đấu khá xa, thấy vậy vội giục ngựa
chạy đi, đợi con sóng tràn hết sang phía tây mới hoàn hồn giương mắt
nhìn xem. Trên bờ sông không còn bóng ai cả. Cả bọn đang định chạy lại
gần kiểm tra, chợt nghe một tiếng hú dài, Bá Nhan lật mình lên bờ. Thoát Hoan khựng lại, không giấu nổi vẻ thất vọng, hừ mũi hỏi:
– Lương Tiêu đâu?
Bá Nhan lắc đầu:
– Ta bám được một tảng đá bên sông nên mới may mắn thoát được, còn Lương Tiêu…
Y nhìn xuống dòng nước, chực nói lại thôi. Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt và
Lý Đình rụng rời, nằm bẹp xuống bờ, khóc rấm rứt. Thoát Hoan cười nhạt:
– Bá Nhan Thừa tướng! Lương Tiêu là bộ thuộc của ông, nhưng ông quản lý
không nghiêm, sau này trước mặt thánh thượng, bản vương đành cứ theo sự
thực bẩm báo, đến lúc đó chẳng may tổn thương hòa khí thì cũng mong thừa tướng đừng oán trách.
Bá Nhan nhìn phớt qua mặt hắn, lạnh lùng nói:
– Lương Tiêu tự tung tự tác, chuốc lấy bại vong. Ta dùng người không
đúng, tự khắc biết đường thỉnh tội với thánh thượng, trước mắt, việc tây tiến không thể chậm trễ. Thổ Thổ Cáp, Lý Đình!
Hai người vâng lời tiến lên, Bá Nhan trầm giọng nói:
– Hai ngươi thống lĩnh quân sĩ, thay quyền Lương Tiêu.
Thổ Thổ Cáp rùng mình, cùng Lý Đình đồng thanh vâng lệnh. Thoát Hoan biến
sắc mặt, hừ một tiếng rõ to, dẫn thuộc hạ vỗ ngựa phóng vụt đi.
Bá Nhan ngước mắt lên trời thở dài, một lúc lâu sau mới nhìn xuống dòng
Tiền Đường, cuối cùng lên ngựa phóng về phía bắc, quân sĩ rầm rập theo
sau. Chỉ chốc lát, tiếng vó ngựa đã lan đi xa, tiếng sóng cũng lắng dần, sông Tiền Đường trở lại yên tĩnh.
[1] Nát ngọc tan vàng.
[2] Kho quân dụng dành riêng cho đế vương hoặc đại thần.