Đang lúi húi rửa và cất các dụng cụ mộc trong ga- ra, Bob Beldon bỗng nhận ra một chiếc xe cảnh sát tiến về hướng Cranberry, Bob phân vân tự hỏi liệu có phải cảnh sát trưởng Davis đến tìm anh không và nếu đúng như vậy thì sẽ thế nào.
Đã một năm kể từ đêm John Doe đăng ký nghỉ lại ở Thyme and Tide và chết một cách đột ngột. Đêm hôm đó đã trở thành một ký ức mờ ảo trong tâm trí Bob. Có một điều chắc chắn:
cho dù người đàn ông đó là ai thì anh ta cũng đã đánh thức cơn ác mộng cũ của Bob. Nhiều năm trôi qua, giấc mơ đó xuất hiện thưa dần và bớt dằn vặt hơn. Nhưng nó đã quay lại. Khi tỉnh dậy anh lại có một cảm giác y hệt như khi anh gặp cơn ác mộng đó. Anh thực sự bàng hoàng; cái chết của vị khách trong phòng ngủ tầng dưới đã tăng thêm nỗi lo lắng về những điều anh trải qua trong nhiều năm qua.
Căn cứ theo số lần cảnh sát trưởng ghé qua chỗ anh kể từ buổi sáng định mệnh ấy, Bob cho rằng anh cũng bị liệt vào dạng đối tượng khả nghi. Lần viếng thăm gần đây nhất của Davis đã thúc đẩy Bob liên hệ với Roy McAfee. Do cân nhắc đến khả năng bị bắt, Bob nghĩ cần phải nói chuyện với một người đáng tin cậy, người có thể giúp anh- và theo như lời khuyên của cha xứ Flemming – anh đã đến gặp Roy.
Kể lại những gì đã xảy ra ngày ấy trong một khu rừng ở Việt Nam không phải là điều dễ dàng với Bob. Anh chỉ mới tâm sự với duy nhất Peggy, anh hiểu điều gì sẽ xảy ra nếu không có người vợ biết lắng nghe và thấu hiểu, chị đã nâng anh dậy và khóc chia sẻ cùng chồng khi anh hồi tưởng những ký ức kinh hoàng đó. Từ đó đến nay họ không bao giờ nhắc lại chuyện cũ.
Bob nhìn săm soi ra phía biển chỉ đường. Không nghi ngờ gì nữa, xe của viên cảnh sát trưởng đang đi qua cổng sắt dẫn vào Thyme and Tide. Nghe tiếng bánh xe anh nhận ra ngay Troy Davis. Bob lấy trong túi sau một mảnh vải sạch lau đôi bàn tay đầy mùn cưa và bụi bẩn.
Davis đỗ xe, bước ra và gật đầu chào Bob.
“Ông cảnh sát trưởng”, Bob nói và đi tới gần. Anh chìa tay, viên cảnh sát bắt tay Bob và nhìn thẳng vào mặt anh. Điều này khiến Bob yên tâm phần nào. Vì nếu Davis định bắt anh thì phải có dấu hiệu báo trước, nhưng tới giờ anh vẫn chưa thấy biểu hiện gì.
“Mọi chuyện thế nào Bob?”, Troy hỏi.
“Tạm ổn”.
“Peggy có nhà không?”.
“Cô ấy đang nướng bánh trong nhà, bánh bích quy hay sao ấy, nhưng chắc cũng sắp xong rồi. Anh có muốn vào trong không?”.
Davis gật đầu. “Tôi muốn nói chuyện với cả hai”.
Bob dẫn viên cánh sát vào nhà qua lối cửa sau bếp. Đúng như anh đoán, bánh quy của Peggy vừa mới được cho ra khay để nguội khiến căn phòng tràn ngập mùi yến mạch và nho khô. Chắc Peggy cũng đã nhìn thấy Troy lái xe vào nên trên bàn đã có sẵn ba cốc cà- phê mới rót và một đĩa bánh quy.
Cả ba yên lặng ngồi quanh cái bàn gỗ sồi ở góc hóng mát cạnh bếp và uống cà- phê.
“Anh có tin gì mới à?”. Peggy hỏi.
Bob rất thán phục cái cách đi thẳng vào vấn đề của vợ. Anh cũng cho rằng viên cảnh sát đã tìm hiểu được điều gì đó. Thực tế là ông ta đang mặc đồng phục, chứng tỏ đây không phải một cuộc viếng thăm xã giao.
“Chúng tôi đã xác minh được nhân thân của John Doe”. Davis nói, đoạn ông ta ngừng lại như thể trông đợi Bob sẽ đưa ra một cái tên.
Peggy há hốc miệng kinh ngạc. “Đã biết đó là ai rồi sao?”.
“Max Russel”. Một lần nữa viên cảnh sát lại nhìn Bob.
“Max à?”. Bob chậm rãi nhắc lại. Roy cũng đã phân vân về khả năng đó là người quen của anh. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng Bob, và khi nhắm mắt anh thấy khuôn mặt người đồng đội cũ hiện ra trong đầu. Cả phòng dường như sụm xuống dưới ghế ngồi của anh. Sâu trong tâm trí, cho dù là lý do gì, anh luôn cảm nhận được rằng người đàn ông đã chết có mối liên quan với quá khứ của mình.
“Anh có nhớ người đó không?” Davis hỏi nhưng rõ ràng anh đã biết câu trả lời.
“Chúng tôi là đồng đội trong quân ngũ, nhiều năm về trước”.
Davis gật gù như đang đợi thêm thông tin.
“Tại sao anh ta phải giấu gốc gác của mình?”, Bob hỏi. Họ đã không gặp nhau gần bốn mươi năm. Chắc hẳn không phải vô tình mà Max bước vào cửa nhà Bob. Anh ta ắt có lý do – và anh ta chết trước khi kịp nói với Bob điều gì.
“Tôi đang hy vọng anh có thể cho tôi câu trả lời,” viên cảnh sát lẩm bẩm.
Bob không thể. Anh và Max chưa bao giờ thân nhau. Họ cùng ở Việt Nam, trong lừng … trong ngôi làng. Sau chiến tranh đường ai nấy đi, bốn người đàn ông đều muốn vứt bỏ quá khứ lại sau lưng, để tìm quên. Họ muốn tránh mọi khả năng gợi nhớ những việc họ đã làm trước đây và Bob là người muốn điều đó nhất.
Sau chiến tranh, Bob ở một nơi cách xa vịnh Cedar, đơn giản là vì Dan đã chọn trở về quê hương. Cuối cùng Bob cũng chuyển về nhưng hiếm khi hai người đàn ông nói chuyện với nhau. Họ gần như xa lạ, mặc dù khi còn trẻ họ đã từng là bạn thân.
“Anh ta chết mà không kịp hé lộ với anh điều gì à?” Davis chất vấn.
Bob đẩy ghê, đứng lên, quay lưng lại phía viên cảnh sát và Peggy, anh nhìn ra ngoài cửa sổ. “Cho dù anh có hỏi đến đâu tôi cũng chỉ có thể trả lời như vậy. Max vào trọ, trả tiền phòng mà không cung cấp cho chúng tôi thông tin gì ngoại trừ họ tên và hẹn rằng sẽ điền các thông tin khác vào sáng mai”.
“Nhưng sáng ra thì anh ta đã chết”.
Cảm giác khó chịu cuộn lên trong dạ dày Bob. Anh không hiểu tại sao Max lại đến vịnh Cedar, tại sao phải phẫu thuật thẩm mỹ gần như toàn bộ và mang thẻ chứng minh giả.
“Anh tìm ra lai lịch anh ta bằng cách nào?”. Bob cũng có một vài câu hỏi.
“Hannah Russel, con gái Max đã khai báo thông tin tìm người mất tích với cảnh sát Ređing ở California. Tôi đã nói chuyện với cô ấy đầu tuần”.
“California?” Bob nhắc lại. Căn cứ vào những dấu vết còn lại, anh đã điều tra đến tận Florida, nhưng không lần được dấu vết gì khác.
“Con gái Max đã cho anh biết những gì?”. Peggy hỏi trước khi Bob kịp phản ứng.
“Đáng buồn là không được nhiều như tôi hi vọng. Lần cuối cùng hai cha con trò chuyện với nhau, Max có hé lộ về dự định rời khỏi thị trấn, nhưng anh ta không cho con gái biết gì nhiều hơn thế. Hai bố con vốn rất gần gũi, nhưng khi Hannah hỏi về mục đích và nơi chốn chuyến đi thì Max lại lẩn tránh”.
“Max ra đi và không bao giờ quay lại. Hai tuần sau, Hannah đến trình báo với cảnh sát là cha mình đã mất tích”.
“Đó là tất cả những gì cô ấy biết ư?” Bob quay mặt về phía Davis. Anh nắm lấy thành ghế và thở hắt ra. Ngồi trở lại ghế, anh nghiền ngẫm những thông tin vừa rồi và cảm thấy rắc rối hơn bao giờ hết.
Davis nhấc ly cà- phê lên và nói, “Có vẻ là như vậy”.
“Đó có phải một chuyến đi vì công việc không?” Bob hỏi tiếp.
Davis lắc đầu. “Anh ta đã nghĩ việc kể từ khi bị tai nạn rồi”.
“Tai nạn nào?”. Peggy thắc mắc.
“Cách đây năm năm Max bị tai nạn ôtô. Vụ tai nạn đã cướp đi người vợ của Max, còn bản thân anh ta thì bị biến dạng. Đó chính là lý do khiến phải phẫu thuật chỉnh hình toàn bộ”.
Điều này giải thích được tại sao …
“Tôi không hề nhận ra anh ta”, Bob lầm bầm. Người khách đêm ấy có nét gì đó quen quen, có thể là tác phong, nhưng Bob không bao giờ ngờ đến mối liên hệ giữa anh ta và người bạn thuở đôi mươi.
“Chỉ trong vài năm ngắn ngủi mà Hannah mất cả mẹ lẫn bố, nên cô ấy đau đón vô cùng khi phải đón nhận tin này”.
“Tội nghiệp cô bé”, Peggy nói giọng thông cảm. “Chắc hẳn cô ấy đã rất lo lắng vì không có tin tức gì về cha mình trong nhiều tháng qua”.
“Chắc chắn là như vậy rồi”. Bob không nhận thấy rằng anh đang nói rất to cho đến khi anh tự nghe thấy giọng nói của mình. Anh cúi người ra phía trước và chống khuỷu tay lên bàn, hai tay ôm đầu.
Không nghi ngờ gì nữa, đêm hôm đó cơn ác mộng đã trở lại với Max. Tiềm thức của anh ta đã nhận thấy mối liên hệ và đã khuấy tung những ký ức trong cơn ác mộng đó.
“Anh có biết tại sao Max lại tìm anh không?”. Davis hỏi lại.
“Không”. Bob chỉ có thể tự biện.
“Con gái anh ta sẽ đến lấy tro”. Viên cảnh sát trưởng nhìn từ Bob đến Peggy.
Khi không có ai nhận xác hoặc trả phí chôn cất, hạt sẽ hoả táng hài cốt.
“Hannah muốn biết cô ấy có thể nói chuyện với hai anh chị được không?”.
“Vậy anh đã nói gì với cô bé?”, Bob hỏi.
“Tôi đã nói với cô ấy là điều này phụ thuộc vào anh, nhưng tôi nghĩ chắc cũng không có khó khăn gì từ phía anh”.
Peggy gật đầu. “Khi nào cô ấy đến đây?”.
“Ngay khi cô ấy thu xếp được công việc. Cô ấy hy vọng sang tuần”.
Peggy liếc nhìn Bob, anh biết chị đang hỏi ý anh, và trong đầu anh cũng có ngay câu trả lời.
“Nói với Hannah chúng tôi chào đón cô ấy ghé qua bất cứ lúc nào”.
Một bó hồng nhung rực rỡ được chuyển đến toà án vào giờ nghỉ ăn trưa. Bó hoa thật đẹp, và vào tháng Hai, đặc biệt là gần ngày lễ Tình nhân như vậy, chắc hẳn phải tốn rất nhiều tiền.
Olivia đi theo người chuyển hoa xuống phòng xử án và phân vân không biết người nào may mắn được nhận những đoá hồng lộng lẫy như vậy. Khi người đàn ông mang hoa hỏi thăm lối đến văn phòng thẩm phán Lockhart thì Olivia đứng sững lại.
Ai đã gửi hoa hồng cho chị?
“Tôi là thẩm phán Lockhart”, chị vội vàng nói và dẫn anh ta đến phòng làm việc của mình. Những bông hồng kiêu sa xen lẫn với những nụ hường chúm chím cùng toả hương thơm ngát.
Người đưa hoa vừa đi, Olivia vội vớ lấy cái thiệp, đoán chắc là Jack gửi cho mình. Chị xé bao thư rồi ngập ngừng nghĩ lại.
Có thể là của Stan.
Chị đăm đăm nhìn bao thư đang xé dỡ một chốc rồi gieo mình xuống ghế, với tay lấy điện thoại gọi cho Grace. Rất ít khi chị gọi điện cho bạn ở nơi làm việc nhưng hôm nay là trường hợp ngoại lệ.
Phải mất một lúc mới nối máy được với Grace.
“Có chuyện gì vậy?”. Grace buột miệng. “Có chuyện gì xảy ra rồi à?”.
“Không có gì hết”. Olivia choáng váng vì những phán đoán – và một chút lo sợ. “Mình có bó hồng đẹp tuyệt ở đây và một phong thư dán kín”.
“Cậu không biết ai gửi à?”.
“Không”.
“Hãy mở bưu thiếp đi”. Grace gợi ý.
“Mình cho rằng Stan gửi chúng đến”.
“Và cậu muốn người đó là Jack phải không?”.
Olivia hướng mắt lên trần nhà. “Tất nhiên. Mình muốn người gửi phải là Jack”. Jack đã gửi hoa cho chị một lần nhưng điều đó không hợp với tính cách anh. Hai lần sẽ là quá nhiều.
“Lần cuối cùng cậu và Jack nói chuyện là khi nào?”.
Grace luôn biết cách đi vào chi tiết. “Mình và anh ấy nói chuyện với nhau suốt”.
“Anh ấy có nhắc gì đến ngày lễ Tình nhân bên nhau không?”.
Olivia căng óc suy nghĩ. Nếu anh ấy có nhắc đến thì chỉ là một câu nói mơ hồ. “Theo mình nhớ thì không. Anh ấy bận, mình cũng bận. Bây gìờ tờ báo ra một tuần năm số khiến anh ấy còn bận rộn và vất vả hơn”.
“Lần cuối cùng Stan gọi điện cho cậu là khi nào?”.
Olivia không trả lời. “Bó hoa này chắc chắn là của Stan”, giọng chị đầy thất vọng. Điều mỉa mai ở đây là, chị không nhớ được một lần nào trong suốt những năm kết hôn với nhau Stan có tặng hoa hồng cho chị.
“Cậu mở tấm thiệp đi nào” Grace nài nỉ.
“Thôi được”. Olivia xé phong bì và nín thở.
“Sao rồi?” Grace nói sau vài giây căng thẳng. “Đúng như cậu nghĩ phải không?”.
“Mình biết mà”.
“Anh ấy viết gì?”.
Olivia liếc xuống cuối tấm thiệp, và uể oải đọc to mấy dòng chữ nguệch ngoạc của Stan. “Em là tình yêu của anh, bây giờ và mãi mãi. Hãy ở bên anh một đêm để nhớ đến thiên thu”. Cuối cùng là chữ ký của Stan.
Grace càu nhàu điều gì đó. Cho dù cảm xúc của Grace bây giờ thế nào, Olivia Stan cũng rất đồng cảm. Nếu Stan thực sự yêu chị như vậy anh đã không bỏ mặc gia đình, không kết hôn với Marge ngay khi cuộc ly hôn vừa chấm dứt, và không bỏ Olivia trong những giờ phút tối tăm nhất của cuộc đời chị. Tình yêu đòi hỏi nhiều hơn thế.
“Sao cậu im lặng một cách đáng sợ thế Olivia?”. Grace hỏi. “Cậu đang nghĩ gì vậy?”.
Olivia cười khúc khích. “Mình nghĩ là Jack cũng đã cố gắng hết sức nhưng anh ấy không có máu lãng mạn”.
“Vậy có gì khác mới không?”.
Những ngày gần đây, Stan đã hy vọng nối lại mối quan hệ với người vợ cũ bằng cách tặng hoa và kẹo rồi đưa ra những tín hiệu với chị, nhưng không có một sự vững chắc nào nơi anh. Anh có một khuôn mặt điển trai với một trái tim rỗng tuếch. Dường như anh ta lo lắng vì sợ để tuột chị vào tay Jack – như thể chị là một chiến lợi phẩm trong một cuộc tranh đua – nhiều hơn là nghĩ đến hạnh phúc của chị.
“Thế cậu định nói sao với Stan?”.
“Mình e rằng anh ấy sẽ thất vọng vì mình đã có hẹn rồi”.
“Cậu có hẹn ư? Nhưng cậu nói rằng Jack chưa đề cập gì đến ngày lễ Tình yêu mà …”.
Olivia đã quyết. “Nếu anh ấy không nói thì mình sẽ nói”.
Grace cười sảng khoái. Olivia nhớ đến thời gian trước đây khi họ còn là hai cô thiếu nữ. Tưởng chừng như mới chỉ vài năm trước đây, họ vẫn còn trò chuyện say sưa về các cậu con trai, về những cuộc hẹn hò và ngày lễ Tình yêu.
Cả hai đều không nghĩ họ lại cô đơn vào giai đoạn này của cuộc sống.
“Thế cậu định bao giờ mới cho anh ấy biết lời mời của cậu?”. Grace trêu chọc.
Olivia cười vang. “Ngay sau khi mình xong công việc ở đây”. Chị đang định gợi ý rằng Grace cũng nên mời Cliff, nhưng dường như mối quan hệ đó đã đột nhiên trở nên phức tạp. Chị không biết chắc có chuyện gì xảy ra nhưng Grace không thoải mái khi đề cập đến đề tài đó. Olivia đoán rằng họ đã chia tay. Chị sẽ hỏi nếu như sau một thời gian nữa mọi việc vẫn mù mờ, nhưng vào giờ phút này Grace cũng có vẻ như đang rất hài lòng. Sau những phiền muộn và bất ổn mà bạn chị phải trải qua thì bây giờ đã tốt hơn nhiều.
Họ nói chuyện thêm vài phút nữa và Olivia hứa tôi sẽ gọi lại cho Grace để thông báo tin mới. Ngay sau khi kết thúc một ngày làm việc ở toà án, chị lái xe thẳng đến toà soạn Bản tin vùng vịnh Cedar toạ lạc trên đường vịnh Cedar, về phía Southworth, nơi phà từ bảng Washington vận chuyển hành khách và hàng hoá sang đảo Vashon và Tây Seattle.
Tới nơi Olivia đỗ xe lại và mất hết bình tĩnh. Chị vẫn thuộc tuýp người cho rằng đàn ông phải mời phụ nữ. Và mặc dù rất nhiều quy tắc kiểu ấy giờ đây đã trở nên lạc hậu, nhưng nó đã ăn sâu bén rễ khiến Olivia không dễ gì bỏ qua được.
Nhưng chị đã đến đây vì một mục đích và chị quyết tâm thực hiện bằng được mục đích đó. Chị quả quyết vào cơ quan, nhưng hỏi ra mới biết Jack đang họp.
“Nếu chị cần, tôi sẽ báo cho anh ấy biết”, cô lễ tân nói.
“À …”. Olivia ngập ngừng. Đúng lúc đó cánh cửa phòng họp bật mở và Jack đi ra với vẻ mặt cau có vì bận rộn. Nhưng vừa nhìn thấy chị, mắt anh bừng sáng và bước chân dồn dập. “Olivia!”.
Sự hân hoan ra mặt ấy khiến Olivia rất hài lòng. Jack nắm lấy tay chị. “Thật ngạc nhiên”.
“Sắp tới ngày lễ Tình yêu”, chị nói. “Anh có biết ngày đó không?”.
“Có chứ, nhưng …”.
“Nhưng gì cơ?”. Olivia hỏi, và cảm thấy mình rất có thể sẽ lấy túi xách nện cho Jack một trận nếu bây giờ anh nói anh đã có hẹn vào ngày lễ Tình nhân.
“Anh cho rằng em muốn đi đâu đó ăn tối, trừ nhà hàng Taco Shack?”.
“Em thích nhà hàng Taco Shack, song …”. Olivia chợt nhận ra là Jack khá bối rối. Anh lo sợ sẽ không làm theo đúng ý thích của chị, nhưng anh lại không muốn thú thật điều đó.
“Được thôi loại nhà hàng Taco Shack ra”. Jack ngừng lại như đang muốn lục tìm trong vốn kiến thức ít ỏi về nhà hàng của mình. “Sẽ lại là nhà hàng Hải Đăng nhé?”.
“Sao anh không để em đặt chỗ trước?”, chị gợi ý.
Jack cười ranh mãnh. “Em đang tán tỉnh anh đấy à, Olivia?”.
“Đúng vậy”, Olivia thấy không cần thiết phải phủ nhận. “Anh có bằng lòng không nào?”.
“Em biết là anh có mà”. Anh dang hai tay ôm vai chị. “Đi ăn với anh tối nay nữa nhé?”.
“Taco Shack?”. chị hỏi, Jack gật đầu. “Họ có món bánh bột chiên thịt tẩm ớt tạm được”.
“Em sẽ làm món bánh nhân gà hầm”, chị nói, cố dụ anh bằng tài nấu nướng của mình. Jack đã ăn quá nhiều bữa ăn ở nhà hàng rồi. “Gặp anh sau một giờ nữa nhế”.
Jack gật đầu. “Anh có một số việc phải hoàn thành. Hai tiếng nữa được không?”.
“Được anh ạ”, Olivia đáp. Tinh thần chị như thăng hoa trên đường lái xe về nhà và lên kế hoạch cho bữa ăn.
Jack chỉ đến muộn mười phút, lúc đó Olivia đã làm xong món salát, bàn ăn đã được dọn và món bánh đang nằm trên nóc lò nướng. Chị đón anh bằng một nụ hôn nồng nàn. Jack lần tay xuống eo chị, anh ôm chị lâu hơn bình thường.
“Anh đến dư người với sự chiều chuộng này mất”, Jack nói và đi theo chị vào bếp. Món bánh nhân gà có mùi thơm thật hấp dẫn và thơm ngon vỏ bánh màu vàng rộm.
“Em cũng vậy”, chị thú nhận.
Sau bữa tối, Jack định quay lại chỗ làm, nhưng rồi anh ở lại, họ âu yếm nhau trên ghế sôfa và cùng xem tivi. Đến mười một giờ Olivia miễn cưỡng hôn tạm biệt anh tại bậc cửa, rồi đi vào phòng ngủ, cảm thấy rất hài lòng và thư giãn. Chị mong có nhưng buổi tối như thế này; và không lâu nữa, vào ngày lễ Tình yêu, họ sẽ lại ăn tối cùng nhau, chị thầm điểm qua tới một số nhà hàng.
Sáng hôm sau, Olivia tỉnh giấc vì nghe thấy có tiếng động, dường như nó đó phát ra từ đằng bếp. Khi nó vang lên lần thứ hai, Olivia cau mày ngồi bật dậy, với lấy cái áo mặc trong nhà ở cuối giường, chị xỏ nhanh hai tay vào và nhanh chóng xuống nhà dưới.
Chị giật mình ngạc nhiên khi thấy Stan đang ngồi ở bàn ăn, uống cà- phê và đọc tờ báo Seattle buổi sáng. Sau khi ly hôn, chị chưa hề thay ổ khoá, nhưng chị không thể tin được rằng sau ngần ấy năm Stan vẫn còn giữ chìa. Mà cũng có thể chị quên khoá cửa khi chia tay Jack tối qua.
“Stan!”.
“Chào em”, Stan nói như thể ngồi trong bếp nhà chị là một thói quen hàng ngày của anh.
“Anh đang làm gì ở đây?”.
Stan đặt ly cà- phê xuống. “Anh xin lỗi nếu đã làm em kinh ngạc. Anh đang ở quanh đây nên ghé vào”.
Olivia tức giận tới mức không thốt được nên lời. Làm sao anh ta dám vào nhà mà không có sự đồng ý của chị.
“Em nhận được hoa hồng anh gửi chứ?”.
Olivia tảng lờ câu hỏi. “Anh đang làm gì trong nhà của em?” Chị nhấn mạnh rằng ngôi nhà này bây giờ là của chị và anh không có quyền gì với nó nữa. Hay theo chị ….
Stan nhìn chị với vẻ mặt của một cậu bé bị tổn thương, Olivia đã quá quen thuộc với điệu bộ ấy. “Em đang giận à?” anh hỏi.
“Em nghĩ thật không hay khi anh lẻn vào nhà em như … như một tên trộm vậy”.
“Em hoàn toàn đúng”, Stan tán đồng. “Anh xin lỗi Olivia. Đừng tức giận với anh nữa. Em biết anh rất buồn khi thấy em bực bội mà”.
Olivia không để mình mềm lòng trước những lời tán tỉnh có cánh của nguời chồng cũ. “Đừng hành động như thế một lần nào nữa. Anh hiểu chứ?”.
“Tất nhiên anh hiểu”, Stan nói và cười như thể Olivia là người phụ nữ đáng yêu nhất trên đời. “Nào, bây giờ thì nói anh nghe, em có nhận được hoa hồng anh gửi không?”.
“Em có nhận được”.
“Vậy em sẽ đi với anh vào ngày lễ Tình nhân nhé?”.
“Không, Stan ạ. Em không thể nhận lời với anh. Uống cà- phê xong, anh nên đi đi”.
Stan lắc đầu. “Anh nghĩ em thực sự vui khi thấy anh ở đây, nhưng em không chịu thú nhận điều đó”.
“Không, Stan. Em không hề vui khi gặp anh. Và bây giờ thì anh làm ơn đứng lên hộ em”.