Hành trình ra bờ biển
Charlie thông báo với những người còn lại trong gia đình về việc Henry đã tới, và, từng người một, họ bắt đầu tới phòng thăm cậu bé đến từ quá khứ.
Ông cậu Paton tới trước tiên. Ông đứng ở ngưỡng cửa một giây, chớp chớp mắt lặng thinh, và rồi ông bước nhanh đến bên Henry, thốt lên:
�”Người bà con yêu, yêu quý của tôi. Tôi không thể tin nổi. Việc này tuyệt vời quá, không biết nói làm sao.”
Ông nồng nhiệt bắt tay Henry:
“Tôi nghe kể rất nhiều về cậu. Cha tôi coi cậu như thần tượng đấy.”
“Thế à?” Henry nói. “Tôi nghĩ tôi là bác của ông.”
Trong khi Ông cậu Paton đang cười khà khà về tình tiết này, thì mẹ Charlie ngó vô.
“Đây là mẹ em,” Charlie nói với Henry.
“Cậu là Henry,” mẹ Charlie cứ nhìn Henry chằm chằm, như thể không tin vào mắt mình. “Suốt ngần ấy năm, chao ôi.” Cô lẩm bẩm. “Ấy thế mà lại xảy ra thật.”
Hay là mẹ đang nghĩ đến ba? Charlie tự hỏi. Hay là mẹ đang ao ước là ba cũng có thể xoắn thời gian mà về với mẹ?
Khi Henry và mẹ Charlie trịnh trọng bắt tay nhau, Henry nói:
“Bà Bloor bảo với cháu rằng bà ấy biết… ” nhưng sau đó hình như cậu lại đổi ý.
Không có thời gian để hỏi Henry coi bà Bloor biết điều gì, bởi vì, ngay lúc đó, ngoại Maisie xuất hiện.
“Trông nó giống Charlie quá nhỉ?” Ngoại nói.
“Ừm. Chút chút,” mẹ Charlie đáp.
Cho dù Henry từ đâu tới chăng nữa, điều đó cũng không quan trọng đối với ngoại Maisie; với ngoại, cậu là một thằng bé gặp rắc rối, và vì vậy rất cần một cái ôm hôn.
“Tội nghiệp quá,” ngoại kêu lên, tưởng như bẹp dí cả cậu bé. “Trông cậu sắp chết đói đến nơi rồi. Vô bếp ngay đi, ta sẽ nấu cho một bữa đại tiệc.”
“Con không nghĩ đó là một ý hay đâu,” Charlie nói. “Nội Bone sẽ xuống đấy.”
“Cái bà nội Bone chết tiệt,” ngoại Maisie bực mình. “Bà ta làm được gì nào? Bà ta mà dám chạm một ngón tay vô thằng bé tội nghiệp này thì ta sẽ cho bà ta biết tay.”
“Bà Maisie thân mến, làm ơn hạ giọng xuống,” Ông cậu Paton nói nhẹ, nhưng bằng giọng đầy quyền uy. “Nếu bà muốn giúp đỡ thì hãy bưng một chút đồ ăn lên phòng Charlie. Sau đó chúng tôi sẽ cần thức ăn và chăn mền ấm cho một cuộc hành trình dài tới bờ biển. Tôi đã nói trước rồi.”
“Có ngay, Paton,” ngoại Maisie kiên nhẫn nói. “Tôi không quên đâu.”
“Đi thôi mẹ, chúng ta có việc để làm,” mẹ Charlie nói.
Hai người phụ nữ đi xuống lầu để chuẩn bị một giỏ đồ dã ngoại, trong khi Henry chọn vài bộ đồ của Charlie để mặc trong cuộc đời mới của mình.
“Thú vị thật,” cậu nói với Charlie. “Tôi luôn luôn là anh cả. Tôi chăm sóc James. Ông ấy sẽ nghĩ gì về tất cả điều này?”
“Em chỉ muốn biết liền thôi,” Charlie nói.
Vào lúc 12 giờ kém 10, Charlie và Henry leo vô chiếc xe đi đêm màu xanh da trời của Ông cậu Paton. Họ được hộ tống bằng một đống mền với gối và một giỏ đồ ăn thiệt bự.
“Chừng nào đói thì lấy mà ăn,” ngoại Maisie nói khi bà nhét gối xuống dưới đầu bọn trẻ và quấn mền quanh chân chúng. Ông cậu Paton đã ngồi vào ghế tài xế, cứ nhấp nhỏm nhìn chiếc đồng hồ đeo tay. Ông vốn là người của thói quen, và ông muốn khởi hành ra bờ biển vào lúc chuông báo nửa đêm. Khi đồng hồ nhà thờ lớn bắt đầu vang khắp thành phố, ông bảo:
“Rúc vô cho ấm, các cậu! Chúng ta sẽ dùng điểm tâm bên bờ biển.
Cửa xe đóng sầm lại, mẹ Charlie và ngoại Maisie đứng bên lề đường, vẫy tay và hôn gió theo, tiễn Ông cậu Paton chầm chậm lái xe trên đường Filbert. Để tránh tai nạn bể bóng đèn, ông hay đi những con đường phụ, và sau khi kái qua vài con hẻm được chiếu sáng lờ mờ, họ đột ngột lọt thỏm vô vùng thôn quê. Nơi này không hề có đèn đường, ngoại trừ ánh đèn leo lét, nhập nhoạng từ một chòi chăn bò hay một mái hiên nhà.
Charlie sắp sửa ngủ thiếp đi thì bỗng một câu hỏi bật ra trong đầu nó.
“Anh có nói với mẹ em là bà Bloor biết một điều gì đó,” nó nói với Henry. “Bà ấy biết cái gì vậy?”
Henry ngáp.
“Đó là về ba cậu,” cậu lào khào buồn ngủ, “Ngay trước khi biến mất bà ấy bảo là bà có điều gì đó định nói với cậu. Tôi nghĩ bà ấy biết nơi ba cậu đang ở.”
Charlie ngồi nhổm thẳng lên, quăng luôn chiếc gối xuống sàn xe.
“Bà ấy không nói cho anh biết sao?” Nó cặn vặn.
“Không,” Henry lờ đờ. “Bà ấy biến mất luôn.”
“Chính xác bà ấy nói gì?” Charlie hỏi dồn.
Không có câu trả lời. Henry đã ngủ mất rồi, và Charlie không nỡ đánh thức anh ấy dậy.
“Ông cậu có nghe thấy không, Ông cậu Paton?” Charlie nói. “Bà Bloor biết ba con đã… hay đang ở đâu.”
“Ta có nghe, Charlie. Có nghĩa là ông ấy không ở xa đây. Một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm ra ông ấy. Đó là lời hứa.”
Charlie tưởng là nó sẽ không bao giờ ngủ được sau mẩu tin đáng kinh ngạc này, nhưng trước khi nó kịp nhận ra thì hai con mắt nó đã díu lại.
Cho dù tỉnh hay mơ, Charlie không chắc, thì có một lúc trong cuộc hành trình dài ra bờ biển, Ông cậu nó bắt đầu kể về Vua Đỏ. Hình như Charlie có nghe nhắc tới cái cây biến mất mà nó đã thấy trong tuyết, hoặc cái cây đỏ lạ kỳ hiện ra trong bức chân dung nhà vua; nhưng những lời của Ông cậu Paton vẫn còn rõ mồn một trong đầu nó.
“Ta tin rằng Vua Đỏ là một cái cây, Charlie. Xem ra nó là điều mà những cuốn sách của ta cho biết. Khi nhà vua sống ở trong những khu rừng rậm, chỉ có cây cối và những con báo của ngài làm bạn đồng hành, ngài trở thành một phần của rừng. Mày hỏi, cái cây đó di chuyển được không à? Ai mà dám chắc? Ai mà biết liệu đó có phải cái cây đang đứng trong sân chơi vào lúc bình minh, sau đó lại thấy ở trong khu bỏ hoang, hoặc trong bóng mát của một công viên lớn hay không? Có lẽ, một ngày nào đó mày sẽ biết.”
Khi Charlie mở mắt ra lại, nó trông thấy một dải biển xám mênh mông. Họ đang đi dọc theo một con đường vách đá hẹp, ánh sáng đang bắt đầu điểm xuyết bầu trời. Nó nhích Henry, vẫn đang ngủ mềm bên cạnh. Henry ngọ nguậy và dụi mắt.
“Coi kìa!” Charlie nói. “Biển kìa!”
Henry nhìn ra ngoài cửa sổ, “Tôi biết chỗ này,” cậu thét vang. “Chúng ta sắp về nhà rồi.”
“Nhưng còn phải đi vài dặm nữa,” Ông cậu Paton bảo. “Chúng ta hãy ăn sáng đi đã.”
Một tiếng kêu vang nhất trí từ các cậu bé, và chẳng bao lâu sau họ đã được thưởng thức bữa tiệc của ngoại Maisie. Bên ngoài gió buốt đang rít rú, và vì vậy họ ăn ở trong xe, ngắm nhìn những con sóng lớn sủi bọt xô ầm ầm vào bờ bên dưới.
Khi bữa sáng kết thúc, họ lại lên đường. Con đường lượn sát cạnh biển suốt đường đi, và Charlie mải nhìn không biết chán những đợt sóng, những vách đá chao đảo, và những hòn đảo mù sương, nổi trên mặt nước phía xa. Thế rồi, khi họ quẹo vô một khúc quanh, Henry reo lên:
�”Chúng ta tới rồi!”
Phía trước họ là một cái vịnh nhỏ, nơi biển thật hiền lành và xanh ngắt. Khi họ lái xuống dốc về phía biển, ánh nắng mặt trời tràn ra khắp đưởng chân trời, và nước trở thành một dải thuỷ tinh lấp lánh. Giống như đi vào một quốc gia khác vậy. Những đám mây đen đã bay đâu mất, và gió đông tan đi. Cả những con sóng hoang dại vỗ ầm ầm vào bãi sỏi cũng không còn.
�”Chuyện gì vậy?” Charlie hỏi. “Tất cả mọi thứ đều yên lặng.”
“Như bị yểm bùa.” Henry lẩm bẩm.
Họ đậu xe trên một mảng cỏ bên cạnh bờ biển. Phía bên kia đường, Charlie thấy một ngôi nhà trắng, đậu trên đỉnh một vách đá dốc.
“Nó đó hả?” Charlie hỏi Henry.
Henry chỉ gật đầu.
Họ băng qua đường và leo lên hai dãy cầu thang trên vách đá, được nước biển rửa sạch trắng. Ông cậu Paton đi đầu, có Charlie theo sau. Nhưng Henry thì chù chừ ở phía sau. Hình như cậu sợ cái điều có thể mình sẽ gặp trong ngôi nhà trên đỉnh những bậc thang ấy.
Có một mái hiên với cửa sơn màu xanh da trời ở bên hông nhà. Ông cậu Paton đi vô, và Charlie bước vô theo. Họ đi qua một cánh cửa nữa, rồi vô một căn phòng ngập tràn ánh mặt trời.
Một ông già ra đón họ. Tóc ông trắng và mắt xám, và mặc dù, tõ ràng là ông rất già rồi, nhưng trông nét mặt ông lại tươi trẻ, cứ như những nếp nhăn là do ông cười và do thời tiết biển mà ra.
“Ta đã thấy các con đến,” ông già nói, ôm chầm lấy Ông cậu Paton. “Còn đây là Charlie chứ gì, ồ, ồ, ồ! Cuối cùng chúng ta cũng gặp nhau!”
“Vâng ạ,” Charlie nói, trong khi ông cố của nó ôm ghì nó vô ngực ông.
Henry đang đứng như trời trồng, ngay bên trong cánh cửa. Cậu đang nhìn ông già trân trân. Và rồi ông già trông thấy cậu, và họ cứ nhìn sững mặt nhau, không nói một lời.
Cuối cùng, Henry bật nói, “Jamie!” Như thể ở đâu đó dưới tất cả những nếp nhăn kia, cậu đột nhiên nhìn thấy đứa em trai bé bỏng của mình, đứa em mà cậu đã bỏ lại khi cậu đi chơi ván bi cuối cùng của mình.
James Yewbeam vẫn không nói được nên lời. Mắt ông long lanh, ngấn nước, và Ông cậu Paton kéo Charlie vô trong khi hai anh em họ ôm lấy nhau.
Thật là quá sức chịu đựng của ông già. Ông chìm vào một chiếc ghế bành và lắc lắc đầu.
“Không thể tin nổi,” ông lầm bầm. “Đúng là anh!”
Rồi ông cập rập thò tay vào túi áo và rút ra một cái bao da nhỏ.
“Coi này Henry. Tôi vẫn giữ túi bi này.”
Henry ngồi lên thành chiếc ghế em mình đang ngồi.
“Anh sẽ dạy em chơi trò Thiện Xạ,” cậu nói.
“Dạy cả thời gian nữa,” James vừa nói vừa cười to.
Và rồi, một điều kỳ lạ nữa xảy ra. Một cánh cửa bật mở và bà bếp trưởng bước vô phòng. Mà có phải là bà không?
“Bà bếp trưởng?” Charlie ngạc nhiên.
“Không phải,” người phụ nữ trả lời. “Tôi là em gái của bà bếp trưởng. Tên tôi là Pearl.”
“Thảo nào biển mới yên thế,” Henry thì thầm.
Bà Pearl gật đầu, mỉm cười. Hoá ra bà Pearl đã là bà quản gia của cụ James Yewbeam suốt 20 năm qua. Kể từ khi vợ cụ qua đời.
Tất cả đám người bắt đầu bàn tán về tương lai của Henry. Cậu sẽ đi học trường thị trấn ở bên kia vịnh như thế nào.
“Ngôi trường đó nhỏ nhưng thân thiện” bà Pearl nói. “Henry sẽ nhanh chóng hoà nhập. Cậu ấy sẽ bắt đầu từ học kỳ hè, sau khi Charlie trang bị cho cậu ấy một chút kiến thức về những thứ của thời đại mới, đại loại như điện thoại di động, video, với mấy đồ linh tinh.”
Họ cũng quyết định là Charlie sẽ đến thăm Henry mỗi tháng một lần, cùng với những lần Ông cậu Paton đi thăm cha.
“Cả những ngày nghỉ nữa,” Henry nói. “Charlie phải tới đây vào những kỳ nghỉ.”
“Đương nhiên.” Ông cậu Paton nói.
Charlie chưa bao giờ đi nghỉ ở biển cả. Đó là điều Charlie luôn mơ ước, nhưng không bao giờ dám tin điều đó lại trở thành sự thật. Charlie nhìn qua cửa sổ tới chỗ mặt nước lăn tăn và bãi cát vàng.
Nó không cần phải đợi lâu mới được ra thăm biển. Cụ James Yewbeam đã thức cả đêm hôm trước, và bây giờ, sau tất cả những nỗi vui mừng, cụ đang ngủ say trong chiếc ghế. Ông cậu Paton đi lên lầu để chợp mắt một chút, trước chuyến lái xe dài trở lại thành phố. Bà Pearl bắt tay vào chuẩn bị bữa ăn.
“Hai cậu nên đi xuống bãi biển đi,” bà Pearl bảo hai thằng bé, “trông hai cậu như thiếu khí trời trong lành vậy.”
Chúng không cần thêm lời giục giã nào nữa. Charlie và Henry ở trên bãi biển suốt thời gian còn lại trong ngày. Chúng thi ném sỏi xa xuống nước, nhảy qua những vũng đá, thám hiểm những hang động mà Henry biết rất rành.
Thật nhanh chóng, những đám mây đêm bất chợt cuộn dồn khắp mặt nước, và Ông cậu Paton đang gọi bọn trẻ về ăn tối.
Họ ngồi quanh cái bàn bên trong cửa sổ nhìn ra vịnh, nơi có thể ngắm mặt nước in bóng trăng. Có nến thắp trên bàn, nhưng phần còn lại của căn phòng chìm trong bóng tối. Cụ Yewbeam luôn tháo hết bóng đèn mỗi dịp Ông cậu Paton đến thăm. Khi Charlie nhai ngấu nghiến bữa tối ngon lành do bà Pearl làm, nó không thể không nghĩ tới bà bếp trưởng ở trong những căn phòng nhỏ xíu dưới lòng đất của bà, cách xa biển và mặt trời.
“Con ước gì bà bếp trưởng tìm được một nơi giống như thế này để sống,” nó nói.
Bà Pearl bảo với nó rằng bà bếp trưởng rất hạnh phúc về nơi bà đang sống. Bà thích công việc trông nom bọn trẻ ở Học viện Bloor.
“Bọn ta thường nói chuyện qua điện thoại hàng giờ,” bà Pearl nói. “Và Treasure – tên của bà ấy – Treasure kể cho tôi nghe tất cả mọi việc đang xảy ra với những hậu duệ của Vua Đỏ, và đôi khi tôi nghĩ chính tôi mới là kẻ bị thiệt thòi.”
“Nhưng bây giờ bà có anh Henry rồi,” Charlie nói.
“Giờ, tôi có Henry.” Mắt bà Pearl lóng lánh. “Và tôi thấy rằng cậu ấy sẽ là một tên bất trị đây.”
Tất cả cùng phá ra cười vì câu nói của bà. Sau đó, Ông cậu Paton đứng lên, nói:
“Đi thôi, Charlie. Chúng ta phải đưa mày về nhà, không thì ngày mai mày sẽ chẳng thể nào thức dậy kịp đi học đâu.”
“Ôi trường học,” Charlie thở dài. Nó ước gì có thể ở lại lâu thêm chút nữa.
Hai anh em – một rất già và một vẫn còn là trẻ con – đứng ở đầu những bậc thang trên vách đá và vẫy chào tạm biệt khi Ông cậu Paton và Charlie leo vô chiếc xe đi đêm màu xanh da trời. Charlie ngồi lọt thỏm vô chiếc ghế bên cạnh Ông cậu và chiếc xe rùng rùng sống dậy.
“Con nghĩ Henry sẽ OK, phải không Ông cậu?” Charlie nói.
“OK ấy hả?” Ông cậu Paton nói. “Cậu ấy sẽ toả sáng rực rỡ ấy chứ. Giỏi lắm, Charlie!”