Quả cầu xoắn thời gian
Henry đã ngủ thiếp đi từ hồi nào. Một tiếng sấm đánh thức cậu dậy, và cậu vội loạng choạng đứng hẳn lên. Mặc dầu Charlie đã báo trước là sẽ có một cơn bão, nhưng cậu không ngờ nó lại như vầy. Thêm một tiếng nổ inh tai nữa dội vang trong đường hầm, và có cái gì đó chạy lon ton xuyên qua bóng tối đằng sau cậu. Một trong ba con mèo liền phóng chộp lấy. Một tiếng “chít” ré lên, tiếp theo là tiếng nhai xương rau ráu.
Cái này còn tệ hơn cả ở dưới hố nữa, Henry chợt nghĩ tới căn phòng, nơi có mặt trời đỏ rọi những tia nắng rực rỡ xuống sàn. Đó là nơi thật dễ chịu, và cậu mong ước tới đó lần nữa.
�”Sao lại không nhỉ?” Cậu nói một mình, “Tới giờ thì họ sẽ đi kiếm mình thôi.”
Cậu cất bước đi về hướng bình yên của căn phòng tươi sáng. Ngay khi cậu vừa rời khỏi cánh cửa quán cà phê, lũ mèo liền nhảy chồm chồm xung quanh và meo meo ầm ĩ. Xem ra chúng xáo động cả lên khi thấy cậu bước đi sai hướng.
�”Tao không đi xa đâu,” Henry bảo lũ mèo. “Chỉ tới phòng mặt trời thôi mà.”
Chúng bám theo cậu suốt quãng đường hầm tối và vô căn phòng. Khi Henry trải áo chùng lên trên hình mặt trời và nằm xuống sàn, chúng mới thả lỏng người ra và ngồi sát bên cạnh cậu, tỉ mẩn liếm bộ lông cho mình.
Ánh sáng từ cái lỗ trên mái vòm bắt đầu nhạt dần. Chẳng bao lâu sau, bầu trời chuyển tối đen như mực. Cơn bão vẫn thét gào, và ánh chớp cứ bất thần quệt ngang những bức tường tranh vẽ bằng những luồng sáng xèn xẹt.
Không hề bị sấm hay chớp quấy rầy, ba con mèo cuộn mình lại và ngủ ngon lành.
Ai mà biết được điều gì đã khiến Henry làm cái việc tiếp theo đó? Có lẽ là do âm thanh vọng từ ô cửa sổ tròn? Người ta rất có thể nghĩ rằng đó là gió, hay hạt mưa lướt qua những cành cây. Nhưng Henry thì cho rằng cậu nghe tiếng ai đó khóc. Nó gợi cho cậu nhớ tới James. Cậu chưa bao giờ nghe âm thanh đó mà lại không làm gì cả.
Lũ mèo vẫn ngủ say khi Henry rón rén tới chỗ cửa sổ tròn và leo ra. Cậu mới chỉ lò dò được vài bước qua khu rừng thì bỗng có một tiếng gừ rợn xương đằng sau lưng.
Henry chạy. Cậu lao xé qua khoảng trống, quành qua cái hố đen ngòm nằm phơi bên cạnh tảng đá. Cậu leo lên bờ đất có nhiều cây cối phía bên kia tảng đá, trong khi con thú hùng hổ đuổi theo cậu qua những hàng cây, tru lên đầy đói khát.
Henry cuống quít tìm đường thoát ra khỏi khoảng trống. Những ngón tay cậu quơ quào vô đá sắc, những bức tường dây leo và những cành gai nhọn. Thình lình, một tia chớp nháng lên, chỉ cho cậu thấy một cổng đá hình vòm, thế là cậu liền phóng qua. Cậu thấy mình lọt vô một lối đi tối thui và lầy lội, nơi mặt đất phủ đặc rêu trơn trượt. Chuệch choạch mò mẫm lên một con dốc thoai thoải, Henry băng về phía những dải chớp thắp sáng bừng đầu đằng kia lối đi.
Tiếng gầm gừ và rú vang của con thú dội đằng sau khi cậu leo qua một đám ván sàn, và rồi, rơi oặt xuống những phiến đá của một cái sân gạch lớn. Không ngoái nhìn lại, Henry vụt đứng lên và bay qua mái cổng vòm lừng lững dẫn vô vườn.
Khi cậu chạy băng băng trên cỏ ướt, tiếng bão gào rú càng dữ dội hơn. Một cơn gió hú tạt mưa như trút nước xuống khu vườn. Lúc Henry chạy được tới Học viện thì cậu đã ướt sũng tới tận da.
Cánh cửa vườn không khoá, và Henry lòng đầy biết ơn, phóng vô bên trong, đóng sầm cửa lại đằng sau. Ở trên đầu cầu thang, phía bên kia tiền sảnh, Billy Raven đang đứng nhìn trân trối. Thằng bé tóc trắng không thốt ra được lời nào, cứ dòm trơ trơ khi Henry phóng tới cánh cửa gần nhất: cánh cửa vô chái phía tây. Henry không mong gì lẩn trốn được. Billy chắc chắn sẽ không để phí chút thời gian nào. Vài phút nữa, gia đình Bloor sẽ biết tên tù của họ đã trốn thoát và họ sẽ lục tung cả toà nhà lên.
Henry bắt đầu leo lên những cầu thang dẫn tới lớp học nhạc. Lần trước cậu đã an toàn ở đó. Thầy giáo dạy nhạc là một người lạ lùng, nhưng Henry biết mình có thể tin cậy ông. Cơn bão bây giờ đang tới hồi đỉnh điểm. Toàn bộ toà tháp rung rinh dưới tiếng sấm đinh tai, chớp loé liên hồi quật vô từng cửa sổ.
Henry chạy lên gần tới đỉnh chiếc cầu thang xoắn ốc thì có tiếng quát từ bên dưới.
�”Nó chạy vô đây!”
Tiếng của hai cặp chân đang chạy lên những bậc thang của tháp. Henry vọt về phía trước, bị hụt mất một bậc liền ngã lăn trở lại sàn nhà.
�”Nghe không? Nó ở trên đó đó!” Manfred hét.
Henry ráng gượng đứng dậy. Cậu bắt đầu tự hỏi liệu cố trốn thoát thì có ích lợi gì không. Cuối cùng rồi họ cũng sẽ tóm được cậu. Nhìn vô vọng lên những bậc thang chật hẹp, Henry thở hắt ra một tiếng buông xuôi. Một giây tiếp theo, cánh tay cậu được một bàn tay đeo găng, mảnh dẻ chạm vô!
Bà Bloor đang đứng bên cạnh cậu. Một bà Bloor đã thay đổi hoàn toàn. Trang phục đen không còn nữa. Bây giờ bà mặc một chiếc áo khoác đỏ và quàng một chiếc khăn hoa rực rỡ. Một cánh tay bà đeo hộp đàn vĩ cầm, và bàn tay kia bà xách một cái túi da nhỏ. Tóc bà toả sáng, mắt bà long lanh.
�”Tới lúc đi rồi, Henry,” Bà bảo, xoè bàn tay bị tật của bà ra. “Nhìn này!”
Henry nhìn thấy Quả Cầu Xoắn Thời Gian sáng rực trên nền chiếc găng tay đen. Cậu vội ngoảnh đi chỗ khác.
�”Chúng ta sẽ cùng đi,” bà Bloor nói. “Nắm lấy tay tôi và đi lối này.”
Không hề nghĩ ngợi, Henry nắm lấy cánh tay trái của bà Bloor khi bà tất tả lách qua cánh cửa sau lưng. Cánh cửa dẫn vô một trong những hành lang tối và dài bên trong chái phía tây.
Bà Bloor bắt đầu chạy.
“Thời điểm thật hoàn hảo,” bà nói. “Đang có bão, cậu thấy đấy, giống như cái đêm họ làm dập những ngón tay tôi. Giờ tôi có thể trở lại như tôi trước kia. Tôi có thể trốn đi trước khi họ bắt tôi lại.”
Bà thình lình tăng tốc, lao bắn đi, và Henry suýt nữa thì trượt ngã khi cố chạy cho kịp bà.
“Rủi… ” Henry nín thở, “Rủi đâu bà trở về sai chỗ thì sao.”
“Không đâu, Henry. Tôi đã suy nghĩ rất kỹ về nơi tôi muốn tới. Tôi tin vô quả cầu cổ xưa này. Tôi sẽ có năm phút chạy trước tụi nó. Lần này tôi sẽ đi qua cổng và vẫy một chiếc taxi trước khi có người biết tôi đã bỏ đi.”
“Cháu nghĩ là cháu không đi cùng bà được,” Henry thở gấp gáp.
“Nhưng cháu phải đi.”
Bỗng một giọng rống vang khắp hành lang:
“Dorothy, ĐỨNG LẠI!”
“Nhanh lên nữa, Henry!” Bà Bloor thét.
Henry cảm thấy như buồng phổi mình đang bị một con voi nghiền nát. Cậu không thể chạy tiếp được nữa. Cậu sẽ không bao giờ thở lại được.
“MANFRED, BẮT LẤY CHÚNG!” Giáo sư Bloor gầm vang.
Đúng lúc Manfred đang vọt đuổi theo sau những người chạy trốn, thì một thân hình ú ị lùn tịt lăn qua hành lang. Rồi một tiếng thét kinh hoàng khi Manfred vấp phải May Phúc. Nó té lộn nhào, cắm đầu xuống mặt sàn lát gỗ, rên rỉ và nguyền rủa.
“Đồ chó chết, thối tha, kinh tởm, đáng ghét… ”
Trong khi Manfred nhiếc móc con chó già, bà Bloor quẹo vô góc quanh và chui qua một cửa vòm thấp. Bên kia cửa vòm có một dãy cầu thang đá dẫn lên một cửa sổ hẹp.
“Chán thật,” bà Bloor thở phừng phừng khi leo lên những bậc thang. “Tôi đã không định đi đường này, nhưng không còn cách nào khác. Đi nào, Henry.”
Henry giờ đã buông cánh tay bà Bloor ra. Cậu đang phân vân dữ dội xem có nên đi theo bà hay không, nhưng xem ra cậu không còn cách nào khác.
“Mau lên, đi,” bà Bloor giục.
Khi đã lên tới đầu cầu thang, bà mở chốt cửa sổ và dường như nhảy ra ngoài khoảng không. Henry tê cứng người lại lúc một ánh chớp vắt ngang bầu trời. Người đồng hành với cậu đã rớt xuống đất chết rồi, hay là bà đã bị xoáy trở lại xuyên thời gian? Cậu bò lên hết những bậc thang và nhìn ra.
Bà Bloor đang đứng trong một lối đi rộng, giữa mái nhà và một bờ nóc dài. Từ trên đỉnh bờ nóc ấy, tượng những con thú lạ bằng đá nhìn ra vườn và ra những hàng cây thẫm xa xa.
“Đi nào, bé con,” bà Bloor hối. “Đừng sợ.”
Bà đang nhìn chăm chăm vô Quả Cầu Xoắn Thời Gian, và quả cầu pha lê cuộn trào, phóng những màu sắc ngoạn mục vô bầu trời đêm.
Henry không thể kiểm soát được mình. Cậu bước về phía bà. Sau lưng cậu, nổi rõ tiếng thịch thịch của những bước chân nặng nề.
Không rời mắt khỏi Quả Cầu Xoắn Thời Gian, bà Bloor hất quai chiếc giỏ xách lên vai và túm lấy một góc áo chùng của Henry.
“Còn vài giây nữa,” bà thở gấp. “Tôi cảm thấy tới lúc rồi, Henry. Lẹ lên, chúng ta sắp đi được rồi.”
Bà chạy sát bên gờ nóc, giật mạnh Henry chạy theo, và cười phá lên sung sướng. Henry tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra khi hai người chạy tới mép mái nhà. Nhưng họ không bao giờ đi được xa tới thế. Chiếc áo khoác đỏ của bà Bloor bắt đầu run rẩy dưới ánh chớp sáng trắng. Mái tóc hoe vàng của bà sáng rừng rực và xoã tung lên thành một chùm sao.
“Henry” một giọng nói sẽ sàng, lịm dần. “Có một điều tôi định nói với Charlie. Tôi biết nơi ba của nó… nhưng bây giờ quá trễ rồi… Ông ấy sẽ không bao giờ… Ôi, Henry, chúng ta đang đi!”
Nhưng Henry không muốn đi ra ngoài đó, tới một thế giới mà cậu không biết. Cậu đã làm quen với thế giới này rồi. Chuồi khỏi chiếc áo chùng, cậu quăng mình ra núp đằng sau một trong những ống khói to bự nhô lên khỏi mái nhà. Từ trong bóng tối thăm thẳm của ống khói, cậu chứng kiến bà Bloor xoắn lại thành một dải cầu vồng muôn sắc… và biến mất. Một tràng cười còn phảng phất lại… sau đó là hư không.
Gió đã lặng và sấm cũng xa vời, nhưng trong luồng chớp sáng rực rỡ cuối cùng, Henry trông thấy Manfred Bloor đứng bên gờ nóc nhà. Hắn đang ngửa mặt lên trời và gọi to. Đúng ra đó là một tiếng khóc vỡ vụn, không rõ, và Henry có thể sai lầm, nhưng tiếng đó nghe rất giống như tiếng “Mẹ ơi!”
“Bà ta đi rồi hả?” Giáo sư Bloor hét ra từ cửa sổ.
“Cả hai cùng đi rồi,” Manfred nói, hỉ mũi.
Nó nhặt chiếc áo chùng của Henry lên.
“Thằng nhỏ bỏ lại cái này. Tôi dám chắc là nó sẽ không cần cái này ở nơi nó tới.”
“Bất cứ nơi nào cũng không cần,” giáo sư Bloor lầm bầm.
“Ông cố sẽ rất thất vọng cho mà coi,” Manfred lẩm bẩm khi hắn bước khỏi chỗ Henry núp. “Ông cố chỉ muốn có thêm chút trò vui với con quái thú nhỏ ấy thôi mà.”
Henry rùng mình. Loại trò vui nào chứ? Cậu tự hỏi.
Manfred bước qua cửa sổ và đóng rầm cửa lại.
Một mặt trăng lợt lạt ló ra khỏi những đám mây xoáy tròn. Henry ra khỏi bóng tối và nhìn xuống vườn. Cậu không biết mình sẽ trốn đi như thế nào để không bị phát hiện. Gia đình Bloor thể nào cũng sẽ tóm được cậu trước khi cậu kịp vô tới khu bỏ hoang. Mà cho dù cậu có tới được đó, thì con thú dữ cũng vẫn đang chờ cậu.
Cậu chạy ra cửa sổ và thấy cửa đã bị khoá. Lạnh và đói, Henry nghĩ tới quán Cà Phê Thú Kiểng cùng những chiếc bánh nướng mà bà Onimous đã hứa với cậu.
“Vậy là không được thế nữa rồi,” Henry thở dài.
Cậu vừa định liều phá cửa sổ thì có cái gì đó quét qua khoảng không phía trên đầu. Một con chim khổng lồ đáp xuống gờ nóc, đôi cánh rộng của nó lóng lánh những hạt nước mưa. Henry chưa bao giờ trông thấy con chim nào to lớn như thế. Cái mỏ nó cong khoằm thật dữ tợn và mỗi móng vuốt của nó to như một thanh đao, phản chiếu ánh sáng. Thế nhưng, Henry không hề sợ. Cậu cảm giác có cái gì đó thân thiện ở con vật khổng lồ này, một cái gì đó rất ấm áp.
Khi cậu chạy ra với con chim, nó cúi đầu xuống. Henry vòng tay ôm quanh cái cổ dài, lông xù và nhắm mắt lại.
° ° °
Vào lúc 7 giờ, Benjamin sang nhà gặp Charlie.
“Mình muốn biết việc gì đang xảy ra với Henry,” Benjamin nói.
“Mình tính lên bảo Ông cậu Paton gọi điện cho ông Onimous ngay,” Charlie nói. “Thật kinh khủng khi cứ ngồi đợi với đợi mà không biết việc gì đang diễn ra.”
Benjamin và con Hạt Đậu theo Charlie trở lên phòng. Nội Bone vẫn chưa về nhà, và điều này đang khiến Charlie lo lắng. Bà nó vẫn còn đang chầu chực ở bên ngoài quán Cà Phê Thú Kiểng? Liệu bà vẫn sẽ rình ở đó khi Ông cậu Paton lái xe tới đón Henry? Còn mấy bà cô nhà Yewbeam thì sao? Henry vẫn an toàn trong đường hầm chớ? Đó là một câu hỏi đáng lo khác.
Sau một hồi, Charlie không thể chịu lâu thêm được nữa. Nó qua phòng Ông cậu và gõ cửa.
“Con đây,” Charlie lên tiếng. “Ông cậu Paton, Ông cậu có gọi cho ông Onimous được không? Con lo cho Henry quá.”
“Ôi chao,” Ông cậu thở dài. “Phải chi ta kiếm ra cái điện thoại nằm đâu.”
Đúng lúc đó, cánh cửa trước đóng lại đánh rầm và ai đó huỳnh huỵch đi qua hành lang. Charlie nhận ra tiếng bước chân của nội Bone, liền chạy như bay trở về phòng nó.
Vài phút sau, gương mặt buồn phiền của Ông cậu Paton ngó vô cửa phòng Charlie.
“Ta đã tìm thấy điện thoại,” Ông cậu Paton nói. “Ta đã gọi cho ông Onimous. Henry đi rồi!”
“Cái gì!” Charlie nhìn Ông cậu trong nỗi kinh hoàng. “Nhưng bằng cách nào? Ông Onimous có thấy không?”
“Ông ấy bảo với ta là cậu ấy đã tới cuối đường hầm và thoát ra khu bỏ hoang. Không có dấu vết nào của Henry. Cái ông bé nhỏ tội nghiệp đó rất đau khổ.”
“Henry đi vô căn phòng có mặt trời,” Charlie lẩm bẩm. “Anh ấy cảm thấy an toàn ở đó. Nhưng tại sao anh ấy không trở lại?”
“Chúng ta cần phải chờ thôi,” Ông cậu Paton bảo. “Chỉ làm được thế thôi. Chờ và hy vọng. Cả cha ta cũng sẽ phải chờ.”
“Ý Ông cậu là… ” Charlie bất giác hiểu ra ngụ ý của Ông cậu Paton.
“Phải. Ta đã kể cho cha ta nghe về Henry. Đó là nơi ta hy vọng sẽ đưa cậu ấy tới, để sống với em trai của mình bên bờ biển.”
Chờ và hy vọng quả là một việc khó làm, một khi người ta đã chờ đợi và hy vọng gần như hết sức chịu đựng. Những hình ảnh khủng khiếp cứ tuôn ra trong tâm trí Charlie. Henry bị rượt đuổi khắp khu bỏ hoang, bị bắt và bị ăn thịt.
Benjamin cố nán lại lâu hết cỡ, nhưng sau khi chờ thêm nửa giờ nữa, nó bảo với Charlie là nó cần phải về, không thì mẹ nó lại bắt đầu lo lắng.
“Ờ,” Charlie nói, buồn rã rượi.
Benjamin vừa quay đi, thì con Hạt Đậu liền chạy ùa ra cửa sổ và sủa nhắng nhít.
“Suỵt!” Benjamin xua nó.
Con chó bự lại sủa nữa. Nó đứng nhổng lên hai chân sau và cào cào những tấm rèm.
“Im đi, Hạt Đậu,” Benjamin la. “Nội Bone bắt tụi mình bây giờ.”
Hạt Đậu nhìn chủ của nó và tru lên buồn bã.
“Tụi mình không thể ra đằng cửa sổ được,” Benjamin nói, vẻ mất kiên nhẫn. “Đi nào, Hạt Đậu, đường này này.”
“Benjamin!” Charlie nhảy dựng lên. “Mình nghĩ có cái gì đó ở ngoài kia.”
Nó chạy ra cửa sổ và gạt mấy tấm rèm qua một bên.
Có một cây dẻ lớn ở bên ngoài cửa sổ phòng Charlie.Và, ngồi trên một cành to là Henry Yewbeam. Cậu vẫy Charlie và tròn miệng mấp máy câu “Chào!”
Charlie lao như bay xuống cầu thang và ùa ra cửa trước. Nó lo lắng chờ đợi trong lúc nhìn Henry đu người khỏi một cành cây và thả xuống đất, và rồi, hai thẳng bé chạy vô nhà.
“Lên lầu,” Charlie nhắc khẽ, đóng cửa trước lại.
Henry phóng lẹ lên lầu, nhưng cậu chưa lên tới bậc trên cùng, thì nội Bone ló ra khỏi phòng khách.
“Thằng bé đó là ai vậy?” Bà hạch hỏi.
“Benjamin.” Charlie đang lên được nửa cầu thang.
“Hả?” Bà nghi ngờ. “Ta hy vọng là con chó không ở trong phòng mày.”
“Tất nhiên là không, nội.”
Charlie chạy theo Henry lên tới chiếu nghỉ, trong khi nội Bone đi ngang qua nhà bếp.
“Vô đây,” Charlie nói, vội kéo Henry vô phòng nó. “Đây là Benjamin.”
“Chào bạn! Tôi là Henry.”
Trong khi Charlie đóng cửa, Henry bắt tay Benjamin và rồi bắt bàn chân mà con Hạt Đậu đang hăm hở chìa lên. “Rất hân hạnh gặp cả hai bạn,” Henry nói. “Xin vui lòng đừng sợ hãi.”
Benjamin nhận ra mình đang nhìn Henry chằm chặp, há hốc cả miệng.
“Em là Benjamin,” nó nói. “Trông anh cũng bình thường.”
“Anh ấy bình thường mà,” Charlie nói. “Chỉ là anh ấy… ”
“Không đúng thời gian,” Henry tiếp.
Cậu ngồi xuống giường của Charlie và tuyên bố:
“Tôi tự do. Tôi an toàn! Gia đình Bloor đinh ninh là tôi đã trở về quá khứ rồi, cho nên họ sẽ không tìm kiếm tôi nữa.”
“Em không hiểu,” Charlie bối rối. “Làm sao anh tới đây được?”
“Chuyện dài lắm,” Henry bảo và bắt đầu kể lại cuộc phiêu lưu kỳ lạ của mình.
“Anh bảo là có một con chim cứu anh!” Benjamin cao hứng.
“Chắc chắn là Emma!” Charlie nói.
Benjamin và Henry có vẻ ngớ ra, Charlie bèn giải thích.
“Tôi muốn cảm ơn tất cả các bạn của cậu,” Henry cảm động, “Những người đã giúp tôi.”
Charlie bảo Henry là sẽ không có thời gian để gặp gỡ các bạn.
“Tối nay Ông cậu Paton sẽ chở chúng ta tới một nơi mà anh sẽ an toàn,” nó từ tốn. “Chúng ta phải đi trước khi nội Bone phát hiện ra anh ở trong nhà này.”
“Tôi sẽ đi đâu?” Henry thấp thỏm.
“Anh sẽ về nhà. Tới ngôi nhà bên bờ biển, và em sẽ đi cùng với anh. Em chỉ đi một ngày thôi. Đó sẽ là lần đầu tiên em gặp ông cố.”
Henry nhíu mày:
“Ông ấy là ai?”
“Là em trai của anh, James.”
“James?” Henry sững sờ. “Jamie bé bỏng? Nó vẫn còn sống?”
Nếu không nhờ có con Hạt Đậu, chắc hẳn Henry đã không bao giờ gặp lại em trai mình. Con chó vừa gầm gừ trong họng vừa nhìn xoáy ra cửa. Charlie vội đẩy Henry giật cứng người xuống gầm giường, và cánh cửa bật mở.
Nội Bone đứng sựng nơi ngưỡng cửa, trợn mắt nhìn Hạt Đậu.
“Mày là đồ nói láo, Charlie Bone,” bà xỉa xói. “Mày cho chó vô đây. Đuổi nó ra. Ngay!”
Bà ngó dáo dác quanh phòng, cái mũi dài của bà nhăn nhíu lại.
“Mày đang giấu ai nữa đó? Có chuyện gì vậy?”
“Không có gì, thưa bà Bone,” Benjamin đỡ lời. “Con chó của cháu sợ bão, nên cháu mang nó lên đây để cho nó bình tâm lại.”
“Hết bão rồi!” Nội Bone quang quác. “Mày không thấy à? Giờ, về mau.”
“Vâng, thưa bà Bone.”
Benjamin ngoan ngoãn lách qua người phụ nữ cao nghều đứng án cửa. Hạt Đậu nhe răng ra và nhắm một tiếng gừ hay nhất của nó vô cái mắt cá xương xẩu của nội Bone.
“Áááá!” Nội Bone rú lên, lùi ra cửa. “Đuổi nó xa ta ra.”
Khi Benjamin và con chó của nó an toàn rời khỏi ngôi nhà, nội Bone nhìn Charlie và ra lệnh cho nó đi ngủ ngay.
“Dạ, nội Bone.” Nó nhu mì đóng cửa lại và chạy ra cửa sổ. Khi Charlie ngó ra thì Benjamin đã qua tới bên kia đường.
“Ben!” Nó gọi. “Báo tin cho mọi người biết nhé. Kể cho họ chuyện xảy ra, được không?”
Nội Bone không hề thắc mắc về những tiếng cót két, thì thào diễn ra trong nhà đêm hôm đó. Theo như bà biết, thì Henry Yewbeam đã biến mất vào quá khứ… hoặc tương lai… cho nên, bất cứ chuyện gì diễn ra chăng nữa cũng chỉ là dớ dẩn, và bà cũng chẳng thèm bận tâm tới. Bà uống một ly whisky nặng và đi ngủ.