Một sớm tháng sáu dịu nhẹ, thời điểm cái thai đã được bốn tháng, Kate vội vã bước dưới mái hiên đỏ tía phía trên các ô cửa sổ bên ngoài nhà hàng Donovan đến chỗ làm, và cô bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa kính. Với một thôi thúc mãnh liệt, cô tiếp tục đi và theo dõi hình dáng lạ lùng của mình qua tấm kính. Mái đầu nghiêng nghiêng, đôi vai hơi co về phía trước như thể cô phải rẽ đường xuyên qua cả đoàn người đông đúc đang vội vã đến chỗ ăn trưa, mái tóc cô rối tung những lọn quăn lòa xòa được buộc cao theo kiểu bờm ngựa vì dễ làm nhất, và bụng đã lùm lùm. Con trai của Mitchell đang thông báo đến mọi người sự hiện diện của cậu trên cõi đời này.
Và nếu còn chưa đủ tồi tệ, tấm kính cửa sổ bụi còn bám đầy nữa chứ..
Cô đẩy tấm cửa gỗ sồi nặng nề, nhìn quanh tìm kiếm người quản lý, và kiểm tra mọi thứ xem đã sẵn sàng chưa, và lo lắng liếc vào đồng hồ. Giờ đã là 11:15, còn 15 phút nữa trước khi nhà hàng Donovan mở cửa phục vụ bữa trưa. Lúc này, đáng ra tất cả các bàn phải được phủ khăn vải lanh trắng tinh và đặt đồ pha lê sáng lấp lánh lên, cùng với bộ nạp điện bằng sứ với chữ D màu vàng in chính giữa, và cả những chiếc đèn lồng trang trí bằng đồng. Khi cô bước về phía phòng chờ, Kate đếm thấy mười chiếc bàn vẫn chưa bài trí, và cô lưu ý đến tấm thảm màu boóc đô hoa văn chìm trông có vẻ không được hút bụi cho sạch sẽ.
Phòng chờ cách ly với khu vực ăn bằng một bức tường ốp gỗ trang trí tuyệt đẹp với những ô kính màu. Căn phòng chiếm tòan bộ góc bên phải tòa nhà, những cánh cửa chớp hướng ra con phố phía trước và dọc theo một bên hông. Ban ngày, những cánh cửa chớp vẫn để mở cho những thực khách ngồi tại bàn có thể thưởng thức được khung cảnh đường phố. Về đêm, chúng đóng lại, và bầu không khí bên trong tràn đầy ánh nến, trở thành một nơi “ẩn náu” thích hợp cùng với ban nhạc jazz ngay bên cạnh sàn nhảy nhỏ.
Khu vực quầy bar bằng gỗ gụ hình L trải dài choán hết hai bức tường còn lại, một kiểu mô phỏng quầy bar thời cổ, với mặt quầy lát đá cẩm thạch màu xanh đen, những tay vịn bằng đồng, và một mái vòm gỗ chạm trổ phía trên những chiếc ghế cao bọc da màu boóc đô. Một cái gương lớn đặt xéo trên hai bức tường đối diện bị che khuất bởi hàng tầng tầng lớp lớp những chiếc ly pha lê và cùng với danh tiếng của nhà hàng Donovan trên toàn thế giới.
Nguyên bản quán rượu Ai Len thời thơ ấu của Kate đã chiếm hết gần một nửa khoảng không gian phòng chờ hiện thời. Bình thường thì việc ở trong căn phòng này luôn gợi trong Kate nỗi luyến tiếc quá khứ. Tuy vậy, ngày hôm này, cô lại cảm thấy một nỗi phiền muộn chán chường khi đưa mắt nhìn vào trong và thấy Frank O’Halloran đang đi đi lại lại hết đầu quầy bar xuống cuối, sắp đặt những tô quả hạch nhập khẩu, và rút những khay hoa quả từ tủ lạnh bỏ xuống dưới quầy.
Thường thì phải có hai nhân viên phục vụ đảm trách khu vực đó vào các bữa trưa hàng tuần, và con số này tăng lên thành ba các tối từ thứ Hai cho đến thứ Tư, và lên đến bốn cho các ngày Thứ Năm, thứ Sáu, và suốt đêm thứ Bảy nhộn nhịp.
“Chào chú Frank.” Kate nói với người phục vụ tóc đang dần thưa đi theo tuổi tác, người đã làm việc cho nhà hàng Donovan suốt hai mươi năm qua. “Hôm nay ai được phân công làm cùng ca với chú vậy?”
“Jimmy,” ông trả lời, trao cho cô một cái nhìn lạnh nhạt.
“Cháu tưởng Jimmy đảm nhận ca tối.”
“Cậu ta đổi ca với Pete Fellows rồi.”
“Thế thì Jimmy đâu?”
“Chú không biết, Mary Kate à.”
Việc phân công cho đội ngũ nhân viên là trách nhiệm của Louis Kellard trên cương vị quản lý nhà hàng. “Cháu đoán Louis sẽ chú ý cho người đến phụ chú.” Kate lên tiếng, quay người rời đi.
“Kate, chú cần nói với cháu một vài điều.”
Cô quay lại, đột nhiên lo lắng vì giọng nói của ông. “Vâng?” cô tiến về phía ông. Mồ hôi lấm tấm lan ra trên trán ông.
“Chú sẽ nghỉ việc.”
Đôi mắt Kate mở to hoảng hốt trước ý nghĩ về một người thân thiết nữa biến mất khỏi cuộc đời cô. “Chú ốm phải không, Frank?”
Ngẩng đầu lên, ông nhìn thẳng vào mắt cô. “Ừ. Chú phát ốm lên vì nhìn thấy nơi này đang dần trượt dốc. Chú luôn thực sự tự hào được làm việc ở nhà hàng Donovan này. KHông người khách nào đến đây hơn vài lần mà chú lại không nhớ được tên và những món ăn ưa thích của họ. Bố cháu, Cầu chúa cho linh hồn ông ấy yên nghỉ, cũng đã làm như thế với những người khách trong căn phòng này.”
“Cháu biết – ” Kate nói, suy sụp vì lời chỉ trích gián tiếp của người mà cô coi như một quản gia.
“Nhà hàng Donovan lúc nào cũng rất độc đáo. Thậm chí khi bố cháu quyết định biến nơi này trở nên thật sự xuất sắc, ông ấy cũng giữ được bản sắc riêng. Ông ấy đã thổi hồn vào nó, và đó chính là thứ khiến cho nhà hàng Donovan này trở thành một địa điểm được ưa chuộng như thế. Chú sẽ thành thực với cháu, Mary Kate ạ, và nói với cháu điều mà chúng ta, những người đã làm việc ở đấy nhiều năm rồi đã nghĩ: Cháu không được như bố cháu. Chúng ta nghĩ cháu có thể làm được, nhưng cháu không.”
Kate chật vật xoay xỏa ngăn không cho những giọt nước mắt trào ra. “Cháu cũng dành nhiều thời gian ở nơi này như bố cháu đã từng,” cô phản đối.
“Trái tim của cháu không dành cho nó,” ông phản bác. “Bố cháu sẽ không để chú một mình ở đây mà chỉ nhún vai và nói rằng, “Cháu đoán Louis sẽ chú ý cho người đến phụ chú” như cháu đâu. Ông ấy sẽ đảm bảo hết sức để có người phụ cho chú, và rồi cũng sẽ biết được lý do tại sao Louis lại không để tâm tới điều đó.”
Những giọt nước mắt uất ức đang thiêu đốt trong đôi mắt Kate, muốn tuôn trào ra, và cô quay đi, chân bước đến ngưỡng cửa phòng ăn. “Hãy bảo Marojorie tính thêm hai tháng tiền lương vào bảng thanh toán của chú.” Cô trả lời, nhắc đến người thủ quỹ tin cẩn đã làm việc cho bố cô hơn mười năm nay.
Trước vẻ choáng váng của cô, người đàn ông gốc Ai len này phẫn nộ nói với theo cô. “Cháu đi mà bảo Marjorie, Mary Kate Donovan! Đó là việc của cháu – cháu là chủ, không phải chú, cũng không phải Marjorie.”
Kate gật đầu, cố hít thở thật đều và chậm rãi để không phải chạy vào nhà tắm mà nôn ra hoặc khóc òa lên.
“Và một việc nữa–” Frank quát lên sau cô. “Tại sao cháu lại để chú đi sau cách nói chuyện với cháu kiểu đó. Chú sẽ không bao giờ bỏ đi mà nói với bố cháu giống như thế.”
“Quỷ tha ma bắt hết đi,” Kate thầm thì.
“Và còn một điều nữa,” ông kêu lên.
Tay cuộn thành nắm đấm, Kate quay đầu lại và nhìn ông đang đứng dựa vào quầy bar, khuôn mặt đỏ bừng lên phẫn uất. “Mắt cháu bị làm sao mà không thấy những quả chanh chú vừa bỏ ra đã héo quá rồi? Tại sao cháu không vào bếp mà xem đồ quỷ nào đang để cho nhà cung ứng rau quả tống cho chúng ta cái đống vứt đi này?”
Kate im lặng, nhưng cô để ý thấy nhân viên phụ trách, Kevin Sandovski, vẫn chưa có mặt tại vị trí vào lúc 11:25, khi cô bước đến bàn làm việc của anh ta ngay lối vào. Phía trong bếp, cô thấy anh ta, Louis Kellard cùng với một vài nhân viên khác đáng ra lúc này đây phải bận bịu sắp đặt những việc nhỏ còn lại trong phòng khách, thì lại đang đứng túm tụm cười đùa bên cạnh bếp trưởng. “Chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy?” cô lên tiếng qua tông giọng mà cô mong nó thể hiện thái độ không bằng lòng và uy quyền.
Sandovski nhảy dựng ra khỏi ghế đẩu, nhưng cô nghĩ anh ta đảo mắt về phía những người phục vụ. Louis Kellard nhìn vào phần bụng nhô lên của cô, mỉm cười đồng cảm và nói. “Kate này, tôi đã trải qua hai lần vợ mang thai rồi, tôi biết với một phụ nữ xoay xở về mặt thể chất và tinh thần cũng khó khăn đến thế nào, lại còn chịu áp lực duy trì công việc nữa. Hãy cố gắng đừng để bản thân mình khó chịu.”
“Tôi không tự làm tôi khó chịu,” Kate đáp lại, do dự liệu anh ta có đang thành thật muốn giúp đỡ cô hay là đang chế nhạo cô. “Frank O’Halloran nói chúng ta đang nhận thực phẩm kém chất lượng. Có phải thế không?”
“Đương nhiên là không phải,” Louis lên tiếng, anh ta lắc đầu tỏ ý bị xúc phạm. “Chúng ta chỉ không dùng nhiều chanh như ở khu vực phòng chờ thôi, vì thế chúng để có hơi lâu một chút.”
“Tại sao số lượng chanh không dùng nhiều như thường lệ?”
“Hỏi Marjorie ấy,” Louis nói. “Bà ấy có toàn bộ số liệu mua bán đang làm. Chúng tôi có giảm xuống một chút so với số lượng vẫn thường dùng, nhưng không nhiều lắm.”
Kate gật đầu và ra khỏi nhà bếp. “Tôi ở văn phòng nều như anh cần tôi.”
Văn phòng của bố cô – giờ là của cô – đã được tu sửa nhiều năm trước đây tách biệt với phòng ăn chính, ngăn cách bởi một hành lang ốp ván ép với những cánh cửa dẫn đến phòng thủ quỹ cũng như phòng của người quản lý. Cầu thang dẫn từ quán rượu cũ đến căn hộ phía trên đã bị bỏ đi, và một cầu thang mới được xây bên cạnh phòng làm việc của bố cô. Căn hộ vẫn còn ở đó, nhưng bố cô rất ít khi sử dụng, chỉ khi thời tiết quá xấu không thể về nhà hoặc khi ông đột xuất phải ở lại làm việc muộn.
Marojrie đang ngồi bên bàn làm việc, những ngón tay bà bấm liên tục trên bàn phím máy tính, những cuốn sổ cái trải khắp mặt bàn. “Frank O’Halloran sẽ nghỉ việc,” Kate lên tiếng. “Cô vui lòng tính thêm hai tháng lương cộng vào bảng thanh toán của chú ấy nhé?”
Mái tóc xám của người thủ quỹ ngẩng lên. “Cháu để cho Frank nghỉ việc ư?”
“Cháu làm sao ngăn chú ấy được?” Kate vặn lại, móng tay cô bấm sâu vào lòng bàn tay.
“Ta không biết. Ta đoán có thể cháu sẽ có ý kiến về việc đó.”
“Cháu có luôn ý kiến đây,” Kate bật lại.
“Là gì, Kate?”
“Chúng ta nên sử dụng máy tính quản lý tổng tiền xuất – nhập. Những cuốn sổ cái này cỗ lỗ sĩ như là…”
“Như ta?” Marjorie mỉa mai gợi ý.
“Cháu không có ý đó, Marjorie.”
“Chúng ta đã quản lý bằng máy rồi,” Marjorie trả lời, cảm thấy thương hại Kate. “Những đơn hàng thực phẩm, phiếu đặt bàn, mọi thứ. Cháu không để tâm thấy à?”
“Đương nhiên cháu có!” Kate cãi lại, hòan tòan kiệt quệ sau khi ở lại đó chưa đầy nửa tiếng đồng hồ.”Cháu đang nói về những cuốn sổ cái mà cô đang dùng. Tại sao các dữ liệu đó lại không có trên máy tính?”
“Hẳn rồi. Bố cháu thích sự chắc chắn được theo dõi mọi thứ bằng phương thức mà chúng ta trước giờ vẫn dùng, vì thế ta chuyển những dữ liệu chính xác từ sổ cái khỏi máy tính.” Bà mong đợi Kate nói gì đó, và khi Kate im lặng thì bà ném cái nhìn chăm chú của mình vào cái máy tính nhỏ và bắt đầu nhập các con số. “Kate,” bà lên tiếng mà không hề nhìn lên, “cháu không thực sự để tâm vào việc quản lý nhà hàng này. Cháu nên nghĩ đến chuyện sang nhượng nó.”
Đau đớn đến tận tâm can, Kate câm lặng rút lui khỏi căn phòng, vì cô đã mất niềm tin vào bản thân mình. Vài tháng trước đây – trước Mitchell Wyatt – cô có đủ niềm tin vào óc phán đoán của mình để dành được một chỗ đứng chắc chắn trong căn bếp này cùng với Louis, với Frank và với Marjorie. Nhưng không phải lúc này. Giờ cô đã đánh mất niềm tin vào chính bản thân mình, và trên tất cả, những người khác cũng đang mất niềm tin nơi cô.
Chính vì Mitchell Wyatt, và chính vì đứa bé của anh ta trong bụng cô, những xúc cảm nguyên sơ và những phán quyết thiếu kiên định của cô đã giảm sút đến kiện quệ. Tồi tệ hơn nữa, cô không tài nào nghĩ về đứa bé cô đang mang mà lại không liên tưởng ngay đến mình đã ngu ngốc khờ dại đến thế nào với bố nó. Hàng tuần lễ, cô cứ mãi mong chờ cảm nhận được một kết nối nào đó với đứa bé này, nhưng điều đó không hề xảy ra, và cô đang bắt đầu sợ rằng những cảm xúc của mình về Mitchell sẽ ngăn cản tình thương của cô dành cho đứa bé.
Kate ngồi xuống sau bàn làm việc của bố cô và đối diện với thực tế rằng mọi thứ cỏ lẽ còn tệ hơn nữa, chứ không hề tốt lên, trừ phi cô tìm ra một giải pháp kiên quyết nào đó, và hòa hoãn, về những gì Mitchell đã làm với cô. Cô phải tha thứ cho anh, và sau đó tha thứ cho bản thân mình vì đã sa ngã trước anh. Một khi làm thế, cô sẽ có thể bỏ mọi xúc cảm khó chịu về phía sau và hướng tới một tương lai trước mặt.
Để tha thứ và quên đi, trước hết cô cần phải hiểu được anh đã nghĩ thế nào và chuyện gì đã xảy đến với anh làm cho anh trở nên quá nhẫn tâm và căm hận đến vậy.
Chống lòng bàn tay lên cằm, Kate cân nhắc làm thế nào để tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc của cô….
Cả Caroline và Cecil Wyatt đều sẽ không sẵn lòng trao đổi những việc liên quan đến anh đằng sau lưng anh. Mathew Farrell và Meredith Bancroft thân thiết với anh, nhưng Meredith đã chứng kiến cuộc đối đầu của cô với Mitchell tại bữa tiệc gây quỹ của Bệnh viện Trẻ em, và sau đó, cô ta đã nhìn Kate như thể cô chẳng còn tồn tại trên cõi đời này nữa. Ở Anguilla, Evan có cho cô biết về tuổi thơ của Mitchell đủ khiến cho cô cảm thấy khiếp sợ, nhưng Evan sẽ không nói bất cứ điều gì với Kate nữa…
Trong tâm trí cô, hình ảnh Gray Elliott lật giở mấy tập tài liệu đặt trên bàn anh ta và mang chúng qua bàn cà phê nơi Holly và cô ngồi đột nhiên xuất hiện. Những tập tài liệu đó chỉ chứa những tấm ảnh, song còn nhiều tài liệu hơn nữa được để lại trên bàn anh ta.
Cảm thấy quyết tâm và lạc quan hơn nhiều so với vài tháng qua, cô rút cuốn danh bạ điện thoại từ trong ngăn kéo bàn làm việc.
Sau một khoảng thời gian chờ đợi khá dài, Gray Elliot nhận cuộc gọi. “Cô Donovan?” Anh ta lên tiếng, giọng nhanh nhẹn nhưng tỏ chút hiếu kì. “Thư ký của tôi bảo cô cần thảo luận với tôi về một vấn đề cấp bách.”
“Vâng,” Kate nói dứt khoát, “nhưng chuyện này phải gặp riêng.”
“Tôi đã lên lịch hẹn với vài…. ”
“Sẽ chỉ mất vài phút đồng hồ thôi, thật sự rất khẩn cấp – và rất quan trọng.”
Anh ngập ngừng, còn Kate gần như hình dung được anh đang đưa mắt nhìn vào cuốn lịch làm việc. “Sáng mai lúc 12: 50 được không? Tôi sẽ gặp cô trước bữa trưa.”
“Tôi sẽ ở đó,” Kate nói. “Cảm ơn ông “