Xúc Xắc Tình Yêu

Chương 3



Sáng hôm sau, khi thức dậy, cô gái ung dung uống cốc sữa lắc đã biến mất, đành đầu hàng cảm giác tội lỗi và ba mươi năm sống theo nguyên tắc. Tôi không thể tiếp tục cố gắng tìm một lời giải thích phù hợp cho điều mình làm được nữa. Tôi đã làm một việc sai trái với người bạn mà chẳng thể nói ra, đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của tình chị em. Chẳng có lời biện hộ nào cho việc đó hết.

Vậy thì theo kế hoạch B: Tôi sẽ giả vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra. Hành vi vượt quá mức đạo đức cho phép của tôi nghiêm trọng đến nỗi tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chỉ biết cầu mong toàn bộ chuyện này sẽ qua đi. Và bằng cách tiếp tục làm việc như bình thường, những việc hàng ngày vào mỗi buổi sáng thứ Hai, đó sẽ là mục tiêu tôi muốn hoàn thành.

Tôi tắm gội, sấy tóc, khoác lên mình bộ vest đen thoải mái nhất, đi đôi giày gót thấp, bắt tàu điện ngầm đến nhà ga Trung tâm, mua café ở quán Starbucks, chọn tờ The New York Times ở quầy báo, đi hai lượt cầu thang cuốn, một lượt thang máy lên văn phòng của mình ở tòa nhà Merlife. Mỗi phần trong công việc hàng ngày tôi vẫn làm tượng trưng cho một bước xa dần Dex và Sự Cố đó.

Tôi đến văn phòng lúc tám giờ hai mươi, quá sớm so với giờ giấc yêu cầu của công ty luật. Những hành lang thật vắng lặng, Thậm chí ngay cả các thư ký cũng chưa có mặt. Tôi đang lật sang phần đề cập đến những tin tức, sự kiện ở New York trên tờ báo, nhấm một ngụm café thì nhận thấy đèn đỏ nhấp nháy trên máy điện thoại báo có tin nhắn – lúc nào cũng là một lời cảnh báo cho thấy nhiều việc hơn nữa đang chờ tôi. Một anh chàng đáng ghét nào đó chắc chắn đã gọi cho tôi vào cuối tuần khi tôi không kiểm t được. Tiềc bạc của tôi phụ thuộc vào Les, gã đàn ông quan trong trong cuộc đời tôi, tên đồng nghiệp đáng ghét nhất trong số sáu tầng chứa toàn những kẻ đáng ghét như vậy. Tôi nhập mật khẩu, chờ đợi…

“Bạn có một tin nhắn mới của một người ngoài công ty. Tin nhắn đến vào lúc bảy giờ bốn mươi hai phúc sáng nay…” giọng nói ghi âm thông báo. Tôi ghét cả người phụ nữ trả lời tự động đó. Cô ta chỉ toàn mang lại tin xấu và thông báo bằng cái giọng vui tươi hớn hở. Bọn họ nên chỉnh lại cái giọng ghi âm đó trong các công ty luật đi thôi, sao cho nghe ủ ê hơn, “Ừ-ờ” – nói trên nền nhạc báo hiệu điềm xấu của phin Jaws – “bạn có bốn tin nhắn mới…”

Lần này thì là gì không biết? tôi nhủ thầm khi nhấn nút nghe

“Chào Rachel… Là tôi… Dex đây… Ngày hôm qua tôi đã định gọi cho cô để nói về chuyện tối hôm thứ Bảy, nhưng mà … tôi không thể. Tôi nghĩ chúng ta nên nói chuyện đó, cô thấy sao? Cứ gọi tôi khi nào cô có thể nhé. Cà ngày hôm nay tôi sẽ chờ.”

Tim tôi chùng xuống. Sao anh ta không chịu chấp nhận cách né trách cũ rích mà có lợi, lờ nó đi, không bao giờ nhắc lại chuyện đó nữa? Tôi định sẽ làm thế mà. Chả trách tôi lại ghét công việc của mình; tôi là một luật sư ghét phải đối chất. Tôi cần cây bút lên, gõ vào mép bàn. Trong đầu tôi nghe thấy tiếng mẹ bảo không được gõ bút. Tôi bèn đặt chiếc bút xuống, mắt nhìn chằm chằm vào ánh sáng đang nhấp nháy. Người phụ nữ đó yêu cầu tôi phải quyết định xem phải làm gì với tin nhắn này – tôi phải nghe lại, lưu vào máy, hoặc là xóa đi.

Anh ta muốn nói gì mới được chứ? Có gì để mà nói đâu nào? Tôi ấn nút nghe lại, chờ đợi những câu trả lời đến với mình khi nghe ngữ điệu giọng nói của anh ta. Nhưng anh ta chẳng tiết lộ cho tôi điều gì hết. Tôi cứ nghe đi nghe lại cho đến khi giọng nói bắt đầu trở nên méo mó, giống như một từ bỗng thay đổi khi bạn lặp lại từ đó nhiều lần. Trứng, trứng, trứng, trứng. Đó từng là món tôi ưa thích. Tôi cứ nói đi nói lại mãi cho đến khi dường như là tôi đã gọi cái món vàng vàng định ăn sáng đó bằng một từ sai hoàn toàn.

Tôi nghe Dex nói thêm một lần cuối cùng trước khi xóa tin nhắn của anh ta. Giọng anh ta nghe hoàn toàn khác. Điều đó cũng hợp lý, bởi xét về vài mặt nào đó thì anh ta là người khác biệt. Cả hai chúng tôi đều thế. Vì cho dù tôi có cố không nghĩ đến chuyện đã xảy ra, cho dù Dex bỏ qua Sự Cố đó sau một cú điện thoại ngượng nghịu qua l chúng tôi vẫn sẽ mãi nằm trong Danh sách của nhau – cái danh sách ai ai cũng có, dù được ghi lại trong một cuốn sổ gáy xoắn bí mật hay khắc vào tâm khảm. Dù nó có ngắn hay dài. Dù có xếp theo trình tự xuất hiện hay theo mức độ quan trọng. Dù có đủ cả họ, tên và tên đệm hay chỉ là vài dòng miêu tả ngoại hình, như cái Danh sách của Darcy: “Delta Sig với cơ bả vai đẹp chết người…”

Dex nằm trong Danh sách điều tốt đẹp của tôi. Đột nhiên tôi vô tình nhớ lại lúc chúng tôi trên giường với nhau. Trong những khoảnh khắc ngắn ngủi đó, anh ta chỉ là Dex thôi – chẳng có liên quan gì tới Darcy cả. Đã từ rất lâu rồi, anh ta không còn là người như vậy. Anh ta không còn như thế kể từ cái ngày tôi giới thiệu hai người bọn họ với nhau.

Tôi gặp Dex khi học năm thứ nhất ở trường luật của Đại Học New York. Khác với phần lớn sinh viên luật, những người sau khi học xong đại học thì học tiếp luôn khi không nghĩ được việc gì khá khẩm hơn để làm với tờ bảng điểm đại học thuộc hạng xuất sắc trong tay, Dex Thaler già dặn hơn, nhiều kinh nghiệm sống hơn. Trước đó anh ta làm công việc phân tích nghiên cứu cho công ty Goldman Sachs, hất luôn cơ hội thực tập hè tám tiếng mỗi ngày và công việc văn phòng trực điện thoại kiêm ghi sổ sách của tôi. Anh ta tự tin, điềm đạm và đẹp trai đến mức không nhìn anh ta chằm chằm cũng là việc khó. Tôi tin chắc rồi anh ta cũng sẽ trở thành Doug Jackson và Blaine Conner của trường luật cho xem. Đúng như thế thật, chúng tôi mới chỉ bước vào tuần học đầu tiên thì những lời bàn tán về Dexter bắt đầu rộn lên, phụ nữ dòm ngó tình trạng yêu đương của anh ta, để ý xem ngón áp út bên tay trái của anh ta đeo gì chưa, hoặc là lo lắng rằng anh ta ăn mặc quá đàng hoàng, quá đẹp trai, không thể là đàn ông trăm phần trăm được.

Nhưng tôi thẳng thừng loại Dex luôn, thuyết phục bản thân mình rằng vẻ ngoài hoàn hảo của anh ta chán chết. May là tôi đã có quan điểm như vậy, vì tôi cũng biết anh ta quá tầm với của mình rồi. (Tôi ghét kiểu nói đó, ghét cả điều mà ai cũng nghĩ, rằng người ta chọn người yêu toàn dựa vào hình thức bên ngoài là chính, nhưng khi nhìn quanh thì thấy cũng khó mà chối bỏ được nguyên tắc đó – những người yêu nhau nói chung thường giống nhau về mức độ hấp dẫn, nếu không như vậy thì điều đó đáng phải chú ý). Vả lại, tôi đi vay ba ngàn đô la mỗi năm có phải để tìm được một anh bạn trai đâu.

Trên thực tế, có lẽ tôi đã trải qua ba năm học mà không nói chuyện với anh ta, nhưng chúng tôi ngẫu nhiên lại ngồi cạnh nhau trong lớo học môn Luật Bồi thường, lớp học ngồi theo sơ đồ do giáo sư Zigman hay mỉa mai giảng dạy. Cho dù ở trường đại học New York nhiều giáo sư sử dụng phương pháp Socratic 1, nhưng chỉ có mỗi Zigman dùng phương pháp đó như công cụ để tra tấn, làm mất mặt sinh viên. Dex và tôi có chung nỗi ghét bỏ ông giáo sư xấu tính đó. Tôi sợ ông Zigman cùng cực đến phi lý, trong khi đó, phản ứng của Dexter giống với ghét cay ghét đắng hơn. “Đúng là một lão khốn,” anh ta gầm lên sau giờ học, thường là sau khi ông Zigman khiến cho một đứa bạn cùng lớp phát khóc. “Tôi chỉ muốn phủi sạch nụ cười khinh khỉnh trên cái mặt vênh váo của lão thôi.”

Dần dần, những lần cằn nhằn đó chuyển thành những cuộc nói chuyện dài hơi hơn bên cốc café ở phòng chung dành cho sinh viên hay trong những lần dạo chơi trong công viên Quảng trường Washington. Chúng tôi bắt đầu cùng nhau học trước giờ lên lớp, chuẩn bị cho điều không thể tránh được – cái ngày ông Zigman sẽ gọi bọn tôi. Tôi sợ đến lượt mình, tôi biết đó sẽ là một cuộc thảm sát đẫm máu, nhưng cũng âm thầm bí mật háo hức ngóng đến lúc Dex bị gọi. Ông Zigman nhằm vào những con mồi có vẻ yếu đuối, rối loạn, mà Dex thì không thuộc hai dạng ấy. Tôi tin chắc rằng anh ta sẽ không chịu thua một cách dễ dàng đâu.

Tôi nhớ rất rõ lần đó. Ông Zigman đứng đằng sau bục giáo viên, kiểm tra hồ sơ chỗ ngồi, một cái hồ sơ trên đó dán ảnh mặt bọn tôi cắt ra từ danh sách ảnh của năm thứ nhất, gần như chảy cả nước miếng khi chọn con mồi. Ông ta ngước mắt dòm qua cặp kính nhỏ, tròn tròn (kiểu đó gọi là mục kỉnh thì hơn), nhìn bao quát về phía chúng tôi, và nói, “Cậu Thaler”

Ông ta phát âm sai tên của Dex, khiến nó nghe giống như là “taller” vậy.

“Là Thaa-ler ạ,” Dex nói một cách thản nhiên, không hề tỏ ra sợ hãi.

Tôi hít vào một hơi thật sâu; chưa bao giờ có ai chỉnh lại lời ông Zigman. Dex thực sự sắp biết tay rồi đây.

“Vậy thì xin lỗi, cậu Thaa-ler” ông Zigman nói, khẽ cúi đầu giả tạo. ‘Vụ Palsgraf kiện Công ty đường sắt Long Island”

Dex ngồi bình thản, sách gập lại, trong khi những đứa còn lại trong lớp lo lắng lật giở vụ án mà tối hôm trước bọn tôi phải đọc.

Vụ án liên quan đến một tai nạn đường sắt. Trong khi vội v�àu, một nhân viên đường sắt khiến cho một hành khách làm rơi gói thuốc nổ, làm một hành khách khác bị thương, đó là bà Palsgraf. Thẩm phám Cardozo viết ý kiến đại diện cho đa số, tuyên bố rằng bà Palsgraf không phải là “nguyên đơn có thể dự đoán trước được”, và như thế không thể đòi công ty đường sắt bồi thường được. Có thể những nhân viên đường sắt lẽ ra nên thấy trước được tổn hại đối với người cầm cái gói đó, chứ không phải tổn hại đối với bà Palsgraf, tòa án nói như vậy.

“Có nên cho nguyên đơn nhận tiền bồi thường không?” ông Zigman hỏi Dex.

Dex không nói gì cả. Trong một giây ngắn ngủi, tôi phát sợ, tưởng là anh ta chết cứng như những người đi trước rồi. Nói ‘không’ đi, tôi thầm nghĩ, truyền cho anh ta những đợt sóng điện não mạnh mẽ. Đồng ý với phán quyết của đa số ấy. Nhưng khi nhìn nét mặt anh ta và cái cách anh ta khoanh tay trước ngực thì tôi dám nói là anh ta đang kéo dài thời gian, khác hẳn với cách của phần lớn bọn sinh viên năm thứ nhát: tuôn ra những câu trả lời nhanh, đầy lo lắng và không vững vàng như thể thời gian phản ứng có thể bù đắp lại cho vốn hiểu biết vậy.

“Theo ý kiến riêng của em ấy ạ?” Dex hỏi.

“Tôi đang trực tiếp nói với cậu, cậu Thaler ạ. Thế nên, đúng, tôi hỏi ý kiến của cậu”.

“Là em thì em sẽ đồng ý, nguyên đơn nên được nhận tiền bồi thường. Em đồng ý với ý kiến phản bác của thẩm phán Andrews.”

“Ôôôô, thật vậy sao?” giọng ông Zigman cao vút, là giọng mũi.

‘Vâng. Đúng vậy”

Tôi lấy làm ngạc nhiên trước câu trả lời của anh ta, vì anh ta đã nói với tôi ngay trước khi vào lớp rằng anh ta không hề biết loại thuốc kích thích crack-cocaine xuất hiện từ năm 1928, nhưng ông thẩm phán chắc chắn đã hút thứ thuốc đó khi ông ta viết ý kiến phản bác. Tôi thậm chí còn ngạc nhiên hơn khi cái câu “đúng vậy” xấc xược của Dexter thêm vào cuối câu trả lời, như thể để giễu ông Zigman.

Bộ ngực gầy giơ xương của ông Zigman phồng lên thấy rõ. “Vậy cậu cho rằng người ta bảo vệ lẽ ra phải dự đoán trước đó được là cái gói vô hại dài gần bốn mươi phân, bọc bằng giấy báo đó có chứa thuốc nổ và sẽ khiến cho nguyên đơn bị thương:”

“Chắc chắn cũng có khả năng đó.”

“Anh ta cũng nên thấy trước rằng cái gói đó có thể làm bị thương bất kỳ ai trên thế giới này?” ông Zigman hỏi, sự chế giễu ngày càng tăng.

“Em không nói bất kỳ ai trên thế giới này, mà em nói đúng là ‘nguyên đơn’. Theo ý kiến của em, bà Palsgraf có nằm trong vùng nguy hiểm.”

Ông Zigman tiến lại gần hàng ghế bọn tôi ngồi, người đứng thẳng và ném tờ báo Wall Street Journal lên cuốn sách gấp của Dex.

“Trả lại tôi tờ báo được không?”

“Em không muốn” Dex nói.

Cơn sốc trong lớp nổi lên thấy rõ. Những đứa còn lại trong số chúng tôi chắc sẽ chỉ làm theo và trả lại tờ báo, vật đó chỉ là thứ đạo cụ trong câu hỏi của ông Zigman mà thôi.

“Cậu không muốn?” ông Zigman ngẩng cao đầu lên.

“Đúng vậy. Bên trong đó có thể giấu thuốc nổ lắm chứ.”

Một nửa lớp há hốc miệng, nửa còn lại thì cười khẩy. Rõ ràng ông Zigman có vài chiêu bí mật, một cách để lật lại Dex. Nhưng Dex đã không bị rơi vào bẫy. Ông Zigman bực bội thấy rõ.

“Cứ giả sử là cậu có đồng ý trả lại tờ báo cho tôi, và trong đó đúng là có một thanh thuốc nổ, và nó làm cho cậu bị thương thật. Thế thì sao, cậu Thaler?”

“Thế thì em sẽ kiện thầy, và rất có thể em sẽ thắng.”

“Vậy khoản tiền bồi thường đó có giống với lý do thẩm phán Cordozo đưa ra trong phán quyết của bên đa số không?”

“Không. Không giống”.

” thế à? Sao lại không?”

“Vì em kiện thầy vì tội cố ý gây thương tích, còn ông Cardozo thì nói về tội bất cẩn, đúng vậy không ạ?” Dex lên giọng cho hợp với giọng ông Zigman.

Tôi nghĩ là mình nín cả thở lúc ông ấn hai lòng bàn tay vào nhau, đưa lại gần ngực một cách ngay nhắn như thể ông ta đang cầu nguyện vậy. “Tôi hỏi những câu này với cả lớp. Như thế được chứ, cậu Thaler?”

Dex nhún vai như thể nói rằng: thầy cứ việc, chẳng ảnh hưởng gì đến em.

“Vậy, giả sử rằng tôi vô tình làm rơi tờ báo xuống bàn cậu, cậu đem trả lại và bị thương. Vậy ông Cardozo có cho cậu hưởng đầy đủ khoản bồi thường không?”

“Chắc chắn rồi.”

“Tại sao?”

Dex thở dài chỉ để thấy rằng bài này đã khiến anh ta phát chán, rồi nói nhanh và rõ ràng, “Bởi vì hoàn toàn có thể dự đoán trước được chất nổ đó sẽ làm em bị thương. Việc thầy làm rơi tờ báo có chứa chất nổ vào không gian cá nhân của em đã vi phạm quyền được bảo vệ về mặt luật pháp. Hành động bất cẩn của thầy gây ra một mối nguy hiểm dễ thấy, xét theo mức độ cẩn trọng thông thường.”

Tôi đọc những phần đã đánh dấu trong sách mình. Dex đã trích dẫn nguyên văn phần nói về ý kiến của ông Cardozo mà chẳng cần liếc vào sách hay mẩu giấy nào. Cả lớp hoàn toàn bị thu hút – chưa ai làm tốt được như thế, và chắc chắc lại càng không khi có ông Zigman đang đứng lù lù trước mặt..

“Và nếu cô Myers khởi kiện,” ông Zigman nói, trỏ vào Julie Myers đang run rẩy ngồi ở phía bên kia lớp, nạn nhân của ông ta ngày hôm trước. “Cô ấy có được nhận tiền bồi thường không?”

“Xét theo tuyên bố của ông Cardozo hay theo lời phản bác của thẩm phán Andrews ạ?”

“Theo Andrews. Vì đó là ý kiến của cậu mà.”

“Có ạ. Trước toàn thể thế giới này, mỗi người đều có trách nhiệm kiềm chế những hành động đe dọa một cách vô lý đến sự an toàn của những người khác,” Dex nói, lại một câu trích dẫn ngay trong lời phản bác.

Chuyện cứ thế tiếp tục trong suốt thời gian còn lại, Dex phân biệt những điểm nhỏ nhặt trong sự việc đã bị thay đổi, không hề nao núng, luôn luôn trả lời một cách quyết đoán.

Và đến cuối giờ, ông Zigman thực sự đã nói, “Rất tốt, cậu Thaler.”

Đó là chuyện lần đầu tiên xảy ra.

Tôi rời lớp học, cảm thấy thật sung sướng. Dex đã giành lại thắng lợi cho tất cả chúng tôi. Câu chuyện lan ra khắp trong bọn sinh viên năm thứ nhất, kiếm cho anh ta thêm nhiều điểm nữa trong mắt bọn con gái, những người từ lâu rồi đã tin chắc rằng anh ta vẫn chưa có một ai cả.

Tôi cũng đã kể cho Darcy nghe chuyện đó. Cô ấy chuyển đến New York gần như cùng lúc với tôi, chỉ có điều, trong hoàn cảnh khác một trời một vực. Tôi đến đó để học làm luật sư; cô ấy đến mà chẳng có nghề ngỗng, chẳng có kế hoạch hay tiền bạc rủng rỉnh. Tôi để cho cô ấy ngủ trên chiếc đệm gấp trong phòng mình ở ký túc xá cho đến khi cô ấy tìm được vài người khác ở chung – đó là ba nữ tiếp viên của hãng hàng không American Airlines đang tìm thêm một người nữa ở cùng trong căn phòng nhỏ ngăn ra để ở. Cô ấy vay tiền bố mẹ để thuê nhà trong khi tìm việc làm, cuối cùng cũng kiếm được một chân Bartender ở quán bar Monkey. Trong suốt những năm chúng tôi làm bạn, đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống của mình trong khi so sánh với cô ấy. Tôi thì cũng nghèo, như cô ấy thôi, nhưng ít ra thì tôi còn có một kế hoạch. Viễn cảnh tương lai của Darcy xem ra chẳng mấy tươi đẹp khi điểm trung bình chung toàn khóa học của cô ấy ở Đại Học Indiana chỉ có 2,9, hạng trung bình khá.

“Cậu may mắn thật đấy,” Darcy rên rỉ trong lúc tôi đang cố gắng học.

Không, may mắn toàn là của cậu hết rồi, tôi thầm nghĩ. May mắn là khi mua vé số rồi reo lên sung sướng khi đã trúng và trở nên giàu sụ. Đời tôi chẳng có gì gọi là may mắn hết – tất cả đều do làm việc chăm chỉ, do mỗi ngày lại phải cố gắng nhiều hơn thôi. Nhưng dĩ nhiên là tôi không bao giờ nói vậy. Tôi chỉ bảo với cô ấy rằng rồi mọi chuyện sẽ trở nên tươi sáng với cô ấy nha

Và đúng như thế thật. Khoảng hai tuần sau đó, một người đàn ông bước vào quán Monkey với dáng vẻ đĩnh đạc, gọi một cốc rượu whisky chua, và bắt đầu tán tỉnh Darcy. Đến lúc uống xong, ông ta đã kịp hứa sẽ cho cô ấy một việc làm ở một trong những công ty PR hàng đầu ở Mahattan. Ông ta nói cô ấy cứ đến để phỏng vấn, nhưng ông ta (nháy mắt, nháy mắt) đảm bảo rằng cô ấy sẽ được nhận. Darcy cầm danh thiếp của ông ta, nhờ tôi xem hộ bản lý lịch, đi phỏng vấn, và ngay lập tức nhận được lời mời làm việc. Lương khởi điểm của cô ấy là bảy mươi ngàn đôla. Cộng thêm tiền công tác phí nữa. Gần bằng số tiền tôi sẽ kiếm được nếu tôi học hành ở trường cho thật tốt rồi kiếm việc làm trong một công ty ở New York.

Thế là trong khi tôi lo lắng chờ đợi đến lúc học xong, tiền nợ ngày càng tăng thì Darcy bắt đầu công việc PR đầy hấp dẫn. Cô ấy tổ chức tiệc, quảng cáo cho những xu hướng thời trang mới nhất theo mùa, nhận được biết bao nhiêu thứ hoàn toàn miễn phí, và hẹn hò với một loạt các anh chàng đẹp trai. Trong vòng bảy tháng, cô ấy đã bỏ lại những cô tiếp viên kia và chuyển đến sống cùng với con bạn đồng nghiệp Claire ở khu Greenwich, một người hợm hĩnh thích giao du với giới thượng lưu.

Darcy cố lôi kéo tôi vào cuộc sống tốc độ cao của cô ấy, cho dù tôi chẳng mấy khi có thời gian tham dự vào những sự kiện, những bữa tiệc của cô ấy hay những phi vụ hẹn hò cô ấy sắp xếp cho tôi với những anh chàng cô ấy thề là “cực kỳ hấp dẫn” nhưng tôi biết đó chỉ là những kẻ cô ấy không còn thích thú gì nữa.

Điều đó nhắc tôi quay lại chuyện của Dex. Tôi say sưa kể về anh ta cho Darcy và Claire nghe, nói với họ anh ta tuyệt với đến khó tin như thế nào – thông minh, đẹp trai , hài hước. Nghĩ lại lúc đó, tôi chẳng rõ tại sao mình lại làm thế. Môt phần vì đó là sự thật. Nhưng có lẽ do tôi ghen tị với cuộc sống thú vị của họ, và muốn làm cho cuộc sống của mình thêm phần hay ho hơn một chút. Dex là thứ tốt nhất trong kho vũ khí của tôi.

“Thế thì sao cậu lại không thích anh ta?” Darcy hỏi.

“Anh ta không phải típ người mình thích,” tôi đáp. “Bọn mình chỉ là bạn thôi.”

Đó là sự thật. Đúng là cũng có những lúc tôi cảm thấy một chút thích thú thoáng qua hay mạch của mình đập nhanh hơn khi ngồi gần Dex. Nhưng tôi vẫn duy trì cảnh giác để không yêu anh ta, luôn luôn nhắc nhở bản thân rằng những anh chàng như Dex chỉ hẹn hò với những đứa con gái như Darcy mà thôi.

Chưa đến học kỳ tiếp theo thì hai người đó gặp nhau. Một nhóm sinh viên bọn tôi, trong đó có cả Dex, dự định đi chơi bất ngờ vào tối thứ Năm. Darcy cứ đòi gặp Dex bằng được từ nhiều tuần trước, thế là tôi gọi điện bảo cô ấy đến quán Red Lion lúc tám giờ. Cô ấy đến, nhưng Dex thì không. Tôi dám nói là Darcy thấy chuyện đi chơi này rõ là phí cả công, phàn nàn rằng cô ấy không thích quán Red Lion, rằng đã qua cái thời cô ấy ngồi ở những quán bẩn bẩn của dân sinh viên thế này rồi (những quán mà chỉ mới vài tháng ngắn ngủi cách đây thôi cô ấy vẫn vào), rằng ban nhạc chơi dở tệ, chúng tôi có thể đi kiếm nơi nào tử tế hơn không, chỗ nào người ta ăn mặc đàng hoàng đẹp đẽ ấy.

Đúng lúc đó, Dex ung dung bước vào quán, mặc áo khoác da đen và chiếc áo len cashmere rất đẹp màu nâu nhạt. Anh ta tiến thẳng đến chỗ tôi và hôn nhẹ lên má tôi, một điều tôi thấy vẫn chẳng quen – người dân vùng Trung Tây không chào nhau và hôn kiểu như thế. Tôi giới thiệu anh ta với Darcy, và cô ấy bắt đầu khoe vẻ hấp dẫn của mình, cười khúc khích, nghịch tóc và gật đầu mạnh mỗi khi anh ta nói điều gì đó. Dex cũng vui vẻ với cô ấy, nhưng không có vẻ gì là thích thú quá mức, và có một lúc, khi cô ấy nhắc đến tên người đàn ông ở công ty Goldman – Anh có biết người ngày người kia không? – thì thực sự Dex còn như là cố gắng gìm một cái ngáp dài. Anh ta ra về trước tất cả mọi người, vẫy chào tạm biệt với nhóm bạn và nói với Darcy rằng anh ta rất vui vì được gặp cô ấy.

Trong lúc đi bộ về phòng mình, tôi hỏi cô ấy nghĩ gì về anh ta.

“Anh ta dễ thương,” Darcy nói, biểu hiện sự tán thành ở mức thấp nhất. Lời đáp hờ hững của cô ấy khiến tôi khó chịu.

Cô ấy không tung hô khen ngợi anh ta là vì anh ta chưa bị cô ấy làm cho mê hoặc. Darcy mong chờ mình là người được theo đuổi. Và đó cũng là điều tôi trông đợi.

Ngày hôm sau, khi Dex và tôi uống café, tôi chờ anh ta nhắc đến Darcy. Tôi tin chắc anh ta sẽ nhắc thôi, thế nhưng anh ta lại chẳng nói gì. Một phần nhỏ – thôi được rồi, thì một phần lớn – trong tôi thích thú khi nói với Darcy rằng tên cô ấy đã không hề xuất hiện. Lần đầu tiên có người không khao khát được ở bên cô ấy cơ đấy.

Lẽ ra tôi phải biết rõ hơn chứ.

Khoảng một tuần sau, bất thình lình, Dex hỏi tôi là bạn tôi thế nào rồi.

“Bạn nào cơ?” tôi hỏi, giả ngây giả ngô.

“Cô biết mà, cô gái tóc sẫm màu ở quán Red Lion ấy?”

“Ồ. Darcy,” tôi nói. Sau đó đi thẳng luôn vào vấn đề. “Anh muốn có số của cô ấy không?”

“Nếu cô ấy còn độc thân.”

Tối đó, tôi báo tin cho cô ấy biết. Cô ấy mỉm cười e lệ. “Anh ta đúng là dễ thương. Mình sẽ đi chơi với anh ta.”

Hai tuần sau, Dex mới gọi cho cô ấy. Nếu như anh ta cố tình chờ đợi thì chiến lược đó thành công mỹ mãn. Cô ấy sốt sắng quá mức khi anh ta đưa cô ấy đến quán café Union Square. Buổi hẹn đó rõ ràng là tốt đẹp cả, vì sáng hôm sau họ đi ăn bữa nửa buổi ở khu Village. Sau đó chẳng mấy chốc, Darcy và Dex đã thành một cặp.

Lúc đầu, tình cảm của họ không được yên ổn. Tôi biết Darcy luôn thích cãi nhau với những anh bạn trai – chưa đến màn gay cấn thì chưa vui – nhưng tôi coi Dex là người biết điều, bình tĩnh trong những cuộc cãi nhau. Có lẽ đối với những cô gái khác anh ta cũng là người như thế, nhưng Darcy lại lôi kéo anh ta vào cái thế giới hỗn độn với những cảm xúc quá khích của cô ấy. Cô ấy tìm thấy số điện thoại ghi ở một trong mấy quyển vở học luật của anh ấy (cô ấy tự nhận mình là kẻ tọc mạch), tìm hiểu, lần ra một cô bạn gái cũ của Dex, và không chịu nói chuyện với anh ta. Có một ngày Dex đến lớp học Luật Bồi thường với vẻ mặt ngượng ngùng, trên trán có một vết rách, ngay phía trên mắt trái. Darcy đã ném một cái mắc áo làm bằng dây kim loại vào anh ta trong cơn điên vì ghen tuông.

Và còn có cả cách khác nữa. Tất cả bọn tôi đi chơi, Darcy sẽ cư xử thân mật với một anh chàng khác ở quầy bar. Tôi quan sát Dex hờ hững liếc trộm về phía bọn họ cho đến khi không thể chịu đựng được nữa. Anh ta sẽ đến lôi cô ấy đi, vẻ mặt giận dữ nhưng vẫn bình tĩnh, và tôi nghe thấy cô ấy thanh minh về những lời tán tỉnh có liên quan chút ít đến anh chàng kia: “Ý em là, bọn em chỉ đang nói chuyện về em trai của hai đứa và chuyện chúng nhập cùng một hội quái dị thế nào thôi mà. Trời ơi, Dex! Anh đâu cần phải phản ứng quá lên như thế!”

Nhưng cuối cùng thì mối quan hệ giữa họ cũng đi vào ổn định, những lần cãi vả dần ít nghiêm trọng hơn, ít xảy ra hơn, và cô ấy chuyển đến sống ở căn hộ của anh ta. Rồi đến mùa đông năm ngoái, Dex ngỏ lời cầu hôn. Họ đã chọn một ngày cuối tháng Chín, cô ấy chọn tôi làm phù dâu chính.

Mình quen anh ta trước chứ, giờ tôi tự nhủ như vậy. Điều đó cũng không cứng rắn hơn lời bào chữa cho chuyện Ethan là mấy, nhưng tôi cứ bám lấy suy nghĩ ấy trong một lúc. Tôi hình dung ra viên bồi thẩm biết thông cảm với mình, cô ấy rướn người về phía trước trong khi đón nhận ra phát hiện này. Thậm chí cô ấy còn đưa ra một luận điểm trong khi đoàn bồi thẩm đang bàn bạc, cân nhắc kỹ càng. “Nếu không nhờ Rachel thì Dex và Darcy sẽ chẳng bao giờ được gặp nhau. Vậy nên, đúng ra, Rachel xứng đáng có được anh ta một lần.” Những bồi thẩm viên khác nhìn cô ấy chằm chằm đầy nghi hoặc, và cái bà mặc bộ vest Channel bảo cô ấy đừng có ngớ ngẩn như vậy. Điều đó chẳng có liên quan gì hết. “Thực ra, điều đó thậm chí còn có một ý nghĩa khác,” bà mặc vest Channel cự lại. “Rachel đã có cơ hội đến với Dex – nhưng cơ hội đó đã trôi qua từ lâu rồi. Và giờ đây cô ta lại là phù dâu chính. Phù dâu chính cơ đấy! Đúng là một sự phản bội xấu xa không để đâu cho hết!”

Tối đó, tôi làm việc đến khuya, lần lữa việc gọi lại cho Dex. Thậm chí tôi còn cân nhắc định đợi đến sáng mai, đến giữa tuần mà không gọi gì hết. Nhưng càng đợi lâu thì đến lúc tránh không được, phải gặp anh ta, tôi sẽ càng lúng túng ngượng ngùng hơn thôi. Vậy là tôi ép mình ngồi xuống và quay số của anh ta. Tôi hi vọng sẽ được dẫn thẳng đến hộp thư thoại. Lúc đó là mười rưỡi. Nếu tôi gặp may thì anh ta đã về nhà, về với Darcy rồi.

“Dex Thaler nghe,” anh ta nói, giọng hoàn toàn nghiêm chỉnh. Anh ta đã quay lại làm cho công ty Goldman Sachs, sáng suốt lựa chọn làm ngân hàng hơn là làm luật sư. Công việc thú vị hơn, và tiền cũng kiếm được khá hơn nhiều.

“Rachel!” Anh ta nghe có vẻ thực sự vui mừng khi tôi gọi, dù có hơi lo lắng, giọng hơi to quá. “Cảm ơn cô đã gọi. Tôi đã bắt đầu nghĩ là cô sẽ không gọi cơ”.

‘Tôi định gọi cho anh rồi. Chỉ có điều là… tôi thực sự quá bận… Ngày hôm nay thật chẳng ra sao cả”, tôi lắp bắp. Miệng tôi khôác ra.

“Ừ, ở chỗ tôi cũng như dở hơi. Đúng là điển hình của ngày thứ Hai”, anh ta nói, có vẻ bình tĩnh hơn một chút.

“Ừ…”

Tiếp theo là một khoảng lặng ngượng ngùng khó chịu – ừm, đấy là tôi cảm thấy thế. Có phải anh ta chờ đợi mình nhắc đến Sự Cố đó không nhỉ?

“Vậy cô cảm thấy thế nào?” giọng anh ta trở nên nhỏ hơn.

“Tôi cảm thấy thế nào ấy à?” Mặt tôi nóng bừng lên. Mồ hôi vã ra, có khi tôi đến ợ hết món sushi đã ăn lúc tối ra mất thôi.

“Ý tôi là, cô nghĩ sao về hôm thứ Bảy?” giọng anh ta nhỏ hơn nữa, gần như là một lời thì thầm. Có thể đó chỉ là anh ta thận trọng để đảm bảo không ai trong văn phòng nghe thấy, nhưng âm lượng thì nghe như riêng tư thân mật lắm.

“Tôi không hiểu anh đang hỏi gì…”

“Cô có cảm thấy tội lỗi không?”

“Tất nhiên là có rồi. Anh thì không à?” Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm anh đèn ở khu Manhattan, nhìn về hướng văn phòng của anh ta dưới phố.

“Ừm, ừ,” anh ta nói một cách thành thật. “Rõ ràng là chuyện đó không nên xảy ra. Điều này thì không có gì phải bàn cãi. Đó là một việc sai trái… và tôi không muốn cô nghĩ rằng, cô biết đấy, tính cách đặc trưng của tôi là vậy. Từ trước tôi chưa từng lừa dối Darcy. Chưa bao giờ… Cô tin điều đó chứ?”

Tôi bảo rằng tất nhiên là tôi tin anh ta. Tôi muốn tin chứ.

Một khoảng lặng khác.

“Vậy nên, đúng, đó là lần đầu tiên tôi làm như vậy” anh ta nói.

Lại im lặng tiếp. Tôi hình dung ra anh ta ngồi gác chân lên bàn, cổ áo mở cúc, cà vạt vắt qua vai. Anh ta mặc vest trông đẹp lắm. Ừm, anh ta mặc cái gì mà chẳng đẹp, và cả khi không mặc gì nữa.

“Ừm ừ” tôi nói. Tôi đang nắm chiếc điện thoại chặt tới mức những ngón tay đau điếng. Tôi bèn đổi bên, lau lòng bàn tay đẫm mồ hôi vào váy.

“Tôi cảm thấy thật tệ hại khi cô làm bạn với Darcy lâu như thế mà chuyện này lại xảy ra giữa hai chúng ta…. đặt cô vào một tình huống thật tồi tệ”. Anh ta hắng giọng rồi nói tiếp. “Nhưng đồng thời, tôi cũng không biết nữa…”

“Anh không biết gì cơ?” tôi hỏi, đi ngược lại với quyết định tốt hơn hết là kết thúc cuộc nói chuyện, cúp máy, chọn lấy bản năng đánh bài chuồn mà vốn lúc nào cũng có ích cho tôi.

“Tôi không biết. Tôi chỉ… ừm, ở mức độ nào đó… nói một cách khách quan thì, tôi biết việc mình làm là sai. Nhưng tôi không thấy tội lỗi gì cả. Chẳng phải như thế tệ lắm sao?… Cô có nghĩ xấu về tôi không?”

Tôi không biết phải đáp lại câu hỏi này như thế nào. “Có” thì nghe xấu xa quá, cứ như đang phán xét người ta vậy; còn “không” thì có thể lại khơi ra một chuyện khác khó ngăn lại. Tôi thấy an toàn hơn là cứ nói chung chung. “Tôi không có quyền phán xét ai cả, đúng không? Tôi cũng đã ở đó… cũng đã làm mà.”

“Tôi biết, Rachel. Nhưng đó là lỗi của tôi”

Tôi nghĩ đến cái thang máy, đến cảm giác mái tóc anh ta lùa qua những ngón tay mình.

“Lỗi là của cả hai… Cả hai đều say. Chắc chắn là do hai ly rượu – chúng cứ ngấm dần, mà hôm đó tôi lại không ăn gì nhiều”, tôi hói huyên thuyên, hi vọng chúng tôi sắp xong chuyện rồi.

Dex ngắt lời. “Tôi đâu có say đến mức đó”, anh ta nói thẳng, gần như ngang bướng.

Anh không dễ say đến mức đó ư?

Rồi như thể đọc được ý nghĩ của tôi, anh ta nói tiếÝ tôi là, ừ, đúng, tôi có uống một ít – khả năng kiềm chế của tôi chắc chắn là có kém đi – nhưng tôi biết mình đang làm gì chứ, và ở một mức độ nào đó thì, tôi nghĩ là tôi muốn chuyện đó xảy ra. Ừm, chắc nói thế thì rõ ràng quá… Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là tôi nghĩ mình tỉnh táo, muốn chuyện đó xảy ra. Không phải tôi đã lên kế hoạch từ trước. Nhưng trước kia, có nhiều lúc, điều đó đã xuất hiện trong suy nghĩ của tôi rồi…”

Có nhiều lúc? Lúc nào? Ở trường luật à? Trước hay sau khi anh gặp Darcy?

Tôi đột ngột nhớ lại một lần, trước khi có Darcy, khi Dex và tôi đang ôn thi môn Luật Bồi thường ở thư viện. Lúc đó đã muộn và cả hai đều bị ảnh hưởng mạnh bởi những câu chữ trong sách, gần như hưng phấn quá mức vì thiếu ngủ và uống quá nhiều caffeine. Dex bắt đầu bắt chước Zigman, nhại lại những câu nói ưa thích của ông ta, và tôi cười nhiều đến mức bắt đầu chảy nước mắt. Cuối cùng khi tôi bình tĩnh lại, anh ta rướn người qua chiếc bàn hẹp, lấy ngón tay cái lau giọt nước mắt trên mặt tôi. Giống như một cảnh trên phim vậy, chỉ khác một điều rằng trên đó toàn là những giọt nước mắt buồn. Mắt chúng tôi dán chặt vào nhau.

Tôi quay mặt đi trước, lại nhìn vào sách, những con chữ nhảy nhót lung tung trên trang giấy. Có cố gắng thế nào thì tôi cũng không thể tập trung nổi vào những từ ‘bất cẩn’ hay ‘nguyên nhân gần đúng nhất’. Chỉ có cảm giác ngón tay cái anh ta để lại trên gương mặt tôi mà thôi. Lát sau, Dex đề nghị đi bộ cùng tôi về kí túc xá. Tôi lịch sự từ chối, nói với anh ta rằng tôi tự đi một mình được rồi. Đêm đó khi đang chìm vào giấc ngủ, tôi quyết định rằng ý định ấy của anh ta chỉ là do tôi cố tưởng tượng ra, rằng Dex không bao giờ quan tâm đến tôi hơn mức một người bạn đâu. Anh ta chỉ tỏ ra tử tế thôi.

Thế nhưng, đôi khi tôi lại băn khoăn tự hỏi, liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình không quá dè chừng như thế, nếu tối đó tôi nói đồng ý lời đề nghị của anh ta. Giờ đây tôi lại càng băn khoăn hơn nữa.

Dex vẫn tiếp tục nói. “Tất nhiên, tôi hiểu rõ rằng chuyện đó không thể lặp lại một lần nào nữa”, anh ta nói chắc chắn. “Phải vậy không?” Những từ cuối cùng là những từ chân thành nhất, gần như yếu đuối.

“Phải. Không bao giờ”, tôi nói, để rồi ngay lập tức lại hối hận về những từ ngữ ngớ ngấn trẻ con của mình. “Đó là một sai lầ

“Nhưng tôi không hối hận. Lẽ ra tôi nên thế, nhưng tôi không cảm thấy như vậy”, anh ta nói.

Thật là kì lạ, tôi thầm nghĩ, nhưng không nói gì cả. Tôi chỉ ngồi thần ra đó, chờ anh ta nói tiếp.

“Dù sao thì, Rachel, tôi xin lỗi đã đặt cô vào tình huống này. Nhưng tôi nghĩ là cô nên biết tôi cảm thấy thế nào”, anh ta nói nốt, rồi bật cười lo lắng.

Tôi nói không sao, rằng giờ tôi biết rồi, có lẽ chúng ta nên tiếp tục cuộc sống và để mọi chuyện lại phía sau, rồi nói tất cả những điều khác nữa, những điều tôi nghĩ Dex gọi để nói với tôi. Chúng tôi chào tạm biệt, sau đó tôi cúp máy rồi nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ trong tâm trạng rối bời. Cuộc gọi mà lẽ ra là để kết thúc thì lại chỉ dẫn đến nhiều lo lắng bứt rứt hơn. Và trong tôi bắt đầu có cảm giác nhỏ xíu, cảm giác tôi kiên quyết dẹp bỏ nó.

Tôi đứng dậy, tắt đèn trong văn phòng, đi bộ ra ga tàu điện ngầm, cố gắng gạt Dex ra khỏi tâm trí. Nhưng trong lúc đợi tàu trên sân ga, đầu óc tôi lại nhớ đến nụ hôn của hai đứa lúc ở trong thang máy. Cảm giác về mái tóc của anh ta, và trông anh ta ra sao lúc nằm ngủ trên giường của tôi, tấm chăn đắp nửa người. Đó là những hình ảnh tôi nhớ nhất. Chúng giống như ảnh của những anh bạn trai cũ, những tấm ảnh bạn muốn ném đi đến cùng cực, nhưng lại không đành lòng vứt bỏ. Vậy nên, thay vào đó, bạn cất chúng trong một góc chiếc hộp đựng giày cũ, để ở phía trong cùng của tủ, nghĩ rằng giữ lại những bức ảnh đó đâu có sao. Chỉ là có thể một lúc nào đó bạn muốn mở chiếc hộp ấy ra và nhớ lại vài kỷ niệm hạnh phúc.

— —— —— —— ——-

1 Phương pháp Socratic, được đặt theo tên một triết gia Hy Lạp cổ đại, là phương pháp loại bỏ các giả thuyết tốt hơn bằng cách từng bước xác định và loại bỏ các giả thuyết dẫn tới mâu thuẫn.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.