Tôi đang trôi nổi trong bóng tối của Perry. Tôi đang chìm sâu trong lòng đất. Đâu đó xa tít bên trên tôi là rễ cây, giun, và một nghĩa địa đảo ngược nơi các quan tài đánh dấu mộ phần còn các tấm bia lại bị chôn chặt xuống một khoảng không xanh biếc, che kín mọi cái tên và mọi văn bia đẹp đẽ, để tôi lại với nơi thối rữa này.
Tôi cảm thấy mặt đất quanh mình động đậy. Một bàn tay thò ra túm lấy vai tôi.
“Xin chào, thây ma.”
* * *
Chúng tôi đang ở trong chiếc 747. Đồng đồ lưu niệm của tôi đã được phân loại và xếp đặt thành từng hàng gọn ghẽ. Lối đi giữa hàng ghế được trải những tấm thảm phương Đông mềm mại. Chiếc máy quay đĩa đang khe khẽ phát ra giọng hát của Dean Martin.
“Perry?”
Gã ngồi trong khoang lái, trong ghế phi công, hai tay đặt lên bộ điều khiển. Gã đang mặc bộ đồng phục của phi công, chiếc áo sơ mi trắng loang máu. Gã mỉm cười với tôi, rồi chỉ vào cửa sổ, nơi những mảng mây đang lướt qua. “Chúng ta đã lên đến đủ độ cao. Bạn có thể đi lại trong khoang.”
Một cách chậm rãi, thận trọng, tôi đứng dậy và đi vào khoang lái với gã. Tôi lo ngại nhìn gã. Gã toét miệng cười. Tôi đưa ngón tay quệt lớp bụi quen thuộc bám trên bảng điều khiển. “Đây không phải là ký ức của cậu, phải không?”
“Không. Đây là ký ức của anh. Tôi muốn anh thoải mái.”
“Có phải tôi đang đứng trên mộ của cậu không?”
Gã nhún vai. “Chắc vậy. Tôi nghĩ trong đó chỉ có cái sọ rỗng của tôi thôi. Anh và bạn bè đã đem phần lớn xác tôi về nhà để ăn dần, nhớ không?”
Tôi mở miệng ra định xin lỗi lần nữa, nhưng gã nhắm mắt lại và gạt tôi đi. “Đừng, xin anh đấy. Chúng ta đã qua tất cả chuyện đó rồi. Hơn nữa, không hẳn là anh đã giết tôi, mà là giết Perry già hơn – khôn ngoan hơn. Tôi nghĩ giờ anh đang nói chuyện với Perry – học cấp hai, còn trẻ và lạc quan và đang viết một cuốn tiểu thuyết tên là Ma đấu Người Sói. Giờ tôi không muốn nghĩ đến chuyện chết.”
Tôi băn khoăn liếc nhìn gã. “Cậu có vẻ vui hơn nhiều so với trong ký ức của cậu.”
“Ở đây tôi có tầm nhìn xa hơn. Khó mà coi trọng cuộc sống của mình đến thế khi ta có thể thấy nó một cách toàn bộ.”
Tôi chăm chú ngắm gã. Trông gã rất giống thực, đủ cả trứng cá và các thứ. “Cậu… có phải là cậu thật không đấy?” tôi hỏi.
“Anh hỏi thế là thế nào?”
“Những lúc tôi nói chuyện với cậu từ trước đến giờ, có phải cậu chỉ là… những gì còn sót lại trong não của cậu không? Hay đó thật sự là cậu?”
Gã bật cười. “Cái đó thì có quan trọng gì?”
“Cậu là linh hồn của Perry à?”
“Có thể. Cũng gần như thế. Anh muốn gọi là gì cũng được”
“Cậu có lên… Thiên đàng không?”
Gã cười phá lên và kéo chiếc áo đẫm máu. “Ờ, không hẳn đâu. Cho dù tôi là cái gì đi chăng nữa, ‘R’ ạ, thì tôi cũng đang ở trong anh.” Gã lại cười giễu vẻ mặt của tôi. “Nghe kinh nhỉ? Nhưng Già hơn – Khôn ngoan hơn đã rời bỏ cuộc đời này một cách khá đen tối. Có lẽ đây là cơ hội để chúng ta bắt kịp hắn và giải quyết một số chuyện trước khi… anh biết đấy. Trước khi bất kỳ chuyện gì xảy ra tiếp theo.”
Tôi nhìn ra cửa sổ. Không thấy đất liền hay đại dương nào cả, chỉ những rặng núi mây mượt mà trải dài bên dưới và chất cao bên trên chúng tôi. “Ta đang đi đâu đây?”
“Tới bất kỳ nơi nào tiếp theo đây.” Gã ngước nhìn lên trời với vẻ nghiêm trang giễu cợt, rồi lại toét miệng cười. “Anh sẽ giúp tôi tới đó, và tôi sẽ giúp anh.”
Tôi thấy bụng mình thót lại khi chiếc máy bay lao qua những luồng không khí thất thường. “Sao cậu lại muốn giúp tôi? Chính tôi đã giết chết cậu cơ mà.”
“Thôi nào, R, anh vẫn chưa hiểu ra ư?” Gã tỏ ra bực bội vì câu hỏi của tôi. Gã nhìn thẳng vào mắt tôi và tôi thấy trong đó là một vẻ dữ dội nồng nhiệt. “Anh và tôi là nạn nhân của cùng một căn bệnh. Chúng ta đang chiến đấu trong cùng một cuộc chiến, chỉ có điều là tham gia vào các trận đánh khác nhau trên những mặt trận khác nhau mà thôi, và đã quá muộn để tôi tìm lý do ghét anh rồi, bởi vì chúng ta giống nhau. Linh hồn của tôi, lương tâm của anh, cái gì còn lại trong tôi đã được đan cài vào những gì còn lại trong anh, tất cả đã hòa trộn với nhau không thể tách rời được nữa.” Gã vỗ mạnh lên vai tôi đến mức gần như đau. “Chúng ta phải sát cánh bên nhau, thây ma ạ.”
Chiếc máy bay rung lên nhè nhẹ. Cần điều khiển lắc lư trước mặt Perry, nhưng gã lờ nó đi. Tôi không biết phải nói gì, nên tôi đành nói, “Được thôi.”
Gã gật đầu. “Được.”
Sàn máy bay lại khẽ rung lên, như dư chấn của một quả bom mới phát nổ ở xa.
“Thế đấy,” gã nói. “Chúa đã biến chúng ta thành đôi bạn cùng tiến. Chúng ta phải bàn bạc về bài tập của mình thôi.” Gã hít một hơi dài và nhìn tôi, ngón tay gõ gõ lên cằm. “Gần đây tôi đã nghe được rất nhiều ý nghĩ đầy cảm hứng nhảy nhót trong đầu chúng ta. Nhưng tôi không dám chắc là anh thực sự hiểu được cơn bão chúng ta đang bay vào.”
Trong khoang máy bay mấy ngọn đèn đỏ nhấp nháy bật lên. Ngoài máy bay có một tiếng quẹt dài.
“Tôi đang không hiểu cái gì?” tôi hỏi.
“Thử nghĩ chiến lược xem nào. Chúng ta đang lang thang quanh thành phố này như một chú mèo con lạc vào chuồng chó. Anh cứ nói đến chuyện thay đổi thế giới, nhưng anh chỉ biết ngồi đó liếm chân trong khi lũ chó chiến binh đang xáp lại gần. Kế hoạch là gì đây, mèo con?”
Bên ngoài, những đám mây trắng bông đã chuyển sang màu xám sắt. Đèn lập lòe, và đống đồ lưu niệm của tôi khẽ rung lên lạch cạch.
“Tôi chưa có… kế hoạch gì cả.”
“Thế thì bao giờ anh mới chịu nghĩ kế hoạch? Anh đang thay đổi, những Người Chết bạn anh đang thay đổi, thế giới đã sẵn sàng cho một phép mầu rồi. Chúng ta còn đợi gì nữa?”
Máy bay rung mạnh rồi bắt đầu bổ nhào xuống. Tôi loạng choạng ngã vào ghế phi công phụ, cảm thấy tim như đã thọt lên tận cổ. “Tôi không đợi gì cả, tôi đang hành động đấy chứ.”
“Hành động cái gì? Anh đang làm gì?”
“Tôi đang cố.” Tôi nhìn vào mắt Perry và bám chặt hai bên ghế trong khi chiếc máy bay rung lắc, rên rỉ. “Tôi muốn có nó. Tôi đang bắt mình phải quan tâm.”
Mắt Perry nheo lại và miệng gã mím chặt, nhưng gã không nói gì.
“Đó là bước thứ nhất, phải không?” tôi hét át tiếng gió và tiếng động cơ gầm rú. “Đó là nơi mọi sự phải bắt đầu.”
Chiếc máy bay tròng trành và đống đồ lưu niệm của tôi rơi xuống, làm tranh ảnh, phim, đĩa, búp bê và thư tình bay tứ tung. Trong khoang lái, thêm nhiều ngọn đèn nữa lóe sáng, và một giọng nói lách tách vang lên từ bộ đàm.
R? Xin chààààào? Anh ổn chứ?
Mặt Perry đã trở nên lạnh băng, mọi vẻ đùa cợt đã biến mất. “Nhiều điều xấu đang đến, R ạ. Một số đang đợi anh ngay bên ngoài nghĩa địa này. Anh nói đúng, muốn được thay đổi là bước thứ nhất, nhưng bước thứ hai phải là nắm lấy nó. Khi cơn lũ kéo đến, tôi không muốn anh mơ màng đi qua nó. Giờ anh còn có cả cô bé của tôi nữa đấy.”
Được rồi, anh làm tôi phát sợ lên rồi đấy. Tỉnh dậy đi!
“Tôi biết tôi không xứng với nàng,” Perry nói, giọng trầm trầm nhưng không hiểu sao tôi vẫn nghe được giữa những tiếng ồn ào khác. “Nàng đã cho tôi mọi thứ ấy vậy nhưng tôi lại nhổ vào nó. Vì thế giờ thì đến lượt anh đấy, R. Đi bảo vệ nàng đi. Nàng mềm yếu hơn anh tưởng nhiều.”
Chết tiệt, đồ khốn này! Tỉnh dậy đi không thì tôi bắn bỏ bây giờ!
Tôi gật đầu. Perry gật đầu. Rồi gã quay lại đối diện với cửa sổ và khoanh tay trước ngực trong khi cần điều khiển rung lên bần bật. Đám mây dông tách ra và chúng tôi lao xuống đất, thẳng về phía Sân vận động, và họ kia, cặp đôi khét tiếng R và J, đang ngồi trên một tấm chăn trên mái nhà ướt nước mưa. R ngước lên và nhìn thấy chúng tôi, mắt hắn mở to đúng lúc chúng tôi…
* * *
Tôi mở choàng mắt và chớp chớp mấy cái để định thần trở lại. Tôi đang đứng trước một ngôi mộ nhỏ giữa một nghĩa địa nghiệp dư. Tay Julie đang đặt trên vai tôi.
“Anh đã tỉnh rồi chứ?” nàng nói. “Chuyện quái quỷ gì vừa xảy ra thế?”
Tôi hắng giọng và nhìn quanh. “Xin lỗi. Đang mơ mộng.”
“Trời ạ, anh kỳ cục thật đấy. Đi nào, tôi không muốn ở đây nữa.” Nàng bước nhanh về phía cổng ra.
Nora và tôi theo sau. Nora đi ngang hàng với tôi, đưa mắt liếc nhìn tôi. “Mơ mộng ấy à?” cô hỏi.
Tôi gật đầu.
“Anh còn nói một mình nữa cơ.”
Tôi nhìn cô.
“Nhiều từ phức tạp ra phết. Tôi nghĩ là tôi đã nghe thấy cả từ ‘phép mầu’.”
Tôi nhún vai.
Tiếng ồn của thành phố như một dòng thác ùa vào tai chúng tôi khi những người lính gác mở cổng và chúng tôi quay lại với Sân vận động. Cổng vừa đóng lại sau lưng thì tôi lại thấy như có một đứa bé đang đạp trong bụng. Một giọng nói thì thầm, Nó đến rồi đây, R. Anh đã sẵn sàng chưa?
“Ôi tuyệt thật,” Julie lầm bầm.
Ông ấy kia rồi, đang đi vòng qua góc phố trước mặt chúng tôi: bố của Julie, Tướng Grigio. Ông bước thẳng về phía chúng tôi, kèm hai bên là hai sĩ quan gì đó, mặc dù họ không mặc quân phục chính quy. Đồng phục của họ bao gồm áo và quần lao động màu xám nhạt, không có trang trí hay phù hiệu cấp bậc gì, chỉ toàn túi và các móc để treo dụng cụ và thẻ căn cước ép plastic. Trong bao súng ở thắt lưng họ, súng nòng lớn lấp lánh ánh mờ đục.
“Bình tĩnh nhé, R,” Julie thì thào. “Đừng nói gì cả, cứ, ờ… giả vờ như là anh rất nhát ấy.”
“Julie!” Còn một quãng xa, Tướng Grigio đã cất tiếng gọi.
“Con chào bố,” Julie nói.
Ông và hai sĩ quan tùy tùng dừng lại trước mặt chúng tôi. Ông khẽ bóp vai Julie. “Con thế nào.”
“Ổn ạ. Con vừa qua thăm mẹ.”
Cơ hàm của ông giật giật, nhưng ông không trả lời. Ông nhìn Nora, gật đầu với cô, rồi nhìn tôi. Ông nhìn tôi rất kỹ. Ông lôi ra một chiếc bộ đàm. “Ted. Người đã vượt qua chỗ anh hôm qua. Anh nói là một chàng trai đeo cà vạt đỏ phải không? Người cao, gầy, da xấu?”
“Bố,” Julie nói.
Chiếc bộ đàm kêu quang quác. Tướng Grigio cất nó đi và lôi một đôi còng ngón tay ra khỏi thắt lưng. “Cậu bị bắt vì tội nhập cảnh trái phép,” ông nói như đọc thuộc lòng. Cậu sẽ bị giam ở…”
“Trời ơi, bố.” Julie bước tới và gạt tay ông sang bên. “Bố bị làm sao thế? Anh ấy không phải là kẻ xâm phạm, anh ấy từ Nhà thi đấu Goldman sang chơi mà. Và anh ấy đã suýt chết trên đường đến đây nên bố tha cho anh ấy mấy vụ pháp luật đi được không?”
“Cậu ta là ai?” vị tướng gặng hỏi.
Julie nhích lên phía trước tôi như muốn ngăn tôi trả lời. “Tên anh ấy là… ờ… Archie – là Archie, phải không?” Nàng liếc nhìn tôi và tôi gật đầu. “Anh ấy là bạn trai mới của Nora. Mãi hôm nay con mới được gặp đấy.”
Nora cười và siết chặt cánh tay tôi. “Bác có tin được là anh ấy bảnh bao đến thế không? Cháu còn không nghĩ là con trai thời nay còn biết cách đeo cà vạt nữa cơ.”
Tướng Grigio ngần ngừ, rồi cất đôi còng đi và nặn ra một nụ cười miễn cưỡng. “Rất vui được gặp cậu, Archie. Tất nhiên cậu biết là nếu cậu muốn ở lại quá ba ngày thì cậu sẽ phải đăng ký với nhân viên nhập cư của chúng tôi.”
Tôi gật đầu và cố tránh không nhìn vào mắt ông, nhưng tôi không thể rời mắt khỏi mặt ông. Mặc dù bữa tối căng thẳng tôi nhìn thấy trong ảo ảnh ký ức nọ chắc chắn mới xảy ra cách đây vài năm, nhưng giờ trông ông già hơn cả chục tuổi. Da ông mỏng và khô như giấy. Đôi lưỡng quyền của ông nhô ra. Trên trán ông mạch máu nổi lên xanh lét.
Một trong hai sĩ quan đi cùng ông hắng giọng. “Xin chia buồn về chuyện Perry, cô Cabernet ạ. Chúng ta sẽ rất nhớ cậu ấy.” Đại tá Rosso già hơn Grigio nhưng tuổi già đã thân thiện hơn với ông. Ông dáng thấp, mập, với đôi tay khỏe mạnh và lồng ngực vạm vỡ bên trên cái bụng phệ không tránh khỏi của các ông già. Mái tóc mỏng của ông chỉ còn lại mấy sợi bạc trắng, và đôi mắt xanh thì ướt rượt sau cặp kính dày cộp. Julie tặng cho ông một nụ cười khá thành thực.
“Cảm ơn bác Rosy. Cháu cũng thế.”
Câu chuyện của họ nghe thì bình thường nhưng lại có vẻ giả tạo, như chỉ khoát mái chèo bên trên những luồng chảy ngầm sâu hoắm. Tôi đoán là họ đã cùng nhau than khóc một cách kém máy móc thế này hơn nhiều, cách xa cái nhìn nhiễu sự của Grigio. “Chúng tôi rất biết ơn sự chia buồn của ông, Đại tá Rosso,” ông nói. “Nhưng tôi xin cảm ơn ông nếu ông đừng thay tên họ của chúng tôi khi nói chuyện với con gái tôi, cho dù nó đã ‘sửa sang’ cái tên ấy như thế nào đi chăng nữa.”
Ông già kia đứng thẳng người lên. “Xin ngài tha lỗi. Tôi không có ý gì.”
“Chỉ là biệt danh thôi ạ,” Nora nói. “Cháu với Perry nghĩ cô ấy giống rượu vang đỏ[1] hơn là…”
[1] Pinot Grigio là tên một giống nho dùng làm rượu vang trắng, Cabernet Sauvignon là tên giống nho dùng làm rượu vang đỏ.