Bản nhạc Gaspard de la Nuit của Ravel chia làm ba phân khúc; Jace chơi hết phân khúc đầu tiên thì đứng dậy khỏi đàn, đi vào bếp, lấy điện thoại chú Luke, gọi một cuộc một. Rồi anh trở về chơi tiếp bản Gaspard.
Ánh sáng quét qua vạt cỏ trước nhà chú Luke vào lúc Jace đã chơi được nửa phân đoạn ba. Ánh sáng vụt tắt ngay sau đó, để tất cả lại chìm trong bóng tối, nhưng Jace đã đứng dậy, với tay lấy áo khoác.
Anh khẽ khàng đóng cửa trước và nhảy xuống tam cấp hai bậc một. Trên bãi cỏ cạnh lối vào là một chiếc mô tô, động cơ vẫn còn rùng rùng. Chiếc mô tô này mang một vẻ ngoài đậm chất thiên nhiên kỳ quặc: những chiếc ống trông như những gân lá được uốn cong và ôm lấy khung gầm, một ngọn đèn pha duy nhất, giờ đang tỏa mờ, trông giống một con mắt phát sáng. Nhìn theo một góc cạnh nào đấy, chiếc xe trông có sức sống giống hệt gã trai đang tựa mình vào xe, tò mò nhìn Jace. Gã ta mặc áo khoác da nâu, mái tóc đen xoăn lọn đổ dài xuống vai và bờm xờm che đôi mắt nheo nheo. Gã ta cười, khoe hàm răng trắng nhởn, nhọn hoắt. Jace biết, tất nhiên cả xe lẫn người không hề thực sự sống; chúng đều là những sinh vật sống về đêm, “hoạt động” nhờ năng lượng ác quỷ.
“Raphael,” Jace gọi tên thay cho lời chào.
“Đây này,” Raphael nói, “tôi mang nó tới, đúng như cậu yêu cầu.”
“Tôi thấy rồi.”
“Nhưng, tôi phải nói thêm, tôi rất tò mò vì sao cậu muốn mượn một thứ như chiếc mô tô quỷ này chứ. Vì một lẽ, mấy xe này không hẳn là thứ hợp pháp, với lại, nghe nói cậu có một chiếc rồi.”
“Đúng là tôi có một chiếc,” Jace thừa nhận, đi quanh cái xe để xem xét nó từ mọi góc độ. “Nhưng giờ nó đang yên vị trên nóc Học Viện, mà tôi thì không thể tới chỗ ấy được.”
Raphael cười khe khẽ. “Có vẻ cả hai chúng ta đều không được Học Viện chào đón.”
“Đám ma cà rồng vẫn nằm trong danh sách Truy nã hả?”
Raphael nghiêng người qua bên nhổ một bãi nước bọt xuống đất, một cách duyên dáng. “Họ chụp tội danh giết người lên đầu chúng tôi,” gã ta giận dữ oán thán. “Cái chết của thằng bé người-sói, tiểu thần tiên, thậm chí cả tiểu pháp sư, dù tôi đã nói với họ rằng chúng tôi không uống máu pháp sư rồi. Thứ đó đắng ngắt và có thể gây biến đổi kỳ lạ lên người dám uống máu họ.”
“Anh nói với Maryse chưa?”
“Maryse.” Mắt Raphael sáng lên. “Dù muốn, tôi cũng không thể nói chuyện với bà ta được. Giờ Điều Tra Viên mới là người nắm quyền quyết định, tất cả những thăm dò hay yêu cầu đều phải thông qua bà ta. Bạn của tôi ơi, tình hình tệ lắm, tệ lắm lắm rồi.”
“Còn phải nói,” Jace đáp. “Mà chúng ta không phải bạn. Tôi đồng ý không nói với Hội đồng Clave về chuyện của Simon vì tôi cần anh giúp. Không phải vì tôi thích anh.”
Raphael cười toe toét, hàm răng trắng lóe sáng trong đêm. “Cậu thích tôi.” Gã nghẹo đầu sang bên. “Kỳ lạ thật,” gã nhận xét. “Tôi cứ nghĩ cậu sẽ khác đi sau khi Hội đồng Clave ghét bỏ cậu. Cậu không còn là đứa con cưng của họ nữa. Tôi nghĩ cậu ít nhiều phải bớt ngạo mạn đi chứ. Nhưng cậu vẫn không thay đổi.”
“Tôi trước sau như một,” Jace nói. “Anh có định cho tôi mượn xe hay không đây?”
“Vậy là cậu không cho tôi đi nhờ về nhà nhỉ?” Raphael uyển chuyển tránh khỏi chiếc xe; khi anh ta di chuyển, Jace nhìn thấy sợi dây chuyền sáng loáng quanh cổ.
“Không.” Jace leo lên xe. “Nhưng anh có thể ngủ dưới hầm rượu dưới nhà nếu anh ngại mặt trời mọc.”
“Ừm.” Raphael có vẻ đang ngẫm nghĩ; gã này thấp hơn Jace vài phân, và dù vẻ bề ngoài trông gã như trẻ hơn, nhưng ánh mắt cáo già hơn nhiều. “Giờ chúng ta huề nhau về chuyện Simon rồi chứ, Thợ Săn Bóng Tối?”
Jace rú ga, quay đầu xe về phía bờ sông. “Chúng ta chưa bao giờ huề cả, quỷ hút máu ạ, nhưng ít nhất đây là sự bắt đầu.”
Từ hồi thời tiết chuyển lạnh tới nay, Jace không hề chạy mô tô, nên anh bất ngờ khi va phải cơn gió lạnh buốt vồng lên từ mặt sông, tạt xuyên qua lớp áo gió và chiếc quần bò, đâm vào da thịt bằng những mũi gió lạnh sắc nhọn như kim. Jace rùng mình, mừng vì ít ra mình cũng còn đeo găng tay da bảo vệ hai bàn tay.
Cảnh vật chừng như trôi tuột hết màu sắc. Dòng sông nhuốm màu thép bạc trắng, bầu trời xám phớt xanh, đường chân trời chỉ là một đường kẻ đen kít tít xa. Ánh đèn nhấp nháy sáng dọc theo từng nhịp cầu Williamsburg và cầu Manhattan. Không khí nặng mùi tuyết lạnh, dù phải vài tháng nữa mới đến mùa đông.
Lần trước bay qua sông, Clary đi cùng anh, vòng tay cô quàng quanh anh cùng hai tay nhỏ nhắn túm chặt lần áo khoác của anh. Lúc đó anh không thấy lạnh. Anh quặt mạnh và thấy xe hơi chòng chành; anh nghĩ đã nhìn thấy bóng mình lao trên mặt nước; nghiêng rạp về một phía. Khi xe đã lấy lại thăng bằng, anh đã thấy nóc một con tàu hai bên thân là kim loại đen, không dấu hiệu gì và hầu như chẳng đèn đóm, mũi thuyền như một lưỡi dao hẹp phăm phăm rẽ sóng. Con thuyền làm anh nghĩ tới một con cá mập, thân thon gọn, nhanh nhẹn và nguy hiểm chết người.
Anh đạp phanh và cẩn thận lướt mô tô xuống, không chút tiếng động, như một chiếc lá đậu xuống mặt nước. Anh không cảm thấy mình đang rơi, mà là con thuyền cưỡi sóng bay lên, đón lấy anh. Bánh xe chạm boong tàu và anh cho xe chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Không cần phải tắt máy; anh xuống xe thì tiếng động cơ rùng rùng tự động giảm lại thành tiếng gầm gừ, rồi rì rì nho nhỏ, và im lặng hẳn. Khi anh liếc nhìn chiếc xe, có vẻ nó như đang lừ mắt nhìn lại anh, như một chú cún tiu nghỉu khi bắt ở nguyên một chỗ.
Anh cười với xe. “Tao sẽ về với mày mà,” anh nói. “Tao phải đi xem xét con tàu này tí đã.”
Có nhiều thứ để kiểm ta lắm. Anh đang đứng trên boong tàu khá thoáng, bên trái là dòng sông. Mọi thứ đều sơn đen: từ bao lơn tàu tới dàn lan cang kim loại bao quanh; thậm chí cửa sổ ca bin hẹp cũng dán đen kịt. Con tàu lớn hơn anh tưởng: có lẽ dài bằng một sân bóng, có khi còn hơn. Nó không giống bất cứ một con thuyền nào Jace từng thấy: là du thuyền thì lớn quá, tàu chở hàng thì lại quá nhỏ, với lại anh chưa từng thấy một con tàu nào lại được sơn đen tuyền như con tàu này. Jace tự hỏi không biết bố mình đã kiếm ra nó ở đâu.
Bỏ chiếc xe lại, anh bắt đầu chậm rãi đi quanh boong. Mây đã quang và sao đêm đang chiếu xuống, sáng đến không ngờ. Anh có thể thấy thành phố ở hai bên mình đang sáng rực lên như thể anh đang được đứng trên một lối đi hẹp hai bên là vách tường làm bằng ánh sáng. Tiếng giày anh vang vọng trên boong. Anh chợt nghĩ liệu Valentine có từng ở đây không. Jace hiếm khi ở một nơi nào chừng như bị bỏ hoang thông thốc thế này.
Anh dừng lại một lúc ở đầu tàu, ngắm nhìn dòng sông chia cắt Manhattan và Long Island như một vết sẹo. Mặt sông gợn lên những con sóng xám bạc, cơn gió biển lành lạnh thổi đều từng cơn, thứ gió chỉ thổi gạn qua mặt nước. Anh giang tay, để gió lùa vào áo khoác thổi bạt nó ra sau bay như một đôi cánh, quất tung mái tóc ngang mặt, làm cho mắt cay đến trào nước mắt.
Cạnh trang viên ở Idris từng có một cái hồ. Bố đã dạy anh chèo thuyền trên hồ, dạy cho anh biết ngôn ngữ của gió và nước, về lực nổi và không khí. Mọi người đàn ông phải biết lái tàu, ông từng nói. Đấy là một trong những lần hiếm hoi ông nói năng như thế, sử dụng cụm từ mọi người đàn ông thay cho mọi Thợ Săn Bóng Tối. Đó là một lời nhắc nhở ngắn gọn rằng, dù Jace có là gì, anh vẫn là một phần trong chủng con người.
Mắt cay xè, Jace quay người khỏi mũi tàu, để ý thấy một cánh cửa cabin giữa hai ô cửa sổ bịt kín. Anh rảo bước qua boong, thử vặn nắm đấm; cửa bị khóa. Anh dùng thanh stele vẽ chữ Mở trên mặt thép, thế là cánh cửa bật mở, bản lề kêu rin rít phản đối phả ra mạt rỉ sắt đo đỏ. Jace cúi mình lách qua khung cửa thấp, đứng dưới khung cầu thang sắt chỉ được chiếu sáng nhờ ánh đèn leo lét. Không khí có mùi gỉ sét và bỏ hoang lâu ngày. Jace vừa bước thêm một bước thì cửa đóng sầm sau tiếng kim loại lanh lảnh vang vang, nhấn chìm anh vào bóng tối.
Jace buột miệng chửi thề, lần sờ hòn đá ngọn đèn phù thủy trong túi. Đôi găng tay của anh giờ bất giác cứng lại, ngón tay anh lóng ngóng vì lạnh. Bên trong này còn lạnh hơn ngoài boong. Không khí lạnh như nước đá. Anh rút tay khỏi túi áo và rùng mình, nhưng không phải chỉ vì lạnh. Toàn bộ tóc sau gáy anh dựng đứng, từng sợi thần kinh gào thét cảnh báo. Có gì đó không ổn rồi.
Anh giơ viên đá viết chữ rune lên và nó lóe sáng khiến mắt anh chảy nước nhiều hơn nữa. Qua tầm nhìn nhòe nhoẹt, anh trông thấy một dáng hình cô gái mảnh mai đứng trước mặt, hai tay bấu trước ngực, mái tóc là một vết màu đỏ rực lên trên nền kim loại tối om quanh họ.
Anh run tay, khiến ánh sáng nhảy nhót qua lại như thể một đàn đom đóm mới chui lên từ vùng tối đen bên dưới. “Clary?”
Cô nhìn anh, mặt trắng bệch, môi run run. Hàng tá câu hỏi chết nghẹn trong cổ anh – cô đang làm gì ở đây? Sao cô lên tàu được? Nỗi kinh hoàng quặn thắt bóp nghẹt anh, ghê gớm hơn bất cứ nỗi sợ nào khác mà anh từng lo sợ cho bản thân mình. Ở Clary có cái gì đó không ổn. Anh bước tới một bước, ngay khi cô thả tay ra khỏi ngực mà chìa về phía anh. Bàn tay nhơm nhớp máu. Máu thấm ướt vạt trước chiếc váy trắng của Clary như một cái yếm màu đỏ sậm.
Anh nắm lấy tay cô khi cô loạng choạng tiến lên. Anh suýt làm rơi ngọn đèn phù thủy khi toàn bộ sức nặng của cô đổ sập lên người mình. Anh cảm nhận được nhịp tim của cô, cảm nhận được mái tóc mềm mại cùa cô sượt qua cằm mình, quá đỗi quen thuộc. Nhưng trên người cô có mùi hương khang khác. Mùi hương anh vẫn quen ở cô, mùi hương hòa trộn giữa xà phòng hương hoa và vải bông sạch đã biến đâu mất; giờ anh chỉ ngửi thấy mùi máu và kim loại. Đầu cô ngửa ra sau, mắt chỉ còn lòng trắng. Nhịp tim loạn nhịp rồi chậm dần… chậm dần… rồi ngừng hẳn…
“Không!” anh lay cô, lay mạnh đến nỗi đầu cô lắc lư trên cánh tay anh. “Clary! Dậy đi!” Anh lại lay, và lần này hàng mi cô hơi hấp háy; anh thấy nhẹ nhõm như một đợt mồ hôi lạnh đột ngột túa ra, rồi Clary mở mắt, nhưng đôi mắt cô không còn mang sắc màu lục bảo nữa; chúng mờ đục và trắng sáng, trắng chói lòa như ngọn đèn pha trên con đường tối đen, trắng như tiếng hét chói lói trong tâm trí anh. Mình từng thấy đôi mắt này rồi, anh nghĩ, và rồi bóng tối như một cơn sóng tràn cuốn trọn lấy anh, nhấn chìm tất cả vào im lặng.
Màn bóng tối bị đục thủng vài lỗ, thành những điểm sáng trên nền tối đen. Jace nhắm mắt, cố ổn định nhịp thở. Trong miệng anh có vị tanh nồng, giống vị của máu, và anh biết mình đang nằm trên mặt kim loại lạnh lẽo và rằng cái lạnh đang luồn qua lớp quần áo, thấm vào da thịt mình. Anh thầm đếm ngược từ một trăm tới khi nhịp thở chậm lại. Rồi anh lại mở mắt.
Chung quanh anh vẫn là bóng tối, nhưng là bóng tối của bầu trời đêm quen thuộc, lấp lánh ánh sao. Anh đang nằm ngửa trên boong tàu dưới bóng cây cầu Brooklyn đang lừng lững ngay mũi tàu như một núi đá tảng và sắt thép xám xịt. Anh rên rỉ và chống khuỷu tay ngồi dậy – rồi sựng lại khi thấy một bóng đen khác, chắc chắn là người, đang cúi xuống nhìn mình. “Cú đập vào đầu đó đau đấy,” giọng nói vẫn ám ảnh anh trong những cơn ác mộng vang lên. “Con thấy sao rồi?”
Jace ngồi thẳng dậy và ngay lập tức thấy hối hận vì bụng dạ anh nôn nao. Nếu anh có ăn gì trong mười giờ qua, chắc chắn anh sẽ nôn bằng sạch. Do đã chẳng ăn gì, nên vị chua loét của dịch mật nồng nặc trong miệng. “Con đau quá.”
Valentine mỉm cười. Ông ta đang ngồi trên một chồng hộp các tông rỗng dẹp phẳng, mặc áo com lê xám và đeo cà vạt xám, trông như đang ngồi sau một chiếc bàn gỗ gụ đẹp đẽ tại trang viên Wayland ở Idris. “Ta có câu hỏi khác cho con đây. Sao con tìm ra ta?”
“Con tra tấn moi lấy thông tin từ con quỷ Raum,” Jace đáp. “Chính bố đã dạy cho con chỗ bọn quỷ này cất giấu tim của chúng. Con đe dọa nó và nó nói với con – nó nói không rõ ràng lắm, nhưng cũng đủ để con biết nó tới từ một con tàu trên sông. Con nhìn lên và thấy bóng con tàu này. Nó cũng nói với con rằng chính bố triệu hồi nó,nhưng chuyện này thì con thừa biết rồi.”
“Hiểu rồi.” Hình như Valentine đang nén cười. “Lần sau ít ra con nên thông báo cho ta trước khi ghé qua nhé. Như thế con sẽ đỡ đụng độ đau đớn với đội lính canh của ta đấy.”
“Lính canh à?” Jace dựa người vào bao lơn kim loại lạnh lẽo mà hít vào đầy phổi luồng không khí trong lành, mát lạnh. “Ý bố là quỷ, đúng không? Bố đã dùng Thanh Kiếm để triệu hồi chúng.”
“Ta không phủ nhận điều này,” Valentine nói. “Những con quái vật của Lucian đã đánh bại đội quân Kẻ Lầm Đường của ta, mà ta không còn thời gian hay cũng chẳng định mất công xây dựng đội quân đó thêm lần nữa. Giờ khi đã có thanh Kiếm Thánh, ta không cần chúng nữa. Ta có những kẻ khác.”
Jace nghĩ tới Clary, người bê bết máu và hấp hối trong vòng tay mình. Anh đặt một tay lên trán. Trán mát lạnh nơi bao lơn kim loại tì vào. “Cái thứ tại cầu thang,” anh nói. “Không phải Clary, đúng không?”
“Clary ư?” Valentine nghe hơi ngạc nhiên. “Con thấy Clary?”
“Sao con lại không thấy Clary chứ?” Jace cố giữ giọng bình tĩnh, không biểu lộ cảm xúc. Anh không phải không quen hay không thoải mái với việc chia sẻ bí mật – của mình hay của người khác – nhưng cảm xúc của anh giành cho Clary là một thứ gì đó anh đã tự nhủ rằng mình chỉ có thể chịu đựng được nếu không phải phân tích cặn kẽ đến nó.
Nhưng đây là Valentine. Ông ta luôn suy nghĩ kỹ về mọi điều, nghiên cứu nó, phân tích nó theo hướng để có thể biến nó thành thế mạnh cho mình. Cung cách này khiến anh nhớ tới Nữ Hoàng Seelie: lạnh lùng, thâm hiểm, tính toán.
“Thứ con đụng phải tại cầu thang,” Valentine nói, “là quỷ Agramon – Quỷ của Nỗi Sợ. Agramon sẽ biến thành bất cứ thứ gì mà con sợ hãi nhất. Khi nó ăn no nỗi sợ của con rồi, nó sẽ giết con, nếu giả như đến lúc đấy con còn sống sót. Hầu hết đàn ông – và cả đàn bà – đều đã chết vì sợ trước khi con quỷ kịp giết họ. Đáng khen cho con là đã cầm cự được qua.”
“Agramon sao?” Jace kinh ngạc. “Đấy là con Đại Quỷ. Bố khống chế được cái thứ đó từ đâu thế?”
“Ta đã trả tiền cho một pháp sư trẻ tuổi ngạo mạn triệu hồi nó giùm ta. Cậu ta nghĩ nếu con quái vật vẫn nằm trong ngôi sao năm cánh, thì cậu ta vẫn có thể kiểm soát được nó. Không may thay, nỗi sợ lớn nhất của cậu ta là con quỷ cậu ta triệu hồi có thể phá vỡ lưới phép và tấn công ngược lại, và đấy chính xác là những gì đã xảy ra khi quỷ Agramon được triệu hồi về.”
“Vậy là cậu ta bỏ mạng như thế,” Jace nói.
“Ai đã bỏ mạng như thế?”
“Tay pháp sư,” Jace đáp. “Tên cậu ta là Elias. Cậu ta mới mười sáu. Nhưng bố biết, đúng không? Nghi thức Địa Ngục Xoay Chuyển…”
Valentine cười lớn. “Bấy lâu nay con bận rộn lắm, nhỉ? Vậy con biết lý do gì ta đã phái lũ quỷ tới nhà Lucian, đúng không?”
“Bố muốn Maia,” Jace nói. “Vì cô ta là đứa bé người sói. Bố cần máu cô ta.”
“Ta cho quỷ Drevak tới thám thính tình hình nhà Lucian và báo cáo lại,” Valentine nói. “Lucian giết một con, nhưng khi những con khác thông báo sự hiện diện của một người sói non…”
“Thì bố cho quỷ Raum đi bắt cô ta.” Jace đột ngột thấy cực kỳ mệt mỏi. “Vì chú Luke quý mến cô bé đó, còn bố muốn làm tổn thương chú ấy khi có thể.” Anh dừng lại, rồi nói, lần này thận trọng hơn: “Làm thế hạ cấp thật, kể cả khi người chơi trò đó là bố.”
Trong thoáng chốc, một tia lửa giận lóe lên trong ánh mắt Valentine; sau đó ông ta ngửa đầu, cười vui vẻ. “Ta ngưỡng mộ sự cứng đầu của con. Quá giống ta.” Ông ta đứng dậy rồi chìa một tay cho Jace. “Đứng dậy nào. Đi dạo quanh boong với ta. Ta có vài thứ muốn cho con xem.”
Jace những muốn gạt bàn tay đó ra, nhưng lại không chắc rằng, với cơn đau trong đầu, liệu anh có thể tự đứng lên mà không cần trợ giúp được không nữa. Hơn nữa, tốt hơn hết là đừng nên chọc giận bố quá sớm; dù ông có đánh giá cao sự nổi loạn của Jace tới đâu, ông ta cũng không phải mẫu người kiên nhẫn đối với những hành vi hỗn xược.
Bàn tay Valentine lành lạnh và khô ráp, nhưng cái nắm tay lại có tác dụng trấn an con người ta đến kỳ lạ. Khi Jace đứng dậy, Valentine rút tay về và lấy thanh stele ra khỏi túi áo. “Để ta giúp con hết đau nào,” ông nói và chĩa vũ khí về phía cậu con trai.
Jace lùi lại – sau một giây lưỡng lự mà chắc chắn Valentine có nhận ra. “Con không cần bố giúp.”
Valentine cất thanh stele đi. “Tùy con thôi.” Ông bắt đầu đi, và Jace, sau một lúc, rảo bước mới đuổi kịp. Anh thừa hiểu bố sẽ không bao giờ quay lại xem anh có đi theo hay không; ông luôn mặc định rằng anh có đi và sau đó sẽ nói chuyện với anh.
Anh đã đúng. Khi Jace tới sóng bước bên Valentine, ông ta đã bắt đầu nói. Ông chắp tay sau lưng và di chuyển một cách uyển chuyển, hơi bất cần, không bình thường đối với một người đàn ông cao lớn, vai rộng. Dáng người ông hơi chúi về phía trước, như thể đang dấn bước trong cơn gió mạnh.
“… nếu ta nhớ đúng,” Valentine đang nói, “thực ra con rất quen với bài thơ Paradise Lost của Milton[1] nhỉ?”
[1] John Milton (9/12/1608 – 8/11/1674) là một nhà thơ, soạn giả, nhà bình luận văn học người Anh, nổi tiếng với bài thơ Paradise Lost (“Thiên đường đã mất”). Bài thơ là một thiên sử thi bằng thơ không vần, kể về chuyện Adam và Eve bị trục xuất khỏi vườn Địa Đàng.
“Bố chỉ bắt con đọc có mười hay mười lăm lần gì đó thôi,” Jace đáp. “Thà trị vì địa ngục còn hơn làm thằng đầy tớ nơi thiên đường, vân va vân vân.”
“Non serviam,” Valentine nói. “‘Ta sẽ không phục tùng’. Đó là điều Lucifer đã viết trên cờ khi dẫn đầu đội quân thiên thần nổi loạn chống lại chính quyền đã thổi nát.”
“Ý bố là gì? Bố về phe quỷ dữ chăng?”
“Có người nói chính Milton cũng về phe quỷ dữ. Hình tượng Sa tăng của ông ta thú vị hơn cả Chúa Trời là đằng khác.” Họ đã gần tới mũi thuyền. Valentine dừng lại dựa người vào bao lơn.
Jace đến bên. Tàu đã đi qua hết những cây cầu bắt ngang sông Đông và giờ đang hướng về đoạn sông ngăn cách giữa đảo Staten và Manhattan. Ánh đèn từ quận tài chính[2] phản chiếu lấp lánh xuống mặt nước như ánh đèn phù thủy. Bầu trời như được phết một lớp bột kim cương, còn dòng sông chôn giấu tất cả bí mật của nó bên dưới tấm chăn dày đen kịt, đôi chỗ bị xé toạc bởi những ánh sáng bạc, có thể là đuôi cá – hoặc đuôi nàng tiên cá. Thành phố của mình đây, Jace thầm nghĩ ngợi, chiêm nghiệm, nhưng những từ ngữ ấy vẫn dẫn đầu óc anh về thành phố Alicante và những tòa tháp pha lê, chứ không phải những tòa cao ốc của Manhattan.
[2] Quận tài chính là một khu vực nhỏ nằm ở phía nam Manhattan, là nơi đặt trụ sở của rất nhiều văn phòng, trụ sở của các cơ quan kinh tế quan trọng trong thành phố, trong đó có sàn Chứng Khoán New York và Ngân Hàng Dự trữ Liên bang New York.
Sau một lúc, Valentine nói. “Sao con ở đây, Jonathan? Ta tự hỏi sau lần cuối cùng ta gặp con ở Thành phố Xương rằng liệu nỗi căm hận của con dành cho ta có tận xương tủy. Ta gần như đã từ bỏ con.”
Giọng ông ta đều đều, như khi nào cũng thế, nhưng trong đó có chất chứa một điều – không phải là tổn thương nhưng ít ra cũng là một nỗi hiếu kỳ, như thể ông ta chợt nhận ra rằng Jace vẫn có thể làm ông ngạc nhiên.
Jace hướng mắt ra sông. “Nữ Hoàng Seelie muốn hỏi bố một câu,” anh bảo. “Bà ta bảo con hỏi bố xem dòng máu nào chảy trong huyết quản con.”
Sự ngạc nhiên thoảng qua trên nét mặt Valentine như thể một bàn tay lau sạch đi bao nét biểu cảm. “Con đã nói chuyện với Nữ Hoàng đó à?”
Jace không nói gì.
“Đó là cung cách của Tiên Tộc. Mọi thứ họ nói đều đa nghĩa. Nói với bà ta, nếu bà ta có hỏi lại, rằng dòng máu Thiên Thần chảy trong huyết quản con.”
“Và trong huyết quản mọi Thợ Săn Bóng Tối,” Jace thất vọng. Anh cứ nghĩ bố sẽ cho anh câu trả lời rõ ràng hơn kia. “Bố không nói dối Nữ Hoàng Seelie, đúng không?”
Giọng Valentine nhát gừng. “Không. Và con không chỉ tới để hỏi ta mỗi câu hỏi lố bịch đó. Thực sự thì vì sao con tới đây, Jonathan?”
“Con cần nói chuyện với ai đó.”Anh không giỏi kiểm soát giọng nói như bố mình; anh nghe ra nỗi thống khổ chất chứa trong đấy, giống như vết thương đang ứa máu ngay dưới bề mặt. Lightwood – con chỉ là thứ của nợ với họ mà thôi. Chắc giờ chú Luke cũng ghét con rồi. Điều Tra Viên muốn con chết. Con đã làm tổn thương Alec mà chính con cũng không biết mình đã làm gì.”
“Còn em gái con?” Valentine hỏi. “Clarrisa thì sao?”
Vì sao anh cứ phá hoại mọi thứ thế chứ? “Con bé cũng không hài lòng với con.” Anh ngần ngừ. “Con nhớ lời bố nói lúc ở Thành phố Xương. Rằng bố chưa từng có cơ hội kể cho con nghe sự thật. Con không tin bố,” anh nói thêm. “Con muốn bố biết thế. Nhưng con nghĩ con nên cho bố cơ hội nói lý do.”
“Con cần phải hỏi ta không chỉ là một lý do thôi đâu, Jonathan ạ.” Giọng Valentine nhấn nhá khiến Jace giật mình – trong đó hàm chứa một sự nhún nhường đang tôi luyện lòng kiêu hãnh của ông, giống như thép bị tôi trong lửa. “Có rất nhiều lý do.”
“Vì sao bố giết các Tu Huynh Câm? Vì sao bố đánh cắp Thanh Kiếm Thánh? Bố đang lên kế hoạch gì? Vì sao Chén Thánh là chưa đủ cho bố?” Jace ngăn mình lại trước khi kịp tuôn ra hàng tá câu hỏi khác. Vì sao bố lại bỏ rơi con lần thứ hai? Vì sao bố đã từ bỏ con rồi lại quay lại tìm con?
“Con thừa biết ta muốn gì. Hội đồng Clave đã thối nát tới tận gốc rễ nên phải được hủy diệt rồi tái lập. Idris phải sạch bóng những kẻ hạ đẳng, trái đất phải đủ sức chống lại mối họa từ quỷ dữ.”
“Vâng, cái mối họa từ lũ quỷ này này.” Jace liếc nhìn quanh, như thể hơi mong chờ trông thấy bóng đen của quỷ Agramon lại nhào vào mình. “Con cứ tưởng bố ghét quỷ kia. Thế mà giờ bố lại sử dụng chúng làm tay sai. Ravener, Drevak, Agramon – chúng đều là người làm công cho bố. Làm vệ sĩ, quản gia, chắc lại cả đầu bếp riêng nữa ấy chứ.”
Valentine nhịp nhịp tay lên hàng lan can. “Ta không đánh bạn với quỷ,” ông nói. “Ta là Nephilim, cho dù ta có nghĩ Hiệp Ước là thứ vứt đi còn Luật là trò lừa đảo đến thế nào đi nữa. Không phải cứ răm rắp nghe theo chính phủ mới là một người dân yêu nước, đúng không nào? Một người yêu nước thực thụ phải biết lên tiếng phản đối, phải biết nói anh ta yêu Tổ quốc chứ không phải chỉ quan tâm vị trí địa vị xã hội của mình. Ta bị lăng mạ vì những chọn lựa của mình, bị buộc phải trốn chạy, bị trục xuất khỏi Idris. Nhưng ta là – vẫn mãi là – một Nephilim. Ta không thể thay đổi dòng máu chảy trong huyết quản ta dù có muốn – và chắc chắn là ta không muốn.”
Nhưng con thì có. Jace nghĩ tới Clary. Anh lại liếc qua mặt nước đen ngòm, biết rằng điều mình ước là điều bất khả. Từ bỏ việc săn đuổi, giết chóc, tất cả kiến thức, tốc độ kinh hồn và bao nhiêu khả năng khác: đó là điều không thể. Anh là một chiến binh. Không thể là gì khác được.
“Con muốn không?” Valentine hỏi. Jace vội nhìn đi nơi khác, tự hỏi liệu bố có đọc ra nét mặt mình không. Hai người họ đã ở riêng bên nhau hàng bao nhiêu năm trời. Đã có thời anh nhớ rõ khuôn mặt bố hơn khuôn mặt mình. Valentine là người duy nhất mà Jace biết mình không thể giấu giếm cảm xúc khỏi ông ta được. Hay ít nhất là người đầu tiên. Thi thoảng anh có cảm giác như Clary có thể nhìn xuyên qua anh như nhìn xuyên qua một tấm kính.
“Không,” anh đáp. “Con không muốn.”
“Con sẽ mãi mãi là Thợ Săn Bóng Tối sao?”
“Vâng,” Jace nói. “Dù gì, bố đã sinh ra con như vậy rồi.”
“Tốt. Đó là điều ta muốn nghe.” Ông dựa người lên bao lơn, ngước nhìn bầu trời đêm. Mái tóc bạch kim của ông ta điểm vài sợi tóc bạc, trước giờ Jace chẳng để ý thấy. “Đây là một cuộc chiến,” Valentine nói. “Câu hỏi duy nhất là, con sẽ đứng về phía nào?”
“Con nghĩ chúng ta ở cùng một phe. Con nghĩ chúng ta cùng nhau chống lại lũ quỷ chứ.”
“Giá mà là vậy. Con phải hiểu rằng, nếu như ta cảm thấy Hội đồng Clave thực sự quan tâm tới thế giới này, nếu ta nghĩ họ đang làm hết sức mình – vì Thiên Thần, sao ta phải chống lại họ chứ? Vì ta đâu có lý do gì để làm vậy?”
Vì quyền lực. Jace nghĩ, nhưng không nói ra. Anh đã không còn biết mình nên nói gì, hay nên tin gì nữa.
“Nếu Hội đồng Clace cứ mãi như thế này,” Valentine nói, “lũ quỷ sẽ phát hiện ra điểm yếu của họ mà tấn công thẳng vào, trong lúc đó Hội đồng Clave lại mất tập trung vì suốt ngày mãi lo đi vuốt ve lũ hạ đẳng, sẽ không có khả năng đánh bại quỷ được. Quỷ sẽ tấn công, sẽ hủy diệt tất cả, không chừa thứ gì.”
Những giống loài hạ đẳng. Từ đó thân thuộc tới khó chịu; chúng làm Jace nhớ lại thời thơ bé, nhưng theo cái cách chẳng lấy gì làm hay ho. Khi anh nghĩ về bố và Idris, thì đấy luôn là những ký ức nhạt nhòa về ánh mặt trời nóng bỏng chiếu xuống vườn cỏ xanh trên sân trước ngôi nhà vùng thôn quê, về hình dáng một người đàn ông lớn, nước da rám nắng, bờ vai rộng, cúi xuống bế anh khỏi vườn cỏ mà đưa anh vào nhà. Hồi đấy hẳn anh còn rất bé, nhưng anh chưa bao giờ quên mùi hương cỏ – xanh mát, sáng lạng và mới được cắt – hay cái cách mặt trời biến tóc bố mình thành một vầng hào quang trắng lóa, hoặc cái cảm giác được ẵm bồng. Được chở che.
“Chú Luke,” Jace nói, có chút khó khăn. “Chú ấy không hạ đẳng…”
“Lucian thì khác. Anh ta từng là Thợ Săn Bóng Tối.” Giọng Valentine đều đều và dứt khoát. “Ta không nói về một kẻ thuộc Thế Giới Ngầm cụ thể nào, Jonathan. Ta đang nói tới sự sinh tồn của tất cả những sinh vật sống trên thế giới này. Thiên Thần đã chọn Nephilim là có lý do. Chúng ta là những kẻ thượng đẳng, và chúng ta phải có trách nhiệm cứu rỗi thế giới. Chúng ta là điều giống với thần thánh nhất vẫn đang hiện diện trên thế giới này – và chúng ta phải sử dụng quyền năng ấy để cứu thế giới khỏi ngày diệt vong, bằng mọi giá.”
Jace chống tay lên bao lơn. Trời khá lạnh: những cơn gió lạnh buốt len lỏi qua quần áo, còn những ngón tay anh giờ đã tê cóng. Nhưng trong trí óc, anh vẫn nhìn thấy những ngọn đồi xanh rì và mặt nước xanh ngắt cùng những phiến đá màu mật ong nơi trang viên nhà Wayland.
“Trong truyền thuyết,” anh bảo, “Sa tăng đã nói với Adam và Eva rằng ‘Các người sẽ hóa thành thần’ để lừa họ ăn trái cấm. Và họ đã bị đuổi khỏi thiên đàng.”
Valentine im lặng một lúc trước khi bật cười. “Thấy chưa, đó là điều ta cần ở con đấy, Jonathan. Con giúp ta không bao giờ phạm tội tự cao.”
“Tội lỗi có vô chừng loại.” Jace đứng thẳng và quay sang đối mặt với bố mình. “Bố chưa trả lời con về lũ quỷ, thưa bố. Bố bào chữa cho chuyện triệu tập chúng, kết bè với chúng thế nào? Bố đang lên kế hoạch dùng chúng để chống lại Hội đồng Clave sao?”
“Tất nhiên rồi,” Valentine đáp, không chút lưỡng lự, không thèm cân nhắc có nên tiết lộ kế hoạch cho kẻ có thể nói cho kẻ thù của mình biết hay không. Có lẽ chẳng có điều gì khiến Jace chấn động bằng chuyện nhận ra bố mình đang chắc thắng đến thế nào. “Hội đồng Clave sẽ không đầu hàng với lý lẽ, mà chỉ chịu thua vũ lực. Ta đã cố gây dựng một đội quân Những Kẻ Lầm Đường; với Chén Thánh, ta có thể tạo ra một đội quân Thợ Săn Bóng Tối mới, nhưng sẽ tốn nhiều năm trời. Mà ta không có ngần đó thời gian. Chúng ta, loài người, không có nhiều thời gian. Với Thanh Kiếm, ta có thể triệu tập một đội quân quỷ dữ răm rắp nghe lời mình. Chúng phục vụ bố như những con rối, làm bất cứ điều gì ta sai bảo. Chúng không được lựa chọn. Và khi ta xong việc với chúng, ta sẽ ra lệnh cho chúng tự diệt, và chúng sẽ làm theo.” Giọng Valentine trơ trơ vô cảm.
Jace nắm thành lang can thật chặt đến mức những ngón tay bắt đầu đau đớn. “Bố không thể giết tất cả Thợ Săn Bóng Tối đối nghịch với bố được. Đó là tội cố sát.”
“Ta không cần làm thế. Khi Hội đồng Clave thấy quyền lực dàn ra vượt quá khả năng của họ, họ sẽ đầu hàng. Họ không phải thứ thích đâm đầu vào chỗ chết. Với lại trong số họ còn có cả những kẻ ủng hộ ta nữa.” Không có sự ngạo mạn trong giọng nói Valentine, chỉ có sự chắc chắn kiên định. “Họ sẽ bước ra ánh sáng vào thời điểm thích hợp.”
“Con nghĩ bố đã đánh giá thấp Hội đồng Clave.” Jace cố nói thật bình thản. “Con không nghĩ bố hiểu họ ghét bố tới mức nào.”
“Thù ghét cũng chẳng nghĩa lý gì nếu đem cân nhắc với sinh tồn.” Tay Valentine rờ xuống thắt lưng, nơi đốc Kiếm Thánh đang tỏa sáng mờ mờ. “Nhưng đừng nghĩ ngợi nhiều tới mấy lời vừa rồi. Ta đã bảo là có thứ muốn cho con xem. Đây này.”
Ông ta rút Kiếm Thánh khỏi vỏ và giơ ra cho Jace xem. Jace đã thấy thanh Maellartach hồi còn ở Thành phố Xương, treo trên tường trong phòng của Những Ngôi Sao Tiên Tri. Và anh cũng từng thấy đốc kiếm nhô ra sau vai Valentine, nhưng anh chưa thực sự xem xét nó kỹ lưỡng. Kiếm Thánh. Kiếm được đúc bằng bạc đen, nặng trịch, lấp lánh lớp ánh sáng mờ mờ. Ánh sáng dường như di chuyển chung quanh lẫn xuyên qua kiếm, như thể nó làm từ nước. Trên đốc kiếm khắc hình một bông hồng đỏ kết từ những tia sáng.
Jace nói mà mồm miệng khô khốc. “Đẹp quá.”
“Ta muốn con cầm nó.” Valentine đưa thanh kiếm cho cậu con trai, theo cách ông luôn dạy con, chìa đốc kiếm ra trước. Thanh kiếm dường như tỏa ánh sáng đen dưới ánh sao.
Jace chần chừ. “Con không…”
“Cầm đi.” Valentine ấn kiếm vào tay anh.
Vào khoảnh khắc khi ngón tay Jace nắm lấy chuôi kiếm, một lưỡi giáo ánh sáng vụt lên từ đốc kiếm rồi từ lõi chuôi kiếm truyền dọc vào lưỡi kiếm. Anh đảo nhanh mắt nhìn bố, nhưng Valentine không tỏ thái độ gì khác.
Một cơn đau kinh khủng từ cánh tay Jace lan vào tận ngực anh. Không phải vì thanh kiếm nặng; không hề. Nhưng dường như nó muốn kéo anh xuống, lôi anh khỏi tàu, qua làn nước đại dương xanh thẳm, qua lớp vỏ trái đất mỏng manh. Jace thấy như hơi thở bị ép hết khỏi lồng ngực. Anh vụt ngẩng đầu nhìn quanh…
Và nhận ra khung cảnh ban đêm đã biến đổi. Một mạng lưới những sợi dây vàng mỏng sáng đã được vung ra đan dọc ngang bầu trời, những vì sao chiếu xuyên qua nó, sáng như những dấu đinh được tán vào bóng tối. Jace thấy đường cong của trái đất khi nó rời xa mình, và trong khoảnh khắc vẻ đẹp toàn cảnh khiến anh ngây dại. Và rồi màn đêm vỡ tan như kính, cùng rơi lã chã theo các mảnh kính vỡ ấy là những hình thù đen đúa, lưng gù và méo mó, tay chân tua tủa nhưng lại không có khuôn mặt, đang tru lên tiếng thét vô thanh cháy rát trong bên trong tâm trí Jace. Cơn gió rét căm làm anh phồng rộp cả da khi những con ngựa sáu chân phi rần rần qua, những tia lửa đỏ như máu bắn lên theo vó ngựa trên boong tàu. Những thứ cưỡi trên lưng chúng xấu xí khó tả. Trên bầu trời, những sinh vật không mắt, cánh lông mao lượn vòng, ré lên the thé và nhễu nhão những giọt nhớt xanh lè đầy nọc độc.
Jace nhoài người qua ngoài bao lơn, cứ thế nôn khan, thanh kiếm vẫn nắm chặt trong tay. Bên dưới kia, làn nước náo động những quỷ chen chúc như thể một nồi súp độc. Anh trông thấy những sinh vật gai góc, với những con mắt trợn tròn đỏ như máu đang vật vã chống chọi khi bị hằng hà sa số những chiếc xúc tu đen sì trơn tuột kéo xuống. Một nàng tiên cá bị một con nhện nước mười chân tóm chặt, đang la hét giãy chết khi con quỷ cắn ngập răng vào đuôi cá đang quẫy đạp, đôi mắt đỏ nhện quỷ long lên như những viên chuỗi hạt bằng máu.
Thanh Kiếm tuột khỏi tay Jace, rơi lanh canh trên sàn. Đột nhiên mọi âm thanh, hình ảnh biến đi đâu mất, và trời đêm lại tĩnh lặng. Jace nắm chặt lấy bao lơn, nhìn chằm chằm xuống mặt biển mà không dám tin vào mắt mình. Biển chẳng có gì, thi thoảng lăn tăn gợn sóng nhờ những cơn gió thoáng qua.
“Cái gì vừa xảy ra vậy?” Jace thì thào. Cổ họng anh khản đặc, như vừa bị chà giấy nhám. Anh hoảng loạn nhìn bố, người đang cúi xuống nhặt lấy Thanh Kiếm Linh Hồn bị rơi. “Đó là những con quỷ bố đã gọi sao?”
“Không.” Valentine tra thanh Maellartach vào vỏ. “Đấy là những con quỷ bị thanh kiếm thu hút đến ven rìa thế giới này. Ta đưa con tàu tới đây vì lưới bảo vệ nơi đây khá mỏng. Những gì con thấy là đội quân của ta, đang đợi ở bên kia lưới bảo vệ – đợi ta gọi chúng tới.” Ánh mắt Valentine nghiêm nghị. “Con vẫn nghĩ Hội đồng Clave sẽ không đầu hàng chứ?”
Jace nhắm mắt và nói. “Không phải tất cả… không phải nhà Lightwood…”
“Con có thể thuyết phục họ. Nếu con đứng vào hàng ngũ của ta, ta hứa họ sẽ không bị làm hại.”
Màn tối đằng sau mắt Jace bắt đầu chuyển sang sắc đỏ. Nãy giờ anh đang tưởng tượng ra đám tro tàn của căn nhà cũ của Valentine, những nắm xương cháy của người ông, người bà anh chưa từng biết mặt. Giờ thì anh nhìn thấy những khuôn mặt khác. Alec. Isabelle. Max. Clary.
“Con đã làm họ tổn thương quá nhiều rồi,” anh thì thào, “Không điều gì được xảy ra cho bất cứ ai trong số họ nữa. Không một điều gì.”
“Tất nhiên. Ta hiểu.” Và Jace nhận ra, một cách kinh ngạc Valentine thực sự hiểu, rằng bằng cách nào đấy mà ông ta hiểu được những điều người khác dường như không tài nào hiểu thấu. “Con nghĩ tất cả những nguy hiểm xảy tới với bạn bè con, gia đình con, đều là lỗi của con.”
“Đó là lỗi của con.”
“Con nói đúng. Đó là lỗi của con.” Nghe tới đây, Jace ngẩng nhìn lên choáng váng. Bất chợt được đồng tình làm anh vừa thấy lòng vơi đi chút ít nhưng cũng dấy lên thêm chút lo sợ.
“Thật sao?”
“Tất nhiên là con không cố ý. Nhưng con giống ta. Chúng ta đầu độc và hủy hoại mọi thứ mình yêu thương. Điều này có lý do của nó.”
“Lý do gì?”
Valentine ngước nhìn bầu trời. “Chúng ta được sinh ra vì một mục đích cao cả hơn, cả ta lẫn con. Những xao lãng từ thế giới này chỉ là xao lãng mà thôi. Nếu chúng ta cho phép mình bị xa rời khỏi mục đích sinh ra vì sự xao lãng đó, thì chúng ta đáng bị trừng phạt.”
“Và đòn trừng phạt của chúng ta lại dành cho những người chúng ta yêu thương sao? Có vẻ hơi khắc nghiệt với họ.”
“Định mệnh chẳng bao giờ công bằng. Con đang vướng vào một dòng chảy mạnh hơn sức con, Jonathan ạ; cố cưỡng lại nó đi rồi con sẽ dìm chết không chỉ mình con mà còn cả những người đang cố cứu lấy con đấy. Cứ xuôi theo dòng ấy, rồi con sẽ sống sót.”
“Clary…”
“Em gái con sẽ không gặp nguy hiếm gì nếu con đứng về phía ta. Ta sẽ đi tới cùng trời cuối đất để bảo vệ con bé. Ta sẽ đưa con bé tới Idris, nơi con bé sẽ không gặp chuyện gì. Ta hứa.”
“Alec. Isabelle. Max…”
“Cả những đứa con nhà Lightwood nữa, ta sẽ bảo vệ chúng.”
Jace thì thầm nói ra một cái tên khác. “Chú Luke…”
Valentine lưỡng lự, rồi nói, “Tất cả bạn bè con sẽ được bảo vệ. Vì sao con không thể tin ta hả Jonathan? Đó là cách duy nhất con có thể cứu họ. Ta thề đấy.”
Jace không thể nói nên lời. Anh lại nhắm mắt. Bên trong anh cái lạnh lẽo của tiết thu đang đấu tranh cùng những ký ức về mùa hè ấm áp.
“Con quyết định chưa?” Valentine hỏi; Jace không thể nhìn thấy ông nhưng anh có thể nghe ra sự dứt khoát trong câu hỏi đó. Ông ta nghe ra còn hăm hở là đằng khác.
Jace mở mắt. Ánh sao giờ là một đốm sáng trắng chói lòa vào con ngươi anh; trong một lúc anh không thấy được gì khác. Rồi anh nói, “Vâng, thưa Bố. Con đã quyết định.”
Phần 3: Ngày phán xét
Ngày phán xét, hỡi ngày của lửa cháy
Những bậc tiên tri từng khóc than
Rằng cả thế giới sẽ hóa tro tàn
– Abraham Coles