Jace nhoài người lên trước và đập tay vào bức vách ngăn giữa họ và người tài xế. “Rẽ trái! Trái! Tôi nói là rẽ sang Broadway, đồ khùng khùng chết não!”
Người tài xế đáp lại bằng cách quặt tay lái sang trái quá mạnh khiến Clary ngã chúi nhủi sang Jace. Cô oán thán hét lên. “Vì sao cta phải ra đường Broadway chứ?”
“Anh đang đói muốn chết rồi,” Jace nói. “Và ở nhà chẳng còn j ngoài mấy món Trung Hoa còn thừa.” Anh lấy điện thoại ra khỏi túi và ấn số. “Alec! Dậy đi!” anh hét. Clary có thể nghe tiếng lầm bầm tức tối từ đầu dây bên kia. “Gặp bọn tớ ở quán Taki’s nhé. Ăn sáng. Đúng, cậu nghe rõ rồi đấy. Ăn sáng. Cái gì? Chỉ cách vài tòa nhà thôi mà. Dậy mà đi đi!”
Anh tắt máy và nhét điện thoại vào một trong khá nhiều túi áo khi họ tấp xe vào lề. Jace đưa cho người tài xế ít tiền, rồi huých Clary xuống xe. Khi đặt chân xuống vỉa hè, anh duỗi người như mèo và giang rộng tay. “Chào mừng tới quán ăn ngon nhất New York.”
Trông không giống thế lắm – một tòa nhà gạch thấp bị lún ở giữa như món bánh phồng bị xẹp. Một bảng hiệu đèn neon bị vỡ có đề tên quán ăn nằm bên cạnh và kêu xèo xèo. Hai người đàn ông mặc áo khoác dài và mũ chóp đang ngồi ườn trước lối vào chật hẹp. Không hề có cửa sổ.
“Nhìn cứ như nhà tù ấy,” Clary nói.
Anh chỉ cô. “Nhưng trong nhà tù em có thể gọi món spaghetti fra diavolo khiến em muốn mút tay không? Anh không nghĩ vậy.”
“Em không muốn ăn spaghetti. Em muốn biết Magnus Bane là gì.”
“Đó không phải cái gì. Đó là một ai,” Jace nói. “Đó là một cái tên.”
“Anh biết người ấy là ai hả?”
“Là một pháp sư,” Jace nói bằng giọng biết điều nhất. “Chỉ có pháp sư mới có thể phong tỏa trí nhớ của em như thế. Hoặc có thể là một trong các Tu Huynh Câm, nhưng rõ ràng là không phải họ.”
“Có phải tay pháp sư mà anh từng nghe qua không?” Clary hỏi, đã cực kỳ chán ngán cái giọng biết điều của Jace.
“Cái tên đó nghe cũng quen quen…”
“Này!” Là Alec, có vẻ vừa lăn xuống khỏi giường và mặc quần bò ngoài quần ngủ. Tóc tai anh ta, chưa chải bới gì, bù xù lĩa chĩa quanh đầu. Anh tiến tới chỗ họ, mắt nhìn Jace, lờ Clary đi như thường lệ. “Izzy đang tới,” anh ta nói. “Con bé mang theo thằng người thường.”
“Simon hả? Cậu ta từ đâu xuất hiện thế?” Jace hỏi.
“Sáng sớm ngày ra cậu ta đã xuất hiện. Chắc là không thể nào sống thiếu Izzy đây mà. Thảm quá.” Alec có vẻ hứng thú. Clary chỉ muốn đá anh ta. “Mà này, cta có vào quán không đây? Tớ chết đói rồi.”
“Tớ cũng thế,” Jace nói. “Tớ thực sự có thể xơi món đuôi chuột chiên giòn luôn đấy.”
“Món gì?” Clary hỏi, chắc chắn rằng cô đã nghe lầm.
Jace cười với cô. “Bình tĩnh đi,” anh nói. “Chỉ là một món ăn thôi mà.”
Họ bị chặn lại ngay cửa trước bởi một trong hai tay đang ngồi ườn. Khi gã ta đứng thẳng dậy, Clary thoáng thấy khuôn mặt gã sau vành mũ. Da gã màu đỏ sậm, bàn tay vuông chằn chặn kết thúc bằng những móng tay màu xanh đen. Clary thấy người cứng đơ, nhưng Jace và Alec có vẻ chẳng để ý. Họ nói gì đó với gã, gã gật đầu và lùi lại, nhường lối cho họ đi qua.
“Jace ơi,” Clary rít lên khi cánh cửa đóng lại. “Ai thế?”
“Em hỏi Clancy hả?” Jace hỏi liếc nhìn quanh nhà hàng mở đèn sáng rực. Không gian bên trong khá dễ chịu, dù không có cửa sổ. Những khu bàn bằng gỗ ấm cúng đấu lưng nhau, mỗi khu được đặt thêm vài tấm nệm màu sắc tươi sáng. Những bộ bát đĩa không cùng bộ xinh xắn sắp trên quầy, đằng sau là một cô gái tóc vàng đeo tạp dề bồi bàn màu hồng-trắng, đang nhanh nhẹn trả tiền thừa cho người đàn ông to con mặc áo sơ mi vải nỉ. Cô thấy Jace, vẫy tay và ra hiệu họ thích ngồi đâu thì ngồi. “Clancy chặn những vị khách không được chào đón,” Jace nói, lùa cô tới một trong những dãy bàn.
“Hắn ta là quỷ,” cô rít lên. Vài thực khách quay ra nhìn cô – một cậu bé tóc xoắn màu xanh vuốt keo chổng ngược đang ngồi cạnh cô gái Ấn Độ xinh đẹp tóc đen dài và mang đôi cánh mờ như sương mở rộng sau lưng. Cậu ta nhíu mày khó chịu. Clary mừng vì nhà hàng gần như không có người.
“Không, không phải đâu,” Jace nói và ngồi vào bàn. Clary định ngồi cạnh anh, nhưng Alec đã ngồi vào chỗ đó. Cô ngượng nghịu ngồi sang ghế đối diện, tay còn khá cứng dù Jace đã săn sóc tận tình. Cô thấy trong mình trống rỗng, như thể các Tu Huynh Câm đã chạm vào bên trong cô và lôi nội tạng ra, khiến cô nhẹ bẫng và choáng váng. “Anh là pháp sư kiểng ifrit,” Jace giải thích. “Họ là pháp sư không có phép thuật. Không hiểu vì đâu mà một nửa số quỷ không thể dùng thần chú.”
“Khổ thân,” Alec nói và cầm thực đơn. Clary cầm thực đơn lên ngó trân trân. Châu chấu quện mật ong được đánh dấu là đặc sản của quán, cũng như đĩa thịt tùy chọn, cá sống nguyên con, và thứ gì đó được gọi là sanwich dơi nướng. Trang đồ uống chia ra làm các loại máu khác nhau và Clary thấy nhẹ người, đó là những loại máu động vật khác nhau, chứ không phải nhóm máu O, A hay B âm tính. “Ai lại đi ăn cá sống nguyên con chứ?” cô hỏi lớn.
“Ngựa nước Kelpie,” Alec nói. “Người sư tử biển selkie. Có thể là một vài yêu tinh cá biệt.”
“Đừng gọi bất cứ món ăn nào của thần tiên,” Jace nói, nhìn cô qua cuốn thực đơn. “Nó sẽ khiến loài người hơn điên khùng một chút. Một phút trước em đang ăn mận tiên, thì phút sau em đã trần truồng chạy trên đại lộ Madison với gạc hươu mọc trên đầu. Điều đó,” anh vội bổ sung, “chưa từng xảy ra với anh đâu nhé.”
Alec cười lớn. “Cậu có nhớ…” anh bắt đầu nói, và kể câu chuyện có quá nhiều cái tên kỳ lạ và danh từ riêng đến nỗi Clary chẳng buồn ráng nghe cho hết. Thay vào đấy cô lại quan sát Alec, theo dõi anh tán gẫu với Jace. Ở anh toát ra một luồng năng lượng sinh động, gần như là sục sôi mà lúc trước anh ta không hề có. Có gì đó từ Jace đã khơi nguồn hứng thú trong Alec, khiến anh ta tập trung. Nếu cô định vẽ hai người họ với nhau, cô nghĩ, cô sẽ vẽ Jace mờ nhạt đi một chút, trong khi Alec nổi bật lên, với các góc mặt rõ ràng, sắc nét.
Jace đang nhìn xuống trong khi Alec nói, miệng cười cười còn đầu móng tay gõ gõ ly nước. Cô cảm giác anh đang nghĩ gì đó khác. Đột nhiên, cô hơi hơi thông cảm cho Alec. Jace không phải người dễ để tâm tới chuyện gì. Anh cười em vì tuyên ngôn tình yêu khiến anh hứng thú, đặc biệt là khi nó không được đáp lại.
Jace ngước nhìn khi người phục vụ đi qua. “Thế cta có tính kêu cà phê không đây?” anh hỏi lớn, ngắt ngang lời Alec.
Alec dừng lại, nguồn năng lượng giảm sút. “Tớ…”
Clary vội lên tiếng. “Những loại thịt sống này dành cho ai?” cô hỏi, chỉ vào trang thứ ba trong thực đơn.
“Người sói,” Jace nói. “Dù thi thoảng anh cũng không ngại làm một miếng bít tết còn rỉ máu đâu.” Anh vươn tay và giở cuốn thực đơn của Clary. “Món ăn của con người ở mặt sau.”
“Có món sinh tố mận-mơ và mật ong hoa dại ngon nhất trần đời đấy,” Isabelle xuất hiện cùng Simon bên cạnh. “Dịch vào nào,” cô nói với Clary, lúc này đang ngồi quá sát tường đến mức cảm nhận được những viên gạch lạnh cóng ép vào cánh tay. Simon, chuồi vào ngồi cạnh Isabelle, cười lỏn lẻn với cô nàng nhưng cô không buồn đáp lại. “Cậu nên uống thử xem.”
Clary không chắc Isabelle đang nói với cô hay Simon, vì thế cô không nói gì. Tóc Isabelle châm châm lên mặt cô, vương vất mùi một loại dầu thơm va ni gì đấy. Clary cố không hắt xì. Cô ghét dầu thơm hương va ni. Cô không bao giờ hiểu vì sao có mấy con nhỏ cứ muốn phải có mùi như đồ tráng miệng mới được chứ.
“Vậy chuyến đi tới Thành Phố Xương Trắng ra sao?” Isabelle hỏi và mở cuốn thực đơn. “Hai người đã phát hiện ra điều gì trong đầu Clary chưa?”
“Bọn anh có một cái tên,” Jace nói. “Magnus…”
“Im đi,” Alec rít, đánh mạnh Jace bằng cuốn thực đơn đã gập.
Jace có vẻ đau. “Chúa ơi.” Anh xoa xoa cánh tay. “Cậu làm sao đấy?”
“Nơi đây toàn những cư dân của Thế Giới Ngầm. Cậu thừa biết điều đó. Tớ nghĩ cậu nên giữ những chi tiết về cuộc điều tra của cta trong bí mật.”
“Cuộc điều tra á?” Isabelle cười lớn. “Giờ cta là thám tử à? Có lẽ cta nên có biệt hiệu nhỉ?”
“Ý kiến hay,” Jace nói. “Anh sẽ là nam tước Hotschaft Von Hugenstein.”
Alec phì nước ngược trở vào ly. Đúng lúc đó người phục vụ bàn tới lấy món. Tới gần thế này trông cô ta vẫn là cô gái tóc vàng xinh đẹp, nhưng đôi mắt khiến người ta mất bình tĩnh – xanh ngăn ngắt, không có lòng trắng hay con ngươi gì cả. Cô ta nở nụ cười khoe những chiếc răng nhỏ xíu sắc nhọn. “Có biết sẽ gọi gì chưa thế?”
Jace cười. “Như thường lệ,” anh nói, thế là nhận được nụ cười đáp lại từ cô phục vụ.
“Anh cũng thế nhé,” Alec phụ họa, dù chẳng nhận được nụ cười nào. Isabelle gọi sinh tố hoa quả yêu cầu đủ thứ, Simon gọi cà phê, và Clary, sau một hồi phân vân, gọi một cốc cà phê lớn và bánh kếp vị. Nữ phục vụ bàn nháy mắt với cô rồi đi mất.
“Cô ta cũng là ifrit nữa sao?” Clary hỏi, nhìn theo cô phục vụ bỏ đi.
“Kaelie á? Không. Anh nghĩ là bán tiên,” Jace nói.
“Cô ta có đôi mắt của yêu tinh,” Isabelle trầm ngâm nói.
“Mọi người thực sự không biết cô ta thuộc loài nào à?” Simon hỏi.
Jace lắc đầu. “Tôi tôn trọng riêng tư của cô ta.” Anh huých Alec. “Này, cho tớ đi ra một chút.”
Alec nhăn mặt và dịch người sang bên. Clary quan sát Jace trong khi anh bước tới chỗ Kaelie, lúc này đang dựa người vào quầy và nói chuyện với đầu bếp qua ô cửa giữa phòng bếp và quán. Tất cả những gì Clary có thể thấy về người đầu bếp là cái đầu cúi xuống đội mũ đầu bếp màu trắng. Đôi tai dài nhọn chĩa ra từ hai cái lỗ cắt ra ở hai bên mũ.
Kaelie quay lại cười với Jace khi anh vòng tay ôm cô ta. Cô ta dụi người vào. Clary tự hỏi liệu đây có phải ý của Jace khi bảo tôn trọng sự riêng tư của cô ta không.
Isabelle đảo mắt. “Anh ấy thực sự không nên trêu chọc nhân viên phục vụ như thế.”
Alec nhìn cô em. “Em không nghĩ cậu ấy thật lòng chứ? Ý anh là thích cô nàng ấy đấy.”
Isabelle nhún vai. “Cô ta thuộc Thế Giới Ngầm,”cô nàng nói, như thể điều đó giải thích cho mọi chuyện.
“Mình không hiểu,” Clary nói.
Isabelle hờ hững liếc qua cô. “Hiểu gì?”
“Toàn bộ chuyện về Thế Giới Ngầm này. Các cậu không săn đuổi họ, vì họ không hẳn là quỷ, nhưng họ cũng chẳng hẳn là người. Ma cà rồng cũng giết người, uống máu…”
“Chỉ có những ma cà rồng điên khùng mới đi uống máu người sống,” Alec xen vào. “Và với những kẻ đó, bọn tôi có quyền giết.”
“Và người sói thì sao? Chỉ là những con cún quá khổ à?”
“Họ giết quỷ,” Isabelle nói. “Vì thế họ không đụng tới bọn mình, bọn mình cũng chẳng điên mà động tới họ.”
Giống như cứ để nhện sống vì chúng ăn muỗi, Clary nghĩ. “Vậy thì họ đủ tốt để được tha cho sống, để nấu ăn cho các cậu, để các cậu tán tỉnh… nhưng lại không thực sự tốt thật sao? Ý mình là, không bằng con người ấy.”
Isabelle và Alec nhìn như thể cô đang nói tiếng Urdu. “Khác con người chứ,” cuối cùng Alec nói.
“Tốt hơn người thường à?” Simon hỏi.
“Không,” Isabelle quả quyết. “Cậu có thể biến người thường thành Thợ Săn Bóng Tối. Ý mình là, chúng mình cũng xuất phát từ người thường. Nhưng cậu không bao giờ biến đổi người thuộc Thế Giới Ngầm thành người của hội Clave được. Họ không thể chịu được những chữ rune.”
“Vậy là họ yếu?” Clary hỏi.
“Anh sẽ không nói vậy,” Jace nói và chui lại vào chỗ cạnh Alec. Tóc anh rối bù và trên má dính vệt son. “Ít nhất ‘yếu’ không dùng để miêu tả cho tiên bướm peri, thần đèn, quỷ lửa ifrit và có Chúa mới biết còn những loài nào nữa.” Anh cười cười khi Kaelie xuất hiện và mang thức ăn tới cho họ. Clary thận trọng nhìn đĩa bánh kếp. Chúng có vẻ ngon: màu nâu vàng, đẫm mật ong. Cô cắn một miếng khi Kaelie lộp cộp gõ guốc đi mất.
Bánh ngon tuyệt.
“Anh đã bảo em đây là quán ăn ngon nhất ở Manhattan mà,” Jace nói trong khi dùng tay bốc khoai tây rán.
Cô liếc nhìn Simon đang cúi đầu ngoáy cà phê.
“Mmmf,” Alec nhồm nhoàm nói.
“Đúng rồi,” Jace bảo. Anh nhìn Clary. “Đó không phải đường một chiều không đâu,” anh nói. “Không phải lúc nào bọn anh cũng thích người của Thế Giới Ngầm, và cũng không phải lúc nào họ cũng thích bọn anh. Vài trăm năm của Hòa Ước không thể xóa nhòa cả ngàn năm thù địch được.”
“Em chắc cô ấy không biết Hòa Ước là gì đâu, Jace à,” Isabelle ngậm thìa mà nói.
“Thực ra là tôi biết,” Clary nói.
“Tớ không biết,” Simon nói.
“Ừ, nhưng chẳng ai quan tâm xem cậu có biết không đâu.”
Jace ngắm nghía miếng khoai tây rán trước khi cắn. “Anh thích đi chơi cùng vài người của Thế Giới Ngầm ở vài nơi vài chỗ nhất định. Nhưng thực sự bọn anh không hề được mời tới tiệc của Thế Giới Ngầm.”
“Đợi đã.” Isabelle đột nhiên ngồi thẳng dậy. “Anh nói cái tên đó là gì nhỉ?” cô nàng hỏi Jace. “Cái tên trong đầu Clary ấy.”
“Anh đâu có nói,” Jace nói. “Ít nhất anh không nói ra hết. Magnus Bane.” Anh cười toe chế giễu Alec. “Vần với lại ‘cái thứ khó chịu cẩn thận quá đáng.’”
Alec lầm bầm chửi rủa vào trong cốc cà phê. Nghe như có vần với gì đấy nghe giống giống “né con chuột chũi thủy tinh.” Clary cười thầm.
“Không thể nào – nhưng em gần như chắc…” Isabelle lục lọi trong túi xách lôi ra mảnh giấy gấp màu xanh da trời. Cô vung vẩy nó giữa những ngón tay. “Nhìn cái này đi.”
Alec giơ tay lấy tờ giấy, liếc nhìn rồi nhún vai, giao cho Jace. “Đó là thiếp mời dự tiệc. Đâu đó ở Brooklyn,” anh ta nói. “Tớ ghét Brooklyn.”
“Đừng tỏ ra hợm hĩnh chứ,” Jace nói. Rồi, y như Isabelle, anh ngồi thẳng dậy mà nhìn trân trân. “Em lấy cái này ở đâu hả Izzy?”
Cô nàng ung dung vẫy tay. “Từ chính kelpie ở Xứ Quỷ ấy. Hắn nói nơi đó hay lắm. Hắn có cả chồng mấy tờ giấy mời này.”
“Cái gì thế?” Clary nóng nảy hỏi. “Anh có định cho cả bọn biết hay không đây?”
Jace xoay tờ giấy lại để tất cả cùng đọc được. Thiệp được viết tay trên loại giấy mỏng, gần giống giấy da dê, với những con chữ mảnh mai, duyên dáng, văn hoa. Tờ giấy thông báo về buổi tụ tập tại ngôi nhà khiêm tốn của Magnus Pháp sư Đại tài, kèm lời hứa cho người tham dự “một buổi tối nồng nhiệt với những điều kỳ thú ngoài sức tưởng tượng điên rồ nhất.”
“Magnus,” Simon nói. “Magnus như Magnus Bane á?”
“Tôi không nghĩ có nhiều pháp sư tên Magnus tại khu vực Ba Bang đâu,” Jace nói.
Nghe thế Alec chớp chớp mắt. “Vậy nghĩa là cta phải tới bữa tiệc?” anh ta dành câu hỏi đó chẳng cho riêng ai.
“Chúng ta chẳng phải làm gì sất,” Jace nói, lúc này đang đọc những dòng chữ trên thiệp mời. “Nhưng căn cứ vào tấm thiệp này, Magnus Bane là Đại Pháp sư khu vực Brooklyn.” Anh nhìn Clary. “Có điều này, anh hơi tò mò cái tên của Đại Pháp sư khu vực Brooklyn đang làm gì trong đầu em thế nhỉ.”
Tới nửa đêm tiệc mới bắt đầu, vì có cả một ngày trời rỗi rãi nên Jace và Alec biến mất trong kho vũ khí, trong khi Isabelle và Simon lại muốn đi dạo trong Công Viên Trung Tâm để cô nàng có thể chỉ cậu ấy xem giới thần tiên. Simon hỏi Clary có muốn đi cùng không. Cố nén cơn giận muốn giết người, cô từ chối với lý do kiệt sức.
Đó không hẳn là lời nói dối – cô đã kiệt sức, cơ thể vẫn yếu do di chứng của chất độc và dậy quá sớm. Cô nằm trên giường trong Học Viện, giày đá văng đi, sẵn lòng muốn ngủ, nhưng giấc ngủ lại không đến. Chất caffein trong huyết quản cô sủi bọt lèo xèo như nước có ga, còn đầu cô toàn những hình ảnh phóng đi vun vút. Cô mãi trông thấy gương mặt của mẹ đang nhìn xuống cô, vẻ hoảng loạn. Mãi trông thấy Ngôi sao tiên Tri, nghe thấy giọng nói của các Tu Huynh Câm vang lên trong đầu. Vì sao trong đầu cô lại có khối chặn chứ? Vì sao một pháp sư quyền năng lại làm điều đó, và vì mục đích gì? Cô tự hỏi mình có thể đã mất đi những ký ức nào, loại kinh nghiệm nào cô đã trải qua mà giờ không thể nhớ ra. Hay có lẽ nào mọi điều cô nghĩ mình có nhớ đều là dối trá…?
Cô ngồi dậy, không thể nghĩ ngợi thêm một chút nào nữa. Chân để trần, cô đi xuống hành lang và hướng tới thư viện. Có lẽ bác Hodge sẽ giúp được cô.
Nhưng thư viện hoàn toàn vắng người. Ánh sáng ban chiều xuyên qua tấm rèm đã được kéo sang bên, để lại những sọc vàng trên sàn. Trên bàn là cuốn sách mà bác Hodge đã đọc lúc trước, lớp bìa da đã sờn sáng bóng lên. Bên cạnh đó là con Hugo đang ngủ trên trạc lồng, rúc mỏ dưới cánh.
Mẹ mình biết cuốn sách đó, Clary nghĩ. Mẹ mình đã chạm vào nó, đã đọc nó. Sự đau đớn khi phải giữ một thứ thuộc về phần đời của mẹ cảm giác như gặm nhấm đáy dạ dày. Cô vội sải bước tới và đặt tay lên cuốn sách. Ấm áp quá, lớp bìa da được ánh mặt trời làm nóng lên. Cô lật mở nó.
Vật gì đó được gấp lại bung khỏi những trang giấy và rơi xuống sàn nhà dưới chân cô. Cô cúi xuống nhặt lên, không nghĩ ngợi gì mà mở ra ngay.
Là bức ảnh chụp một nhóm thanh niên, không lớn hơn Clary là mấy. Cô biết bức hình đã được chụp ít nhất hai mươi năm trước, không phải vì quần áo họ mặc – khá giống bộ đồ săn của Thợ Săn Bóng Tối, cũng đen tuyền và không có lấy một họa tiết – mà vì cô ngay lập tức nhận ra mẹ mình: Jocelyn, chỉ tầm mười bảy mười tám, tóc dài ngang lưng và gương mặt tròn hơn chút đỉnh, cằm và miệng ít nếp nhăn hơn. Trông mẹ giống mình, Clary sửng sốt.
Jocelyn đang vòng tay ôm một người mà Clary không nhận ra. Cô giật mình. Cô chưa bao giờ nghĩ mẹ có quan hệ tình cảm với ai ngoài bố, vì mẹ Jocelyn chưa từng hẹn hò hay tỏ ra có hứng thú với chuyện tình cảm. Mẹ không giống hầu hết các bà mẹ đơn thân khác, thường tới các buổi họp phụ huynh để tìm người có khả năng lấy về làm bố, hoặc như mẹ Simon, người luôn ghé vào xem qua lý lịch trích ngang của mình trên trang Jdate. Người thanh niên này khá điển trai, tóc nhạt màu đến nỗi gần như là trắng, mắt đen.
“Đó là Valentine,” một giọng nói vang lên ngang khuỷu tay cô. “Khi hắn mười bảy tuổi.”
Cô lùi lại, suýt làm rơi bức hình. Hugo giật mình tức tối quang quác lên rồi ổn định lại xuống lồng, lông vũ kêu sột soạt.
Đó là bác Hodge, đang tò mò nhìn cô.
“Cháu rất xin lỗi,” cô nói, đặt bức hình xuống bàn rồi vội vàng lùi lại. “Cháu không định lục lọi đồ đạc của bác.”
“Không sao.” Bác chạm vào bức hình bằng bàn tay dãi dầu đầy sẹo – một sự đối lập kỳ lạ với cổ tay áo vải tuýt phẳng phiu không một vết bẩn. “Dù gì nó cũng là một phần quá khứ của cháu.”
Clary lại lui tới gần bàn như thể bức hình có lực hút nam châm. Người con trai tóc trắng trong bức hình đang cười với Jocelyn, đôi mắt nheo nheo theo cách mắt các cậu con trai sẽ nheo nheo khi thực sự thích bạn. Không ai, Clary nghĩ, từng nhìn mẹ theo cách này. Valentine, với khuôn mặt lạnh, đẹp đẽ, trông hoàn toàn không giống bố cô, với nụ cười mở rộng và mái tóc sáng màu mà cô thừa hưởng. “Valentine nhìn… cũng được.”
“Được thì không phải,” bác Hodge nói, với một nụ cười méo mó, “nhưng hắn quyến rũ, thông minh và rất có sức thuyết phục. Cháu có nhận ra ai khác không?”
Cô lại nhìn. Đứng đằng sau Valentine, hơi chếch sang trái, là một người con trai gầy nhẳng với mái tóc nâu nhạt. Cậu ta có đôi vai to và cổ tay lóng ngóng của một người chưa nhổ giò. “Đó là bác à?”
Bác Hodge gật đầu. “Và…?”
Cô phải nhìn hai lần mới nhận ra một người nữa mình biết: quá trẻ tới khó nhận ra. Cuối cùng chính đôi kính của cậu ta đã tiết lộ thân phận cậu, cùng đôi mắt đằng sau cặp kính, màu xanh nhạt như nước biển. “Chú Luke,” cô nói.
“Lucian. Và đây.” Bác Hodge cúi đầu nhìn bức hình, chỉ vào một cặp đôi trông khá đẹp đôi, đều tóc đen, cô gái cao hơn cậu con trai nửa cái đầu. Gương mặt cô ta nhỏ hẹp và tràn ngập dã tâm, có thể nói là độc ác. “Vợ chồng Lightwood,” bác nói. “Và kia,” – bác chỉ cậu thiếu niên đẹp trai tóc xoăn đen, gương mặt vuông vức trắng trẻo – “là Micheal Wayland.”
“Chú ấy không giống Jace chút nào.”
“Jace giống mẹ.”
“Đây là kiểu ảnh tập thể lớp ạ?” Clary hỏi.
“Không hẳn. Đây là bức hình chụp hội Circle, vào năm nó được thành lập. Đó là lý do vì sao Valentine, tay thủ lĩnh, đang đứng trước, và Luke đứng ngay bên phải hắn – cậu ấy là phó thủ lĩnh của Valentine.”
Clary nhìn đi nơi khác. “Cháu vẫn không hiểu vì sao mẹ cháu lại gia nhập tổ chức thế này.”
“Cháu phải hiểu…”
“Bác cứ nói thế mãi,” Clary nóng nảy nói. “Cháu không hiểu vì sao cháu phải hiểu mọi điều. Bác kể cho cháu nghe sự thực, và cháu hoặc hiểu hoặc không.”
Khóe miệng bác Hodge giật giật. “Nếu cháu đã nói vậy.” Bác dừng lại và vươn tay nựng con Hugo đang khệnh khạng đi đi lại lại trên cạnh bàn. “Hòa Ước chưa bao giờ được mọi thành viên trong hội Clave ủng hộ. Đặc biệt là các gia đình có dòng dõi lâu đời, bám víu vào thời xưa cũ, khi những giống loài của Thế Giới Ngầm là chỉ để tàn sát. Không phải chỉ vì thù hận mà vì làm thế khiến họ an toàn hơn. Đương đầu với một nguy cơ là số đông, là một nhóm người, bao giờ cũng dễ dàng hơn là những cá nhân đơn lẻ phải được kiểm tra đánh giá từng người một… và hầu hết bọn bác đều quen biết ai đó bị kẻ thuộc Thế Giới Ngầm đả thương hoặc giết hại. Không có gì,” bác nói thêm, “giống như tính đạo nghĩa chuyên chế của tuổi trẻ. Một đứa bé dễ dàng tin vào điều tốt và điều xấu, vào ánh sáng và bóng tối. Valentine chưa bao giờ quên điều đó – cả chủ nghĩa hủy diệt lẫn những lời thề đầy nhiệt huyết đối với bất cứ thứ gì hắn quy là ‘không phải người.’”
“Nhưng hắn yêu mẹ cháu,” Clary nói.
“Đúng,” bác Hodge đáp. “Hắn yêu mẹ cháu. Và hắn yêu Idris…”
“Idris thì có gì hay chứ?” Clary hỏi, nghe thấy sự cộc cằn trong giọng nói mình.
“Nơi đó từng là,” bác Hodge dợm trả lời, nhưng rồi tự chữa lại, “vẫn là quê nhà – cho các Nephilim, nơi họ có thể là chính mình, một nơi họ không cần lẩn trốn hay ẩn thân. Một nơi được Thiên Thần chúc phúc. Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một thành phố nếu cháu chưa từng thấy Alicante với những tòa tháp pha lê. Nó đẹp hơn cháu có thể tưởng tượng. “Giọng nói bác mang nỗi đau còn rỉ máu.
Clary đột nhiên nghĩ tới giấc mơ. “Liệu có từng có… những buổi khiêu vũ tại Thành phố Pha Lê không ạ?”
Bác Hodge chớp mắt như vừa bừng tỉnh khỏi giấc mơ. “Mỗi tuần. Bác chưa bao giờ tham dự, nhưng mẹ cháu thì có. Cả Valentine nữa.” Bác khe khẽ chậc lưỡi. “Bác giống mọt sách hơn. Bác dành cuộc đời mình tại thư viện ở Alicante. Những cuốn sách cháu thấy ở đây chỉ là một phần rất nhỏ trong kho báu mà thành phố ấy có. Bác nghĩ có lẽ tới một ngày nào đó bác nên gia nhập hội Tu Huynh Câm, nhưng tất nhiên sau những điều bác làm, họ sẽ không nhận bác.”
“Cháu rất tiếc,” Clary lóng ngóng bảo. Đầu óc cô vẫn ngập tràn hình ảnh trong mơ. Liệu có đài phun nước mỹ nhân ngư tại nơi họ khiêu vũ không? Liệu Valentine có mặc toàn đồ trắng và vì thế mẹ nhìn thấy những Ấn Ký trên da kể cả qua lớp áo?
“Cháu giữ bức hình này được không ạ?” cô hỏi và chỉ bức hình.
Một thoáng lưỡng lự loáng qua mặt bác Hodge. “Bác mong là cháu không đưa nó cho Jace xem,” bác nói. “Thằng bé đã có quá nhiều chuyện để đấu tranh rồi, không cần thêm chuyện bức hình người bố quá cố của nó xuất hiện nữa.”
“Tất nhiên rồi ạ.” Cô ôm hình vào ngực. “Cám ơn bác.”
“Không có gì.” Bác nhìn cô một cách dò hỏi. “Cháu tới thư viện tìm bác, hay vì mục đích gì khác?”
“Cháu tự hỏi bác có nghe tin gì từ hội đồng Clave chưa. Về Cốc Thánh ấy. Và… về mẹ cháu.”
“Bác nhận được một bức thư ngắn vào sáng nay.”
Cô có thể nghe ra sự hăm hở trong giọng nói của mình. “Họ có cho người tới không? Những Thợ Săn Bóng Tối ấy ạ?”
Bác Hodge nhìn lảng đi. “Có.”
“Vì sao họ không ở lại đây?”
“Vì có người nghi ngại rằng Học Viện đang bị Valentine theo dõi. Hắn biết càng ít càng tốt.” Bác nhìn ra sự buồn bã trên nét mặt cô và thở dài. “Bác rất tiếc vì không thể nói cho cháu biết nhiều hơn. Bác không được Clave tin tưởng nhiều gì cho cam, kể cả bây giờ. Họ nói cho bác rất ít. Bác ước gì có thể giúp cho cháu.”
Có gì đó buồn bã trong giọng nói bác khiến cô ngại không muốn dồn hỏi thêm. “Bác có thể chứ,” cô nói. “Cháu không ngủ được. Cháu mải nghĩ quá nhiều. Bác có thể…”
“Và, đầu óc không thư thái.” Giọng bác ngập tràn sự thông cảm. “Vụ này thì bác có thể cho cháu chút gì đấy. Đợi ở đây nhé.”
Thứ thuốc nước bác Hodge đưa cho cô có mùi dễ chịu của cây bách xù và lá cây. Clary mở nắp lọ và hít hà mãi khi đi quay trở ra hành lang. Không may thay là lọ vẫn mở khi cô vào phòng và thấy Jace đang nằm ngả ngớn trên giường, nhìn cuốn tập vẽ phác thảo của cô. Với một tiếng hét nho nhỏ vì kinh ngạc, Clary làm rơi cái lọ; nó nảy lên trên sàn, làm sánh thứ chất lòng màu xanh lá cây trong đó ra sàn gỗ cứng.
“Ôi trời,” Jace nói, ngồi thẳng dậy, bỏ cuốn tập sang bên. “Anh hy vọng thứ đó không quan trọng lắm.”
“Nó là thuốc ngủ ấy mà,” cô giận dữ đáp, dùng mũi giày đá cái lọ. “Và giờ thì không còn rồi.”
“Giá mà Simon ở đây. Có thể cậu ta sẽ làm em chán tới buồn ngủ nhỉ.”
Clary không có tâm trạng để bảo vệ Simon. Thay vào đó cô ngồi xuống giường, cầm cuốn tập lên. “Tôi thường không cho người khác xem cái này đâu.”
“Vì sao không?” Jace trông có vẻ bù xù, như thể vừa ngủ dậy. “Em là họa sĩ giỏi mà. Đôi khi thậm chí còn xuất sắc nữa ấy chứ.”
“À, vì – nó giống như một cuốn nhật ký vậy. Trừ việc tôi không nghĩ bằng từ ngữ, tôi nghĩ bằng tranh, có bao nhiêu tôi vẽ ra hết. Nhưng nó vẫn là đồ riêng tư.” Cô tự hỏi liệu mình nói nghe có vẻ điên khùng như cô đang nghi không.
Jace có vẻ bị tổn thương. “Một cuốn nhật ký mà không có bức tranh nào về anh sao? Bao nhiêu cảnh tưởng tượng tình tứ cuồng nhiệt đâu cả rồi? Còn những bìa tiểu thuyết lãng mạn nữa? Những…”
“Chẳng lẽ tất cả những cô gái gặp anh đều yêu anh sao?” Clary bình thản hỏi.
Câu hỏi dường như làm Jace mất hứng, như một mũi kim chích cho bong bóng xì hơi. “Không phải là yêu,” anh nói, sau khi ngừng một lúc. “Ít nhất…”
“Anh có thể thử đừng lúc nào cũng đi quyến rũ người khác,” Clary nói. “Như thế mọi người sẽ dễ chịu hơn chút đỉnh.”
Anh nhìn xuống đôi tay, chúng đã giống tay bác Hodge rồi, lốm đốm những vết sẹo nhỏ trắng, dù da anh còn căng mịn và chưa có nếp nhăn. “Nếu em đã mệt, anh có thể giúp em ngủ,” anh nói. “Kể chuyện cho em nghe.”
Cô nhìn anh. “Anh nghiêm túc đấy chứ?”
“Anh luôn nghiêm túc.”
Cô tự hỏi liệu vì quá mệt mỏi có khiến cả hai có chút điên khùng không. Nhưng trông Jace không mệt. Anh có vẻ buồn. Cô đặt cuốn tập xuống kệ đầu giường, nằm xuống, nghiêng người cuộn ôm lấy cái gối. “Được rồi.”
“Nhắm mắt lại nào.”
Cô nhắm mắt. Cô có thể thấy lưu ảnh của ánh đèn ở mí mắt trong, giống như ánh sao nhỏ xíu.
“Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé,” Jace kể.
Clary lập tức ngắt lời. “Một cậu bé Thợ Săn Bóng Tối?”
“Tất nhiên.” Chút vui vẻ thoáng qua thêm chút gia vị cho giọng nói của anh. Rồi nó biến mất. “Khi cậu bé đó lên sáu, bố tặng cậu ta một con chim cắt để cậu ấy huấn luyện. Chim cắt là loài ăn thịt – bố bảo, chúng giết những con chim khác và chúng, là những Thợ Săn Bóng Tối của bầu trời.
“Con chim cắt không thích cậu bé, và cậu bé cũng chẳng ưa gì nó. Cái mỏ nhọn của nó làm cậu lo lắng, đôi mắt sáng quắc của nó dường như lúc nào cũng dõi theo cậu. Nó sẽ dùng mỏ và móng vuốt để làm cậu bị thương nếu cậu dám tới gần: Trong nhiều tuần cổ tay và bàn tay cậu lúc nào cũng chảy máu. Cậu không mảy may hay biết rằng thật ra bố đã chọn cho cậu con chim đã sống trong môi trường hoang dã cả năm trời, và vì thế, chuyện huấn luyện nó dường như là không tưởng. Nhưng cậu bé đã cố, vì bố bảo cậu phải làm con chim biết nghe lời, còn cậu thì muốn bố vui lòng.
“Cậu thường ở cùng con chim, bắt nó thức bằng cách nói chuyện với nó, thậm chí chơi nhạc cho nó nghe, vì một con chim mệt mỏi sẽ dễ bị thuần hóa hơn. Cậu dung các trang bị: dây buộc chân chim cắt, mũ trùm, dây cuộn buồm, dây xích để buộc con chim vào cổ tay cậu. Cậu đáng ra phải làm mù mắt con chim cắt, nhưng cậu không thể – thay vào đó cậu ngồi tại nơi con chim có thể nhìn thấy khi cậu chạm và gãi cánh nó, để nó sẵn sàng tin tưởng cậu. Cậu cho nó ăn trên tay mình, và lúc đầu nó không chịu. Sau đó nó ăn ngốn nghiến đến mức cái mỏ làm lòng bàn tay cậu bị thương. Nhưng cậu bé rất vui, vì mọi chuyện đã tiến triển, và vì cậu muốn con chim hiểu mình, kể cả nếu con chim phải uống máu cậu để điều đó xảy ra.
“Cậu bắt đầu thấy con chim cắt thật đẹp, rằng đôi cánh thon gọn của nó dành cho những chuyến bay tốc độ, rằng nó mạnh mẽ và uyển chuyển, dũng mạnh và nhẹ nhàng. Khi nó lao xuống mặt đất, nó di chuyển như một tia chớp. Khi nó học lượn vòng và đậu xuống cổ tay cậu, cậu gần như hét lên vì sung sướng. Thi thoảng con chim sẽ nhảy lên vai cậu và cọ mỏ vào tóc cậu. Cậu biết con chim cắt yêu mến mình, và khi cậu biết chắc con chim không chỉ đã được huấn luyện mà còn thuần hóa một cách hoàn hảo, cậu tới gặp bố và cho ông xem thành quả, mong ông sẽ tự hào.
“Thay vào đó ông cướp đi con chim, giờ đã được thuần hóa và tin người, rồi bẻ cổ nó. ‘Bố bảo con làm cho nó biết vâng lời,’ bố nói và ném cái xác không hồn của con chim cắt xuống đất. ‘Vậy mà con lại dạy nó yêu quý con. Chim cắt không phải thú cưng: chúng là sinh vật mạnh mẽ và hoang dã, dữ tợn và tàn độc. Con chim này không phải đã được thuần hóa; nó đã bị làm cho hư rồi.’
“Sau đó, khi bố bỏ đi, cậu bé khóc thương cho con chim, tới khi bố cho người giúp việc tới mang xác con chim đi chôn. Cậu bé không bao giờ khóc nữa, và cậu không bao giờ quên điều mình học được: yêu thương là hủy diệt, và được yêu sẽ bị diệt.”
Clary, nãy giờ vẫn nằm im, gần như không thở được, ngồi dậy và mở mắt. “Câu chuyện ghê quá,” cô phẫn nộ.
Jace co chân, tực cằm lên gối. “Thật sao?” anh tư lự.
“Bố cậu bé đó thật tệ. Đây là câu chuyện kể về nạn bạo hành trẻ em. Lẽ ra tôi phải biết rằng giới Thợ Săn Bóng Tối nghĩ thế nào về truyện kể trước giờ đi ngủ chứ nhỉ. Bất cứ truyện gì khiến người ta gặp phải những cơn ác mộng kinh hoàng…”
“Thi thoảng các Ấn Ký có thể khiến em gặp phải những cơn ác mộng kinh hoàng đấy,” Jace nói. “Nếu em có nó khi còn quá nhỏ.” anh trầm ngâm nhìn cô. Ánh sáng của buổi chiều tà lọt qua những tấm rèm và chia gương mặt anh thành hai nửa đối lập. Chiaroscuro, cô nghĩ. Nghệ thuật tương phản sáng tối. “Một câu chuyện hay nếu em suy nghĩ về nó,” anh nói. “Bố cậu bé chỉ cố làm cậu ấy mạnh mẽ hơn. Cứng rắn hơn.”
“Nhưng anh cũng nên học cách mềm dẻo đi một chút,” Clary ngáp dài và nói. Dù nội dung câu chuyện kinh khủng, nhưng âm điệu trong giọng nói của Jace khiến cô buồn ngủ. “Không anh sẽ bị bẻ gẫy.”
“Sẽ không nếu em đủ mạnh mẽ,” Jace quả quyết. Anh vươn tay tới, cô cảm nhận mu bàn tay anh sượt qua má mình; cô nhận thấy mình đang dần nhắm mắt. Kiệt sức khiến xương cốt cô nhũn ra; cô có cảm giác như mình sẽ bị cuốn đi và biến mất. Khi chìm vào giấc ngủ, cô nghe có tiếng vọng trong đầu. Bố cho anh mọi thứ anh muốn. Ngựa, vũ khí, thậm chí là một con chim cắt đi săn.
“Jace,” cô cố nói. Nhưng cơn buồn ngủ đã bám lấy cô; kéo dìm cô xuống, và cô im lặng.
Cô tỉnh giấc bởi giọng giục giã. “Dậy đi!”
Clary từ từ mở mắt. Hai mắt dinh dính, nhắm tít vào nhau. Có gì đó ngưa ngứa trên mặt cô. Tóc một ai đó. Cô vội vàng ngồi dậy, đầu đập mạnh vào cái gì đó.
“Ối! Cậu đập phải đầu mình rồi!” Một giọng con gái. Isabelle. Cô bật ngọn đèn bên giường và cau có nhìn Clary, tay xoa xoa da đầu. Cô nàng có vẻ lấp lánh dưới ánh đèn – đang mặc chiếc váy dài màu bạc và áo kim tuyến, móng tay sơn màu như đồng xu lóng lánh. Những hạt cườm bạc gắn trên mái tóc đen. Cô nàng giống nữ thần mặt trăng. Clary ghét con nhỏ này.
“Ừm, không ai bảo cậu phải nhoài lên người mình như vậy. Cậu dọa mình chết khiếp.” Clary xoa đầu mình. Chỗ đau ngay trên lông mày cô. “Vậy cậu muốn gì nào?”
Isabelle chỉ ra bầu trời đêm ngoài ô cửa sổ. “Gần nửa đêm rồi. Chúng mình phải tới bữa tiệc thôi, và cậu vẫn chưa ăn mặc chỉnh tề.”
“Mình định mặc đồ thế này thôi,” Clary nói, chỉ vào chiếc quần bò và chiếc áo phông. “Có vấn đề gì không?”
“Có vấn đề gì không ấy à?” Isabelle trông như sắp xỉu. “Tất nhiên là có rồi! Không có kẻ nào thuộc Thế Giới Ngầm lại ăn mặc mấy món đồ đó. Và đây lại là một bữa tiệc nữa chứ. Cậu sẽ nổi bần bật như con lật đật nếu ăn mặc… xuề xòa,” cô nàng nói xong, nhưng có vẻ từ cô nàng định dùng còn tệ hơn từ “xuề xòa” nhiều.
“Mình không biết chúng ta phải chưng diện lên,” Clary chua chát nói. “Mình không mang quần áo dự tiệc đi.”
“Cậu mượn đồ của mình là được rồi.”
“Ôi không.” Clary nghĩ tới chiếc áo phông và quần bò quá khổ. “Ý mình là, mình không thể. Thật đấy.”
“Mình thực sự thà mặc quần áo của mình còn hơn,” Clary cự nự, khó chịu vặn vẹo người khi Isabelle đẩy cô đến trước tấm gương dài chạy ngang phòng ngủ.
“Ừm, cậu không thể,” Isabelle nói. “Cậu trông như bé gái tám tuổi, và tệ hơn, trông cậu giống như người thường.”
Clary cắn chặt răng phản kháng. “Chẳng có đồ nào của cậu vừa với mình cả.”
“Để xem xem sao nào.”
Clary quan sát Isabelle trong gương trong khi cô nàng lục lọi tủ quần áo của mình. Phòng cô nàng trông như là có một trái bóng sàn nhảy disco vừa nổ tung ra vậy. Những bức tường màu đen và lấp lánh những cuộn xoáy sơn màu vàng. Quần áo vương vất khắp nơi: trên chiếc giường đen chăn chiếu lộn xộn, máng trên lưng mấy chiếc ghế gỗ, tràn ra khỏi tủ chìm lẫn tủ quần áo cao cao tực vào tường. Chiếc bàn trang điểm, với gương được viền bằng lông vũ màu hồng, phủ đầy kim tuyến, kim sa và những hộp phấn má hồng rồi phấn nền.
“Phòng đẹp đấy,” Clary nói, lòng thèm khát nghĩ đến những bức tường sơn vàng cam trong phòng ngủ mình.
“Cám ơn. Mình tự sơn đấy.” Isabelle từ trong tủ chìm thò ra, cầm thứ gì đó màu đen và bó sát. Cô ném cho Clary.
Clary giơ bộ đồ lên, để nó duỗi ra. “Trông nhỏ kinh.”
“Nó co dãn mà,” Isabelle nói. “Giờ mặc vào đi.”
Vội vàng, Clary chui vào cái nhà tắm nhỏ sơn màu xanh da trời chói lóa. Cô vất vả chui đầu qua chiếc váy – chật ních, hai quai dây mảnh tanh. Cố không hít quá sâu, cô trở lại phòng ngủ, nơi Isabelle đang ngồi trên giường, đang đeo nhẫn ngón chân vào bàn chân đã mang xăng đan. “Cậu may mắn vì có ngực phẳng lì như thế,” Isabelle nói. “Mình không thể chui nổi vào cái đó mà không có áo ngực.”
Clary nhăn mặt. “Ngắn quá.”
“Không hề ngắn. Nhìn rất ổn,” Isabelle nói và thò chân vào gầm giường khua khoắng. Cô nàng đá ra một đôi bốt và đôi tất lưới. “Đây, cậu có thể mặc mấy thứ này với cái váy ấy. Chúng sẽ làm cậu trông cao hơn.”
“Được rồi, vì mình ngực phẳng và lùn.” Clary kéo gấu váy xuống. Nó chỉ chấm đến mé trên đùi. Gần như cô chẳng bao giờ mặc váy, chứ đừng nói tới váy ngắn, vì thế nhìn thấy chân mình lồ lộ ra nhiều thế này thật đáng sợ. “Nếu với mình nó còn ngắn thế này, cậc mặc còn ngắn tới mức nào nữa?” cô nói lớn suy nghĩ của mình với Isabelle.
Isabelle cười. “Mình mặc nó làm áo sơ mi mà.”
Clary ngồi phịch xuống giường kéo tất và đi bốt. Đôi bốt hơi lỏng quanh bắp chân, nhưng không bị tuột. Cô cột dây bốt lên và đứng dậy, nhìn ngắm mình trong gương. Cô phải thừa nhận rằng sự kết hợp giữa váy đen ngắn, tất lưới và bốt cao cổ thật quá ấn tượng. Thứ duy nhất không hợp là…
“Tóc cậu,” Isabelle nói. “Cần phải làm lại tóc thôi. Cực kỳ cần. Ngồi xuống.” Cô nàng hống hách chỉ vào cái bàn trang điểm. Clary ngồi, và nhắm chặt mắt trong khi Isabelle giằng tháo bím tóc cô ra – không hề nhẹ nhàng chút nào – chải mượt, rồi ấn cái gì giống như cặp ghim vào trong. Cô mở mắt ngay khi bông phấn đập vào mặt cô, khiến đám mây kim tuyến bay ra. Clary ho và nhìn Isabelle với vẻ buộc tội.
Cô gái kia cười lớn. “Đừng nhìn mình. Nhìn gương kìa.”
Nhìn vào gương, Clary thấy Isabelle đã búi tóc mình lại thành cuộn duyên dáng trên đỉnh đầu, và cố định bằng mấy cái cặp ghim lấp la lấp lánh. Clary đột nhiên nhớ tới giấc mơ, mớ tóc nặng kéo trĩu đầu cô xuống, nhảy cùng Simon… Cô bồn chồn cựa quậy.
“Đừng đứng dậy vội,” Isabelle nói. “Chúng ta chưa xong đâu.” Cô nàng cầm cây chì kẻ mắt lên. “Mở mắt ra nào.”
Clary mở to mắt, nhờ vậy mà cô không khóc. “Isabelle, mình hỏi cậu điều này được không?”
“Được,” Isabelle nói trong khi đang vẽ mắt một cách điệu nghệ.
“Alec là gay à?”
Cổ tay Isabelle giật nảy. Cây chì kẻ trượt đi, vẽ một vệt đen kéo dài từ khóe mắt Clary tới tận chân tóc. “Ồ, chết tiệt,” Isabelle nói và đặt chì xuống.
“Không sao đâu,” Clary cất tiếng và đưa tay lên mắt.
“Không, có sao đấy,” Isabelle gần như bật khóc lục lọi đống hầm bà lằng trên mặt bàn trang điểm. Rốt cuộc cô nàng cũng tìm ra một miếng bông và đưa cho Clary. “Đây. Dùng cái này.” Cô ngồi xuống mép giường, những cái vòng chân leng keng và nhìn Clary qua mái tóc xổ xuống. “Sao cậu đoán ra?” cuối cùng cô nàng nói.
“Mình…”
“Cậu nhất định không được nói cho bất cứ ai đấy,” Isabelle nói.
“Kể cả Jace?”
“Đặc biệt là Jace!”
“Được rồi!” Clary nghe thấy sự ngượng nghịu trong giọng mình. “Mình nghĩ mình không nhận ra chuyện này quan trọng thế nào.”
“Với bố mẹ mình thì quan trọng lắm,” Isabelle bình tĩnh đáp. “Họ sẽ từ anh ấy rồi ném anh ấy ra khỏi Clave…”
“Sao cơ, người ta không thể vừa là dân gay vừa là Thợ Săn Bóng Tối à?”
“Không có quy định chính thức về chuyện đó. Nhưng mọi người không thích. Ý mình là, những người độ tuổi chúng ta thì đỡ hơn – mình nghĩ thế,” cô nói thêm, không chắc chắn lắm, và Clary nhớ lại xem số lượng người khác bằng tuổi mà Isabelle thực sự đã gặp ít ỏi đến như thế nào. “Nhưng lớp già thì, không. Nếu chuyện đó xảy ra, người ta không nhắc tới.”
“Ồ,” Clary nói, ước gì chưa từng đề cập đến chuyện này.
“Mình yêu anh mình,” Isabelle nói. “Mình có thể làm mọi điều vì anh. Nhưng mình lại chẳng thể làm gì cả.”
“Ít nhất là anh ấy có cậu,” Clary ngượng nghịu nói, và cô thoáng nghĩ tới Jace, người nghĩ tình yêu là thứ sẽ nghiền nát con người ta thành từng mảnh. “Cậu có thực sự nghĩ Jace sẽ… để tâm không?”
“Mình không biết,” Isabelle nói bằng cái giọng ám chỉ rằng cô nàng không muốn nói thêm về đề tài này nữa. “Nhưng có phải lựa chọn của mình đâu chứ.”
“Mình nghĩ là không,” Clary nói. Cô ngoài người tới gần gương, dùng miếng bông Isabelle đưa để lau đường kẻ hỏng. Khi ngồi xuống, cô ngạc nhiên tới suýt làm rơi miếng bông: Isabelle đã làm gì với cô thế này? Xương gò má cô trông góc cạnh và thon gọn, mắt sâu mơ màng và mang màu xanh lá cây lúng liếng.
“Trông mình giống mẹ,” cô nói trong ngạc nhiên.
Isabelle nhướn mày. “Cái gì? Quá đứng tuổi á? Có lẽ thêm ít kim tuyến…”
“Không kim tuyến gì nữa đâu,” Clary vội nói. “Không, rất đẹp. Mình rất thích.”
“Tuyệt.” Isabelle bật phắt khỏi giường, vòng đeo chân kêu lanh canh. “Chúng ta đi thôi.”
“Mình cần về phòng mang theo vài thứ,” Clary nói và đứng dậy. “Mà – mình có cần mang vũ khí đi không? Cậu có mang gì không?”
“Mình có nhiều lắm.” Isabelle mỉm cười, đá cao chân, khiến vòng chân kêu lanh canh như chuông Giáng Sinh. “Ví dụ như những thứ này. Cái bên trái là hợp kim vàng bạc, cực độc đối với quỷ, và cái bên trái là vòng sắt được vảy nước thánh, nếu chẳng may mình gặp vài ma cà rồng kém thân thiện hoặc thậm chí là đám tiên nữ – chúng ghét sắt mà. Trên cả hai đều có khắc chữ rune sức mạnh, vì thế mình có thể mang theo cú đá cho nặng vào.”
“Săn quỷ là thời trang,” Clary nói. “Mình chưa bao giờ nghĩ chúng đi cùng nhau.”
Isabelle cười khanh khách. “Ngạc nhiên chưa!”