Tối đến Di Thi Niên ngồi tụ tập cùng uống rượu với nhóm gia binh, thấy Lý Vị cầm túi rượu mà hồn treo ngược cành cây, anh ta vỗ vỗ vai hắn, ngồi xuống bên cạnh: “Ngay mai Tát bảo sẽ quay về Ngọc Môn quan.
Mẹ kiếp, đám Đột Quyết dã man kia, đi khắp nơi quấy rối gà bay chó sủa, mấy người anh em của chúng ta vô duyên vô cớ bị bọn chúng hại uổng cái mạng.”
Di Thi Niên thở dài, ngửa đầu hớp ngụm rượu, nhìn bầu trời đêm tự nhiên cũng sinh ra đôi chút âu sầu.
Nhóm gia binh này do Di Thi Niên dẫn đầu, đi theo Khang Đa Lộc ra vào Tây Vực nhiều năm, sống một cuộc đời dựa vào mũi đao vấy máu.
Mặc dù đã quá quen với chuyện sinh tử, nhưng lần này xảy ra tai nạn trên đường, lòng dạ anh ta không thể nào thoải mái thổi.
“Thi thể đưa về hết sao?” Lý Vị hỏi, “Đưa về an táng tử tế thôi.”
“Thiêu rồi.” Di Thi Niên nhún vai, ngữ khí nhẹ bẫng thờ ơ như làn gió thoáng, “Bụng trống hoác, bị sói moi khoét sạch, chẳng đành lòng nhìn thêm, dứt khoát thiêu thành tro, vậy còn dễ chịu hơn được phần nào.”
Lý Vị hiểu: “Cho nhà người ta thêm chút tiền, cũng coi như là tận tâm.”
Hết một tuần rượu, Lý Vị đang định cáo từ, Di Thi Niên gọi hắn lại, lấy từ một góc bí mật ra hai túi nước dúi vào trong tay hắn, nháy mắt ra hiệu: “Đi đường cẩn thận.”
Lý Vị mỉm cười: “Sau này sẽ còn gặp, bảo trọng.”
“Có duyên tái kiến.”
Nhóm thương lữ đều đã ngủ say, bóng đêm mờ mịt, vì sao ảm đạm, bấy giờ cũng là lúc Lý Vị nổi ý, hắn đánh thức Xuân Thiên dậy: “Chúng ta đi thôi.”
“Đi đâu ạ?” Nàng trở mình đứng lên khỏi tấm thảm nỉ.
Truy Lôi đã dẫn theo ngựa của Xuân Thiên đi gặm cỏ cả con đường từ sớm, chẳng biết giờ đã lang thang ở đâu.
Lý Vị ra dấu cho nàng đừng lên tiếng, rồi lặng lẽ đưa nàng vòng qua nhóm phong tử đứng phía trên thành, đi vào vùng đất hoang tàn mênh mông u ám.
“Chúng ta không thể tiếp tục đi dọc theo trạm báo hiệu được nữa.
Hiện giờ an ninh đường Y Ngô bất ổn, trước khi Ngọc Môn quan phái binh đến, bọn giặc cướp đường sẽ lợi dụng vụ náo loạn ở trạm Lãnh Tuyền lần này, nhắm vào mục tiêu là thương lữ để cướp bóc, khâu kiểm tra của trạm kiểm soát cũng sẽ càng ngày càng gắt gao.”
Xuân Thiên nhíu mày, nhìn Lý Vị đăm đăm: “Chắc chắn đại gia có cách, đúng không ạ?”
“Cứ dây dưa lần lữa cũng không biết phải đợi tới khi nào, nhanh lên thôi.” Lý Vị hạ quyết tâm, “Chúng ta đi ngang sa mạc Mạc Hạ Diên, qua tám chốt báo hiệu còn lại, thẳng đến Y Ngô.”
“Sa mạc Mạc Hạ Diên? Có phải chính là Mạc Hạ Diên “trên không chim bay, dưới không thú chạy, không cỏ không nước, biển cát ma quỷ” từng được nhắc trong sách không? Vùng sa mạc này rộng tám trăm dặm, toàn là cát chảy, ban đêm còn xuất hiện cả ma trơi.” Xuân Thiên giật mình hỏi.
“Thế mà cô cũng biết à.” Hắn nở nụ cười, ngoảnh đầu hỏi nàng, “Cô, có dám đi không?”
Nàng giật giật môi.
Hắn nhìn khung cảnh hoang vu trống trải: “Mạc Hạ Diên hay còn được gọi bằng cái tên sa mạc Quỷ.
Có năm con quỷ là nóng, gió, cát, oán, chết hống hách lộng hành, đáng sợ hơn nhiều so với chuyện xảy ra những ngày gần đây, bất cứ lúc nào ta cũng có khả năng bỏ mạng ở nơi đó.”
Đôi mắt nàng bừng lên tia sáng, thậm chí là đôi phần hưng phấn: “Đương nhiên là tôi dám.
Hơn nữa, có đại gia ở đây, chẳng có gì phải sợ hết.”
Lý Vị bất lực cười cười, đây cũng có thể coi là một tiểu nha đầu không biết trời cao đất rộng.
Truy Lôi dẫn ngựa của Xuân Thiên đứng chờ cách đó không xa, thấy chủ nhân tiến lại, nó hí một tràng rồi lộc cộc bước tới.
Nàng cảm thấy tim mình đang đập thình thịch: “Đại gia, ta đi hướng nào?”
“Có một con đường nằm ẩn trong sa mạc Mạc Hạ Diên, là đường nhanh nhất dẫn từ Ngọc Môn đến Y Ngô, chúng ta gọi là đường Đại Hải.
Thương lữ bình thường không đi đường đó, cũng hiếm người biết, nhưng thường được dùng để truyền lệnh trong quân đội.” Hắn ngồi trên lưng ngựa đón lấy nàng, “Cô đi cùng ta.”
Xuân Thiên xoay người lên ngựa, Lý Vị đưa cho nàng một túi nước: “Hạn hán ở Mạc Hạ Diên rất khủng khiếp, ta sẽ phải đi sáu bảy ngày mới có nguồn nước tiếp tế.
Hiện giờ khí trời dần chuyển nóng, mặt trời đổ lửa nướng cả đất cát, một cuộc hành hạ ghê gớm.
Cố gắng buổi tối lên đường, ban ngày nghỉ ngơi.
Ở sa mạc, uống nước phải nhấp từng miếng một, không thể dốc một hơi uống sạch, tìm cách làm sao giữ nước trong miệng một lúc lâu, căn giờ, định lượng.
Những thức ăn khác đừng ăn quá no, chắc dạ ba phần là được rồi.
Hiểu chưa?”
“Vâng.” Xuân Thiên gật đầu thật mạnh.
Bầu trời khoác lên một màu trắng bạc.
Xuân Thiên quay đầu, bấy giờ mới phát giác họ đã đi xa cách trạm Lãnh Tuyền mấy chục dặm.
Nàng không biết mình đang ở đâu, chỉ thấy những gò đất hoang nối liền nhau, đất đá nhuộm vàng gập ghềnh.
Phóng mắt dõi ra xa, cảnh vật trông giống như con đường lúc đi qua Hoàng Hà.
Khi đó là mùa lũ của Hoàng Hà, đại mạc cuồn cuộn, những cơn sóng đục vàng kéo dài không dứt.
Cỏ lác trơ lì mọc trên sườn dốc chính là loài thủy sinh bập bềnh trên dòng nước vàng sẫm.
Băng qua một bãi đá nát vụn, trèo lên ngọn đồi cao bồi đắp trên hoàng thổ, trước mắt lại là những gò đất vắng thênh thang vô bờ.
Vài cọng cỏ xanh xám run run rẩy rẩy một cách cứng đờ, nhưng đặt trong khung cảnh này thì nó lại trở thành một nét điểm xuyết.
Khắp nơi là xương cốt của la ngựa lạc đà, phơi dưới cái nắng dữ dội suốt khoảng thời gian dài, nay đã trắng bợt ngả xám.
Đầy hoang liêu, đầy sự im lặng chết chóc.
Vó ngựa giẫm lên bạch cốt phát ra tiếng răng rắc.
Mấy con bọ cạp đen còi cọc hốt hoảng chui ra từ dưới đống xương bể, nó bò tạo thành một đường dấu đuôi, giây lát đã chả biết lủi đi đâu mất rồi.
Gió cơ hồ sắp đứng lại, Lý Vị giơ roi ngựa: “Những thứ này đều là những người những vật ngày xưa chết ở nơi đây, chúng ta cứ đi lần theo thi cốt.”
Xuân Thiên chậm rãi thở ra một hơi, nhìn gương mặt bình tĩnh của hắn, gật gật đầu.
Nàng cẩn thận hết mức điều khiển ngựa tránh đi chỗ có xương bể, theo Lý Vị tiến về phía trước.
Trong thư có một lần cha kể rằng ông từng cùng những người bạn quân sự của mình đi qua sa mạc Mạc Hạ Diên và gặp ảo ảnh, thành quách đứng vững, dân làng tới lui, cực kỳ náo nhiệt.
Khi đó nàng nổi cơn tò mò, còn nhờ cậu phổ cập cho mình thế nào là ảo ảnh.
Sau khi đọc lại đống thư, nàng mới nhận ra sức nặng của ba chữ Mạc Hạ Diên.
Đại mạc tám trăm dặm, cát chảy nuốt chửng con người, ma quỷ ghé ngang, là nơi đáng sợ nhất.
Nàng chẳng qua cũng chỉ là tìm hiểu vì lòng hiếu kỳ, nào có bao giờ nghĩ rằng mình sẽ thực sự đặt chân vào trong đó, như ngay lúc này đây.
Hiện giờ đi theo dấu chân cha, lòng nàng cũng sinh ra đôi chút xúc động.
Cha, con lại gần cha thêm một bước nữa.
Hai người mới chỉ đi được nửa canh giờ, chợt thấy cách đó ít xa có mấy chấm đen đang từ từ di chuyển, có tiếng lục lạc leng keng truyền đến.
Một ông lão người Hồ râu trắng mắt xanh, mặt đầy nếp nhăn làm người dẫn đường, theo sau là bảy tám người Hồ cùng mấy chục con la và lạc đà.
Những người này có ngoại hình khác nhau, người cao người thấp người béo người gầy, không phải người chung một bộ tộc.
Lạc đà chở trên lưng chiếc bao mềm màu trắng lớn và cỏ khô.
Trong luồng gió thổi, có thể ngửi thấy rõ ràng mùi tỏa ra từ bao hàng ấy, là hương ngan ngát của trà thơm.
Đội thương lữ kia thấy đằng trước có hai người đứng lặng thì không khỏi kinh ngạc.
Lại gần xem xét, hóa ra là một người đàn ông trẻ tuổi cùng một thiếu niên, cả hai tóc đen mắt đen, mang tướng mạo của người Hán.
Dù lòng lo sợ bất an, nhưng cũng chỉ đành nở nụ cười nghênh đón.
Chào hỏi hàn huyên một lúc, mới biết hai bên đều chung lộ trình, đi qua mười chốt báo hiệu, qua đường Đại Hải rồi hướng tới Y Ngô.
Vài vị Hồ thương tươi cười cất tiếng: “Vừa khéo, mấy người chúng tôi mới từ Ngọc Môn quan ra đây, vì trong nhà có việc gấp, bất đắc dĩ mới phải đi qua mười chốt báo hiệu, mạo hiểm bước vào lối tắt, nghe nói đường Đại Hải này hung hiểm lắm.
Dẫu lo lắng nhưng lại chẳng biết nên làm sao, giờ gặp được người đồng hành, tốt quá rồi.”
Lý Vị cũng nói thật: “Ban đầu chúng tôi ở trạm Lãnh Tuyền, không ngờ bị người Đột Quyết quấy rầy, làm mất giấy thông hành, đang định đi đường này để đến Y Ngô.”
“Vậy chi bằng kết bạn, đi với nhau, như thế cũng chiếu cố lẫn nhau được phần nào.”
Tuy ngữ khí hai bên thân thiện, nhưng nụ cười của mỗi Hồ thương trong nhóm đều có hơi cứng ngắc.
Song, thấy ánh mắt Lý Vị ôn hòa, giọng điệu uyển chuyển, họ không hỏi nhiều về lai lịch của hai người, trái tim lơ lửng cũng dần buông lỏng.
Phía sau người Hồ dẫn đường có một thiếu niên mắt xanh da trắng trạc mười lăm mười sáu, mặt mũi cực kỳ tuấn tú, không phân biệt được là nam hay nữ.
Chỉ khi để lộ ra hai chiếc răng nanh nhọn nhỏ nhỏ mới hiện ra phong thái khôi ngô oai hùng của chàng thiếu niên.
Bấy giờ cậu ta đang cười hì hì quan sát người bên cạnh Lý Vị.
Xuân Thiên cưỡi ngựa, mặc trang phục nam giới của dân tộc Hồi Hột, đội mũ trùm đầu, lộ nửa bên mặt với lúm đồng tiền.
Bộ xiêm y xanh có họa tiết hoa tròn, màu sắc hơi trầm làm bật lên khuôn mặt nhỏ nhắn trắng như tuyết của nàng, phần eo bóp sát và tay áo bó, quần dài ủng da, thít chặt vào dáng người yểu điệu.
Người tinh mắt nhìn thoáng cái là nhận ra ngay đây là thiếu nữ đương độ xuân thì.
Xuân Thiên phát hiện thiếu niên dị tộc đang nhìn mình chằm chằm, cố ý nghiêng đầu tránh tầm nhìn của cậu ta.
Lý Vị thấy cậu thiếu niên vẫn chưa có ý định rời mắt khỏi Xuân Thiên, nhịn không được thầm buông tiếng thở dài trong lòng, chắn người Xuân Thiên ra sau, nhướng mày nhìn lại thiếu niên kia.
“Úi cha.” Thiếu niên mắt xanh thình lình bị cây tẩu hút thuốc phiện của ông nội gõ bộp vào đầu, cậu ta nhảy cẫng lên: “Ông nội, sao ông gõ đầu cháu.”
“Cái đồ không biết xấu hổ, có ai nhìn người khác đắm đuối như mi không? Còn không mau đi xin lỗi tiểu nữ lang đi.”
“Đúng là tiểu nương tử nhỉ.” Vẻ mặt cậu thiếu niên trông thật gian xảo, bĩu môi: “Cháu cứ tưởng là huynh đệ mình, đang tính làm quen cơ đấy.”
“Tiểu Khấu Diên, tật xấu này của cậu phải nhanh sửa đi thôi, mấy hôm trước ở Ngọc Môn quan còn nhận huynh đệ mình thành nữ lang, hôm nay thì lại nhận nữ lang thành huynh đệ, ha ha ha.” Có mấy người cười nhạo thiếu niên mắt xanh, “Trông cậu đẹp thế kia, cơ mà mắt nhìn người lại không được ổn lắm nhỉ.”
Thiếu niên ngượng ngùng cười khà khà, bước lên cúi đầu với Xuân Thiên, giọng nói trong trẻo như nước suối: “Tiểu nương tử, xin lỗi, vừa rồi tôi hành xử mạo phạm, nhưng không phải cố ý đâu, mong bỏ qua cho.”
Cậu ta tiếp lời: “Tại hạ Khấu Diên Anh, xin hỏi phương danh tiểu nương tử?”
Hai má Xuân Thiên ửng đỏ, biết văn hóa phong tục ở biên tái mở mang và phát triển hơn, bản thân mình cải trang trông cũng có chút khác thường nên nàng không để bụng, lập tức trả lời tên họ.
Hai bên đều đã biết tính danh của nhau, điều đó làm giảm bớt phần nào sự xa cách.
Thế rồi mọi người cùng nhau hành tẩu về phía trước.
Người Hồ dẫn đường tên Khấu Diên Thiên Phú, là một tay dẫn đường cực kỳ lão luyện, bôn ba nơi sa mạc rộng lớn gần năm chục năm.
Lần này được thương đội thuê để dẫn đường, tiện thể cho đứa cháu Khấu Diên Anh của mình có cơ hội rèn luyện trải nghiệm.
“Là…!Khấu Diên gia ở Hu Di quốc ư?” Lý Vị nghe xong, cung kính hỏi người dẫn đường, “Lên trời xuống đất, hỏi đường Khấu Diên gia.”
Lão Khấu Diên cười tủm tỉm gật đầu: “Đúng vậy, lão hủ là con cháu Khấu Diên đời Thiên Tự.”
Thành Hu Di có một họ là họ Khấu Diên, đặc điểm mắt xanh da trắng, đàn ông trong nhà thông thiên văn tường địa lý, có sở trường “bơi” trong cát vượt sa mạc, là bản đồ sống của vùng Tây Vực, thường được thương đội thuê làm người dẫn đường qua nơi Tây Vực cát chảy, hoặc thăm dò khám phá dấu tích của một thành cổ hoang vắng.
Lý Vị chắp tay chào, hắn xuống ngựa, thể hiện thái độ kính trọng cùng với sự ngưỡng mộ: “Không ngờ có thể gặp được gia tộc của ân công.
Hồi còn bé tôi từng được ông Hải Châu cứu mạng.
Vài năm trước tôi đi ngang Hu Di quốc đến chào ông ấy, nhưng ông ấy đã dẫn thương đội đến mật địa Lâu Lan, không gặp mặt được.
Chẳng hay hiện giờ sức khỏe ân công ra sao, vẫn tốt chứ?”
Khấu Diên Thiên Phú nào nghĩ lại có duyên gặp người ở đây, vuốt râu bảo: “Hóa ra là tiểu hữu của ông chú Hải Châu.
Sau khi chú ấy trở về từ mật địa Lâu Lan thì chỉ chuyên tâm an dưỡng tuổi già.
Qua đời năm ngoái, hưởng thọ tám mươi tuổi, lúc đi thanh thản.”
Lý Vị hay tin ấy, khó tránh khỏi giật mình, lòng chùng chùng, hắn kể lại quan hệ sâu xa của mình với Khấu Diên gia qua vài lời ít ỏi.
Hồi hắn khoảng tám chín tuổi có cùng Lý phụ đi qua Đôn Hoàng đến Thả Mạt, vô tình lạc đường ở Mã Mê Thố Than của Đôn Hoàng.
Mã Mê Thố Than còn có tên là thành Quỷ, trong thành đá dựng cao chót vót, đường đi quanh co phức tạp như mê cung, là chỗ ẩn náu của mã tặc và sơn phỉ.
Cậu bé Lý Vị bấy giờ luẩn quẩn ở đó bảy tám ngày, ngay khi kiệt sức, thở những hơi thoi thóp thì may mắn được Khấu Diên Hải Châu đưa ra khỏi thành Quỷ, trả lại cho Lý phụ.
Từ đấy về sau, mỗi lần đi ngang thành Hu Di, hắn đều phải đến phủ Khấu Diên thăm hỏi ân nhân.
Đáng tiếc Khấu Diên Hải Châu quanh năm bôn ba bên ngoài, tận hai mươi năm mới được tái ngộ.
Khấu Diên Thiên Phú nghe đoạn chuyện cũ, cảm khái liên tục: “Con cháu Khấu Diên phiêu bạt ở ngoài suốt tháng quanh năm, chưa nói tới hàng xóm bạn bè, cho dù có là người nhà hay bà vợ già của mình cũng chả nhớ.
Con cháu xa lạ là chuyện bình thường.”
Xuân Thiên chẳng nói câu nào, lẳng lặng nghe hai người nói chuyện.
Khấu Diên Anh không muốn nghe ông nội nhà mình kể chuyện ngày xửa ngày xưa, bèn phóng ngựa chạy đến cạnh nàng, nhe cặp răng nanh, cong mắt cười cười: “Xuân Thiên em gái, roi ngựa của em vừa đẹp vừa có khí phách, cho tôi mượn ngắm tí được không?”
Roi ngựa này là quà Hổ Hướng Nam tặng.
Mới có mấy ngày ngắn ngủi, trải qua trận tàn sát khốc liệt ở trạm Lãnh Tuyền, sinh ly tử biệt, làng Thạch Tào thế ngoại đào nguyên chớp mắt cái mà cứ như thể là một giấc mơ.
Xuân Thiên đưa roi ngựa cho cậu ta.
Khấu Diên Anh đón lấy, vung cây roi vút lên trời cao: “Đuôi roi mềm thật, quấn rất chắc, tay nghề khá đấy.
Em gái, mua ở đâu thế?”
“Đây là của một người anh họ Hổ ở ngôi làng trong núi Thường Lạc tặng cho tôi.”
“Ồ.” Khấu Diên Anh ngắm nghía trái phải, “Tôi còn định mua cây roi giống cái của em cơ, mà này thì không được rồi, hóa ra là người khác tự tay làm tặng em.”
Hai bên chỉ vừa đi được nửa dặm đường.
Lúc bấy giờ, mặt trời chói chang vẫn chưa lên cao, vậy nhưng sa mạc đã nóng rực không chịu nổi.
Mọi người đang tính tìm một nơi nghỉ tạm, ngờ đâu đằng sau lưng bỗng vang lên tiếng vó ngựa mất trật tự, có hai người đàn ông Hán đuổi theo, một béo một gầy.
Người béo nom hiền hòa dễ gần, người gầy nhã nhặn tuấn tú.
Hai người nhễ nhại mồ hôi, áo quần xộc xệch, ngửa đầu gọi với theo đoàn người Lý Vị: “Chư vị, chư vị đợi chút.”
Hóa ra hai người này cũng là thương lữ bị Đột Quyết cướp bóc ở trạm Lãnh tuyền.
Người béo tên Hoàng Tam Đinh, người gầy tên Quách Phan.
Cả hai đều là thương khách tới từ Tấn Trung, trốn chạy dưới lưỡi đao của người Đột Quyết, đã làm mất giấy thông hành.
Vì không muốn về Ngọc Môn quan, lại nghe nói ở Mạc Hạ Diên có đường Đại Hải, nên bọn họ thử đi tiếp, kết quả may mắn gặp đoàn người của Lý Vị và Hồ thương.
Hai người mừng vui khôn xiết, cuống cuồng vái chào xin được đồng hành cùng thương đội.
Quy tắc đi đường, nếu có tương phùng, há có lý nào lại nhắm mắt làm ngơ.
Nhưng mọi người thấy hai người này đi vội vội vàng vàng, ngay cả lương thảo hay túi nước cũng chẳng mang.
Con đường phải đi qua lại là nơi khô hạn và đầy rẫy nguy hiểm, người nào người nấy trong thương đội đều đăm chiêu lưỡng lự không lên tiếng đáp.
Chính lúc mọi người do dự, Hoàng Tam Đinh lấy từ trong áo ra một viên mã não Lạt Ma, cười khổ đưa cho nhóm Hồ thương: “Hai huynh đệ tôi vốn định sẽ bổ sung nước và lương thực dọc dịch trạm, ai ngờ rơi vào tình cảnh này.
Chỉ là, nam nhi tráng khí, không thể nào quay về lối cũ.
Nghe nói Mạc Hạ Diên này phải đi qua mười chốt, hai chúng tôi túng thiếu lương thực, những mong chư vị huynh đài chiếu cố đôi phần.”
Nhóm Hồ thương thấy viên châu kia to bằng ngón tay cái, đặt vào lòng bàn tay, viên châu ánh lên một màu ngọc bích óng ánh bóng mượt, giá trị không hề nhỏ.
Mấy Hồ thương phân vân chốc lát, quay sang thấp giọng bàn bạc với lão Khấu Diên bằng tiếng Hồ một phen.
Nhóm Hồ thương thương lượng xong xuôi, lấy túi nước và vài cái bánh Hồ ra, cùng với hai tấm thảm nỉ, chỉ nói: “Không phải
chúng tôi bủn xỉn, chẳng qua là do trong sa mạc quỷ quái này, nước còn quý trọng hơn tiền vàng.
Chúng tôi đông người, lại mang ngựa thồ, thực sự chẳng biết đào đâu ra nước suối.
Nước trong túi đây có thể bổ sung nước trong một hai ngày cho quý huynh.
Đi đến ngày thứ sáu, tới suối Dã Mã là sẽ có nước cấp bù.”
Cả hai luôn miệng nói cảm ơn, mấy người cứ thế kết bạn đồng hành.
Hai người kia biết được Lý Vị và Xuân Thiên cũng đi từ trạm Lãnh Tuyền ra, cảm thấy đồng bệnh tương lân, giở giọng than phiền với Lý Vị không dứt: “Mười con la của hai chúng tôi chết hết trong tay người Đột Quyết, coi như là tán gia bại sản luôn rồi.
Định bụng đến Bắc Đình một chuyến, cố gắng tìm kế làm giàu.”
Từ nãy đến giờ Lý Vị luôn nhìn thẳng chẳng hề liếc mắt, lên tiếng nói: “Huynh đài dũng cảm mưu trí, trời cao không phụ, nhất định sẽ được như ý nguyện.
Có điều cũng cần cẩn thận, Bắc Đình nhiều thành nhiều quốc, các tộc đấu đá, tặc phỉ nấp trong bóng đêm hoành hành, hai vị phải thận trọng.”
Nơi sa mạc hẻo lánh ít dấu chân người này nay lại liên tục đón lữ khách tới.
Trời cao vời vợi, sa mạc tít tắp, tiếng lục lạc trầm bổng êm ái.
Lúc này đã vào hè, vòm trời như cái lồng hấp thiêu đốt vùng hoang dã, bôi vẽ lên mọi ngóc ngách một màu sem sém.
Gió nóng táp ngang dọc, mỗi chỗ đi qua đều dấy lên một sự bức bối đến ngộp thở.
Thoạt đầu còn có những cây muối* thấp lùn và cỏ lác xám xám, cũng có thể gặp một vài cây ma hoàng và thanh hao hoa vàng.
Côn trùng bọ cạp bò lang thang trên cát.
Thậm chí còn trông thấy được một con sói đất đứng ở phía xa xa lăm le dè dặt nhìn người đi đường.
*Cây muối, tên khoa học là Haloxylon ammodendron
Càng đi sâu vào Mạc Hạ Diên, bầu trời hiện ra cao rộng khoáng đạt và trong leo lẻo không một gợn vẩn, áng mây tuyết trắng trơ trọi, một màu xám nhạt bao trùm lên vùng hoang vu.
Chỉ còn hoàng thổ vô cùng vô tận, đá sỏi, những cành cây khô queo mục nát nằm bừa bãi và cả đống xương trắng.
Trời nắng độc, gió thổi khí oi quấn lấy thân mình.
Mọi người ai ai cũng đội mũ trùm đầu, mạng che mặt, chỉ chừa đôi mắt ra ngoài, vẫn trong tình trạng đầm đìa mồ hôi, khổ không kể xiết.
Ban ngày phải tìm một rãnh đá có bóng râm để nghỉ chân.
Dẫu vậy, gió nóng vẫn cứ bám riết, mồ hôi túa ra nhớp nháp.
Xuân Thiên đã bị hơi nóng hun lên hệt một con tôm luộc, mặt mũi đỏ gay, nàng cảm thấy người ngợm chua chua, như có con kiến đang cắn xé toàn thân.
Lúc thật sự nóng không chịu nổi nữa, nàng nhịn chẳng được, muốn đổ cạn nước trong túi vào họng.
Nhưng Lý Vị nhìn nàng rất nghiêm, không cho phép nàng uống kiểu vậy, thậm chí tịch thu luôn túi nước của nàng.
Ban đêm mọi người gấp rút lên đường, cát vàng yên ả, ánh trăng như nước, ngân hà bao la, những dải sóng sáng lấp lánh tràn khắp mặt đất.
Biển cát mênh mang, tưởng như thân mình bị vùi lấp dưới biển khơi cuồn cuộn, chợt không phân biệt được trời cao và hoàng thổi.
Gió lạnh rít gào, đất cát chuyển động phát ra những tiếng lạo xạo, khi như tiếng của dàn nhạc giao hưởng, khi thì chấn động như tiếng núi gầm vang, khi lại như sấm sét giật liên hồi.
Côn trùng rắn rết di chuyển giữa cồn cát, lăn qua lộn lại trong cát bụi, chẳng chút sợ hãi con người.
Chúng nó lần theo móng ngựa thồ leo lên trên, thậm chí men theo hai chân người chui vào bên trong quần áo, đứng trên đầu vai người.
Mới đầu Xuân Thiên còn hoang mang lo sợ, hai ngày sau thì đã có thể phủi con nhền nhện lề mề bò trên quần áo đi mà mặt không biết sắc.
Vết cắt chia đôi giữa ngày và đêm chính là ánh bình minh và tà dương khi mặt trời lặn.
Bấy giờ mây mù cuộn trào, từng cụm từng cụm trùng trùng điệp điệp, như tuyết tụ, như sóng vồ, cơ hồ vươn tay là hái xuống được.
Chúng xuất hiện với những hình thù hoặc duyên dáng hoặc hùng vĩ, thiên hình vạn trạng.
Sáng sớm, ban mai phía chân trời bừng lên chói lọi, trời quang mây tạnh.
Đến tối, vầng sáng vàng kim tỏa chiếu muôn trượng, xuyên rách tầng mây.
Trăng sáng và tinh tú cô đơn bầu bạn bên mặt trời dịu dàng cùng trông giữ chân trời, tăng thêm nét mềm mại cho chốn xác xơ tiêu điều này.
(còn tiếp).