A Âm xách giày cao gót, chân trần bước thấp bước cao quay về ngõ nhỏ.
Lúc Ngũ Tiền quay đầu vì nghe tiếng A Âm gọi đã giật thót, khi ra cửa vẫn là bà cô tươi tắn xinh đẹp, lúc này tóc tai hỗn loạn, cổ tay áo nhăn nhúm, lớp trang điểm trên mặc nhoe nhoét, son môi đỏ rực nhòe mất một khoảng bên miệng, đang th,,ở dốc nhìn hắn.
Chẳng qua chỉ là thất tình, sao lại giày vò thành thế này chứ. Ngũ Tiền lặng lẽ đặt sách xuống, không lên tiếng.
A Âm hất tóc, nhưng câu đầu tiên lại mang theo giọng điệu dẫn quân hỏi tội: “Tôi hỏi anh này, phủ Thái Sơn của các anh, là gánh hát rong đúng không?”
Sao lại nói vậy? Ngũ Tiền khó hiểu.
A Âm ngồi xuống ghế, cơn tức vẫn chưa xuôi: “Trước kia anh nói, Phủ Gian Tịch quy định giờ sinh giờ tử, nhiều hồn ma lang thang trên nhân gian chậm trễ thời gian đầu thai như thế, các anh cũng mặc kệ à?”
Ngũ Tiền ngẩn ra, lắc đầu: “Cô phải biết là, Phủ quân phủ Thái Sơn cai quản linh hồn con người, cũng cai quản linh hồn của thần và thú.”
“Vậy thì sao chứ?” A Âm vuốt ngực.
Ngũ Tiền cố gắng nói súc tích hơn: “Quyền lực rất lớn.”
A Âm trợn trắng mắt: “Tôi muốn nghe anh khen Lệnh Hoành à?”
Ngũ Tiền lắc đầu: “Chính vì quyền lực quá lớn, vì để cân bằng tam giới, Phủ Gian Tịch sẽ càng chú trọng việc ràng buộc thời gian chết của con người, cũng có thể nói là, không thể để người trần tới phủ Thái Sơn trước thời hạn. Mà quỷ sai ở phủ Thái Sơn, như tôi, như Mộc Lan, đều là do Phủ quân báo lên Hỗn Độn, một trăm năm mới có thể phán một người nhập tịch, sắp xếp quỷ vực.”
A Âm bị khơi gợi hứng thú, tạm thời gác chất vấn ban nãy sang một bên: “Vậy…”
Ngũ Tiền không nhẫn tâm trù dập ánh sáng trong mắt A Âm, nói một cách vô cùng uyển chuyển: “Mộc Lan chiến công hiển hách.”
Còn hắn cũng có tiền căn, nhưng không quen tự thổi phồng bản thân.
“Ồ.” A Âm trở nên uể oải, hất cằm ra hiệu cho Ngũ Tiền nói tiếp.
“Vì thế, nếu người trần mắt thịt có đủ các loại suy nghĩ cố chấp hoặc vì nguyên nhân nào đó lưu lạc ở nhân gian, không nhập phủ Thái Sơn, Phủ Gian Tịch sẽ nương tay trong việc quản thúc những du hồn đó hơn một chút.”
Thì ra không thể nhập phủ Thái Sơn trước thời hạn, nhưng lại chừa chỗ cho việc trì hoãn. A Âm hiểu ra: “Vào khó ra dễ.”
Tâm tư của cô lại trở nên linh hoạt: “Làm ma làm người ở trần gian có gì khác biệt, có khó chịu không?”
Ngũ Tiền rót cho A Âm một chén trà: “Làm ma thì dùng chấp niệm để chống đỡ, nếu chấp niệm yếu ớt vẫn không đi đầu thai, sẽ chầm chậm mất đi năm giác quan, biến thành du hồn, cuối cùng hồn bay phách tán.”
A Âm “suỵt” một tiếng, rùng mình một cái.
“Hai là, sau khi linh hồn chậm trễ nhập phủ quay lại Thái Sơn, sẽ bị phán quan quy tội, sau đó trừng phạt rồi mới nhập luân hồi.”
“Ba là, khi linh hồn kiểu này đầu thai, Nhân Thần sẽ viết lại sinh lão bệnh tử của họ trong Phủ Gian Tịch, thường thì… sẽ viết tệ đi một chút.”
A Âm nhấc nắp chén trà lên: “Cũng thù dai quá nhỉ.”
Thần cũng có bệnh lười, nếu làm loạn trật tự nguyên bản, phải viết lại một cuộc đời theo hướng khác, sẽ hao phí rất nhiều sức lực, đương nhiên sẽ không tốt nổi.
A Âm dừng lại đôi ba giây, sắc mặt có chút tái nhợt, nếu như thế, nửa đời này của cô vô cùng tệ hại, không phải vì trước kia khóc lóc ba ngày ba đêm bên cầu Nại Hà chứ?
Ngũ Tiền nhìn A Âm giơ chén trà rất lâu, muốn uống nhưng lại không uống, liền hỏi A Âm một câu: “Đang yên đang lành, sao lại hỏi chuyện này?”
Như thể muốn nhập hồn tịch cho Diêm La đại nhân, hoặc là muốn đợi sau khi bản thân nhắm mắt xuôi tay, muốn lưu lại quỷ thân ở nhân gian vì đại nhân. Cũng không biết có phải hắn hiểu theo ý này hay không.
Lúc này A Âm mới uống một ngụm trà, nói với Ngũ Tiền: “Tôi có một người bạn tốt – chính là A Bình tôi từng nhắc tới, anh ta biến thành quỷ rồi, nhưng bản thân không biết, tôi sợ anh ta chậm trễ thời gian đầu thai, muốn nhờ anh đi tìm giúp một chuyến.”
Nói là nhờ, nhưng ngôn từ không có lấy dáng vẻ của nhờ vả, vắt chéo hai chân rũ mắt, tâm sự trùng trùng.
Ngũ Tiền đáp ứng, nói: “Vậy tôi ra ngoài đây.”
Ngũ Tiền tìm A Bình suốt ba ngày, nhưng A Bình không tiếp tục xuất hiện trên con phố kia, không biết có phải nghe thấy lời của A Âm, lên đường đi tìm phủ Thái Sơn trong truyền thuyết kia hay không. A Âm có chút ảo não, nói là không nên hô câu đó với A Bình, trí nhớ hắn không tốt, ngộ nhỡ để bản thân đi lạc. Ngũ Tiền an ủi A Âm, nói là đã truyền thư về phủ Thái Sơn điều động quỷ sai, sau đó tìm kiếm tung tích thi thể lưu lạc ở núi Tấn Vân, nhất định có thể tìm được.
Lúc này A Âm mới yên tâm, Ngũ Tiền được A Âm ủy thác, thế là sớm đi tối về, thậm chí còn vất vả tìm kiếm ở khu vực lân cận.
Hôm nay ánh nắng thích hợp, ngay cả Nam Sơn cũng phủ lên một lớp sáng vàng, Ngũ Tiền đang nghỉ ngơi dưới chân núi, uống một chén trà theo thói quen. Uống một ngụm nhỏ, chỉ cảm thấy nhạt nhẽo vô vị, hắn liền đặt sang một bên, gọi phục vụ mang một bình nước trắng, sau đó yên lặng đánh giá nhóm người ngồi xung quanh.
Mọi người thở ra hơi nóng đục ngầu, gác một chân lên ghế, vừa nói chuyện khiến nước bọt bắn tung tóe, vừa cầm chén trà uống như trâu sục.
Ngũ Tiền nhớ lại trước kia, khi đó lá trà vô cùng đắt đỏ, quan lại dùng trà khoe của cải, ai nghĩ được hôm nay trà đã hiện diện trong trăm họ, quán trà mở dưới chân núi hẻo lánh, khách hàng không câu nệ là dân bốc vác hay ni cô.
Trà khi đó, còn là đun.
Bàn bên cạnh truyền tới âm thanh ồn ào, Ngũ Tiền quay đầu nhìn, nhìn thấy người khách kia lộ ra ánh mắt nghi hoặc, mà phục vụ bưng nước nóng khom lưng xin lỗi, nhìn quanh một vòng, ánh mắt không dừng lại trên người Ngũ Tiền một giây.
Ngũ Tiền cất cao giọng: “Là tôi gọi.”
Phục vụ nhìn mặt Ngũ Tiền, chớp mắt đôi cái “ồ” một tiếng, nở nụ cười nhấc bình nước lên, sau đó ân cần rót đầy một chén.
Nhưng Ngũ Tiền không khát, đặt tiền lên bàn rồi đứng dậy rời đi. Mấy vị ni cô từ trên núi tới, mang theo hương thơm của mai vàng cùng bồ kết lướt ngang qua người hắn.
Ngũ Tiền nghiêng mặt khựng lại, ngẩng mắt nhìn về phía am ni cô trên lưng chừng núi, cất bước đi lên núi.
Hoa đào mờ mờ ảo ảo, giống như bức tranh màu nước, am ni cô tường đỏ ẩn giấu bên trong, Ngũ Tiền cất bước vào trong, chắp hai tay sau lưng quan sát tường công đức khắc trên đá, sau đó đứng ngoài ngưỡng cửa nhìn những tín đồ chiêm bái tượng vàng.
Tuy A Bình không biết bản thân là hồn ma, nhưng xuất phát từ bản năng, đại khái sẽ không tới am ni cô này, Ngũ Tiền chỉ tùy tiện nhìn một cái, rồi quay đầu muốn rời đi.
Trong tầm mắt xuất hiện một tiểu ni cô gánh nước, rõ ràng ni cô bị dọa giật thót, quang gánh trượt khỏi vai, thùng nước đập xuống đất, mấy giọt nước bắn lên, đọng trên chiếc trường bào bị giặt tới bạc màu của ni cô.
Ni cô ngẩng mắt nhìn Ngũ Tiền, chuông đồng cổ bên ngoài am ni cô bị gõ mạnh một tiếng, ù…
Tôi là Ngũ Tiền.
Tôi vốn dĩ không tên là Ngũ Tiền, tôi vốn dĩ là một tướng quân.
Tôi xuất thân từ Hoàng tộc, có một khuôn mặt khiến người ta không thể nào quên.
Vì mặt mày quá mềm mại, không có uy nghi, tôi liền đeo mặt nạ mặt xanh nanh vàng, chiến công lẫy lừng, hiển hách một thời.
Sau khi hồn về Thái Sơn, tôi được Phủ quân Thái Sơn Lệnh Hoành nhìn trúng, nhập Hồn Sách Lệnh làm thống soái, lúc đó phó tướng của tôi, chính là Mộc Lan.
Hơn một trăm năm sau, Võ Chu đại Đường*, âm dương đảo lộn, thần đô Lạc Dương có yêu thú hiện thân, ăn hồn bắt quỷ, tôi nhận lệnh đi dẹp loạn, trong quá trình đó ngộ sát một cô gái hái thuốc, vì thế bị tước chức tướng quân, trở thành quỷ sai bình thường, đi theo Phù Đề đại nhân.
Ba trăm năm sau, tôi lại gặp cô gái ấy, cô ấy chính là cô thợ may trong miệng tôi.
Lúm đồng tiền của cô ấy không thay đổi, tính nhát gan cũng chẳng đổi thay, cảm giác chấn động không chút giấu giếm khi nhìn thấy khuôn mặt tôi, cũng không thay đổi.
Cha mẹ của cô ấy đã qua đời, cô ấy sống một mình ở phủ Khai Phong, luôn bị cậu mợ bắt nạt. Tôi có lòng muốn bù đắp những mất mát kiếp trước, thường giúp đỡ cô ấy nọ kia, ban đầu cô ấy tặng tôi một đôi giày đế bằng, sau đó cô ấy thêu cho tôi một đôi uyên ương.
Câu chuyện sau đó, giống như những gì tôi đã kể với A Âm, cô ấy uống thuốc độc tự vẫn vì tôi, bị phán mài mòn hết yêu hận dại khờ, còn tôi, mất đi khuôn mặt khiến người ta nhớ mãi không quên.
Hôm nay ánh mặt trời rất đẹp, tôi gặp được một cô gái. Cô gái ấy mặc trường bào xám, đầu trọc đội mũ ni cô, cô ấy vẫn nhát gan, chỉ một cái quay đầu đã bị dọa tới nỗi chân tay luống cuống, cô ấy mím môi lại, mím ra lúm đồng tiền một bên má.
Cô ấy nhìn tôi mất hồn nhìn cô ấy, to gan tiến lên phía trước hỏi tôi: “Thí chủ muốn xin quẻ sao?”
“Không xin.” Tôi nói.
Cô ấy cúi đầu, sau đó lại ngẩng lên, không biết có phải rất ít khi nhìn thấy đàn ông hay không, hành động có chút căng thẳng, cô ấy lại hỏi: “Hay là tới tạ lễ?”
“Không cầu khấn, không biết tạ từ đâu.”
Cô ấy liền mím môi cười, nói: “Cây cầu nguyện phía sau am ni cô của tôi linh nghiệm nhất, nếu thí chủ muốn cầu nguyện, có thể vào nhĩ thất xin một tờ giấy đó, thành tâm viết lên giấy, sau đó treo trên cây là được.”
Tôi nhìn cô ấy, nói: “Cảm ơn.”
Cô ấy tự nhiên cười lên, cúi đầu đọc một câu kinh Phật, âm thanh không nhuốm chút khói lửa bụi trần, không có lấy một chút cảm xúc yêu hận tình thù.
Cô ấy quay người gánh đòn gánh, lướt qua người tôi đi qua cửa nguyệt môn*, biến mất trên lối nhỏ sân sau.
Hôm đó dường như tôi đã ước một điều, treo trên chiếc cây cầu nguyện mà cô ấy nhắc tới.
Điều ước của tôi rất ngắn, mở đầu bằng tên của cô ấy, Tiền Ngũ Nương.
Kí tên là: Trường Cung*.
…
Chú thích:
1. Võ Chu đại Đường hay còn gọi là Cách mạng Võ Chu: Võ Chu là triều đại do Võ Tắc Thiên sáng lập thay thế cho nhà Đường.
2. Cửa nguyệt môn: một lối đi hình tròn (giống như hình mặt trăng tròn) dành cho người đi bộ, phía trên bức tường này có lợp ngói, loại cửa này không có chức năng đóng mở, sử dụng chủ yếu vào mục đích trang trí. Đây là một loại hình cửa đi lại đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa.
3. Cao Trường Cung: là tướng lĩnh, hoàng thân nhà Bắc Tề, mỹ nam nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Dân gian thường gọi ông với vương hiệu là Lan Lăng vương.