Vấn Quan

Chương 113



Ngoại truyện 4: Đế Thính

Ngày A Cửu nhập phủ Thái Sơn, chiếu thư thoái vị của Long Dụ hoàng hậu vừa lên báo.

Đánh xong trận đầu tiên với Lệnh Hoành, liền nghe nói Viên Hạng Thành* đã chết. Sau đó ồn ào khôi phục lại tết tóc cũng biến mất, tiếng hò reo ngày 4 tháng Năm cũng không còn nữa. Duy chỉ có thư hỏi thăm của Vũ Sư Thiếp gửi tới tạo ra chút va chạm nhỏ bé cho phủ Thái Sơn vô cùng chán ngán này.

Theo lý mà nói, nếu nhàm chán cả ngày, A Cửu sẽ tìm tới nơi khác, nhưng A Cửu nghi ngờ phủ Thái Sơn có năng lực bí mật, mới có thể kéo lại trái tim như bèo trôi của một người, để ở địa phủ.

Mười tám tầng địa ngục, một tầng gió thổi xì xào bên tai, một tầng mưa lác đác rơi bên gối, khiến năm giác quan của người ta chậm chạp, san phẳng thất tình, nghiền nát chín mươi phần ý chí chiến đấu, thu nạp thành tiểu quỷ ngớ nga ngớ ngẩn ngồi dưới Lệnh Hoành.

Đương nhiên A Cửu không phải tiểu quỷ, vì lúc này bản thân đang lang thang ở Sinh Tử Ti.

Ngoại trừ Ti thần của bảy mươi lăm Âm Ti thỉnh thoảng tới báo cáo công việc, bình thường Sinh Tử Ti không có hồn ma qua lại, dùng một câu thô lỗ của A Cửu, chính là “Ngày tháng nhạt hơn nước lã”. Hôm nay A Cửu nhìn Mạnh A Khương tắm đuôi cá, rồi lại theo tuấn mã Nhạc Phi cấp báo Ti thần, sau đó quay trở về dưới gốc đa già bên ngoài phủ Lệnh Hoành ngồi như thường lệ.

Tiểu Thanh Xà suýt chút nữa bị nước Hoàng Tuyền lột mất một lớp da thở hồng hộc bò dọc theo cây lên trên, cuộn lại trong lòng bàn tay A Cửu, có chút mệt mỏi, sau đó cọ lên kẽ tay A Cửu, rồi mới khàn giọng hỏi: “Vũ đại nhân phái em tới đây hỏi, hôm nay có thư không?”

A Cửu lắc đầu: “Không.”

Tiểu Thanh Xà gật đầu, nghe theo lời dặn của Vũ Sư Thiếp, chậm chạp nói: “Hoa hòe ở cửa động của đại nhân ra hoa rồi, kết mật thơm lắm, rượu mơ chôn đầu năm cũng uống được rồi.”

A Cửu “ờ” một tiếng, thấy nó chần chừ không nói, liền hỏi một câu: “Sau đó thì sao?”

Tiểu Thanh Xà ngẫm nghĩ một lúc mới đáp: “Vũ đại nhân không nói tới sau đó.”

“Biết rồi.” A Cửu vỗ đầu nó, đặt nó xuống.

Nói chuyện với Tiểu Thanh Xà xong, A Cửu gác hai chân lên cây đung đưa qua lại, trong bóng lá xào xạc bên dưới, nhìn thấy một cô gái gầy gầy nhỏ nhỏ.

Vóc người của cô gái gầy gò, dáng vẻ hăm hai hăm ba, tóc rất đẹp, sợi đen bóng lại ngay ngắn. Trên cơ thể nhỏ bé kia là bộ đồ sợi đay, loạn xạ thắt đai lưng, ống quần ngắn mất một đoạn, lộ ra cổ chân trắng trẻo, giày vải đạp trên đất, nghiêng người ngồi xổm, nhặt một cành cây viết chữ lên đất.

A Cửu lại đung đưa đầu gối đang vắt chéo qua nhau.

Cô gái kia nghe thấy âm thanh, hai tai động đậy, lộ ra nửa khuôn mặt. A Cửu thò đầu nhìn cô gái, mặt tròn ngắn hơi nhọn, đầu mũi nhỏ nhưng vểnh lên, đôi mắt đen như quả nho, tròn xoe long lanh.

Cô gái kia là thú, A Cửu nhìn vết lồi thấp thoáng trên sống lưng của cô gái liền biết. A Cửu đang nghi hoặc tại sao cô gái này lại xuất hiện một mình trước phủ Lệnh Hoành, sau lưng bỗng vang lên một âm thanh âm u: “Là Đế Thính.”

A Cửu quay đầu, Hoành Công Ngư trần truồ.ng, cơ thể thướt tha được che đậy dưới một chạc cây.

Tu mấy trăm năm, vẫn không thích mặc quần áo, người ta thường nói rồng, rắn tính dâm, A Cửu thấy loài cá này mới thực sự làm tổn hại thuần phong mĩ tục.

“Đế Thính?” A Cửu nhướng mày.

Thái Sơn ngoại trừ Phủ quân Lệnh Hoành, còn có một vị thần Giáo hóa, tên là Địa Tạng, khuyên răn ý niệm tham sân si, luyện hóa lệ quỷ hung hồn, có được cơ thể sạ.ch sẽ, độ người vãng sanh. Địa Tạng có một sủng vật, tên là Đế Thính, chân thân giống thú, có chiếc tai thần thông, có thể phân biệt thật giả trên đời, giống như mũi của Vũ Sư Thiếp.

Nghe nói từ nhỏ Đế Thính đã đi theo Địa Tạng, bầu bạn giúp việc, phán đoán thật giả.

A Cửu lại liếc nhìn Đế Thính làm như không nghe thấy gì kia một cái, nhích tới gần Hoành Công Ngư thêm một chút, nhỏ tiếng nói: “Không phải Địa Tạng tự xin đi đầu thai rồi sao, Đế Thính này làm gì trước phủ Lệnh Hoành thế? Không có sai sứ nên đi kiếm sống à?”

Nhìn bộ quần áo rách nát kia, có lẽ là vô cùng nghèo túng.

Không lâu sau cửa hé mở một khe, quỷ sai Ngũ Tiền đi theo A La bước ra, mắt không gợn sóng liếc nhìn A Cửu trên cây một cái, sau đó lại rất khách sáo gật đầu với Đế Thính, nói: “Mời vào.”

Đế Thính vứt cành cây đi, đứng dậy, thò giày vải di chữ đã viết kia, sau đó theo Ngũ Tiền vào trong phủ.

“Nếu đại nhân có hứng, chỗ A Ngư có một giai thoại.” Hoành Công Ngư cười hi hi đôi tiếng.

A Cửu thu lại ánh mắt đang nhìn ngưỡng cửa đóng chặt, hướng mắt lên mặt A Ngư gõ một cái: “Mặc quần áo tử tế rồi nói.”

A Ngư nghe lời khoác chiếc trường bào da cá hóa thành, vặn lưng vui sướng hả hê, cây đa già khó lòng chịu đựng kêu lên một tiếng, A Ngư mới ngồi nghiêm chỉnh, sờ da gà của cây đa, kể đầu đuôi ngọn ngành: “Địa Tạng và Đế Thính cùng ra cùng vào, cùng ăn cùng nghỉ, ngày tháng lâu dần, sủng vật sinh ra lòng tư lợi, lòng tư lợi phình to, học người trần yêu đương.”

Trầm bổng du dương giống như che miệng vò rượu, che mất một nửa hương thơm còn đang ngập ngừng.

A Cửu động đậy ấn đường: “Chuyện này là thật sao?”

“Còn thật hơn cả Hoành Công Ngư sợ nước ô mai.” A Ngư ước gì có thể lập lời thề.

A Cửu nghĩ ngợi giây lát, lắc đầu: “Ta từng gặp Địa Tạng một lần, vô cùng cứng nhắc, suýt chút nữa còn kéo ta cạo đầu làm ni cô.”

Nghe nói Địa Tạng vốn dĩ là nữ, sau khi nhập phủ Thái Sơn lại tu cơ thể nam, dáng vẻ đực cái khó nhận biết. A Cửu từng gặp Địa Tạng một lần, ở bên địa ngục A Tị, Địa Tạng mặc chiếc trường bào trắng dệt từ mây và ánh sáng, đứng trong tối tăm, ống tay áo phẩy ra cơn gió mù mịt hi vọng nhất ở tầng đáy phủ Thái Sơn.

Địa Tạng có mắt to mũi dài hẹp, đuôi mắt cùng khóe môi đều có một độ cong chúc xuống dưới, nhuộm lên vẻ thoát tị thế* và hiền từ tới thoát tục của người xuất gia, thế độ* như được vẽ đâu ra đấy, trôi chảy không chút khác người.

Lúc đó Địa Tạng chỉ nhàn nhạt nhìn A Cửu một cái, nhưng dường như A Cửu lại nghe tiếng niệm Phật dài đằng đẵng, kèm theo tiếng chuông ù ù, mãnh liệt gõ lên ấn đường.

Phía sau tay áo trường bào rộng của Địa Tạng khi ấy, che đi một chiếc bóng nhỏ bé yếu ớt, có lẽ chính là Đế Thính.

A Cửu hoàn hồn, lại nghe thấy A Ngư nói: “Đúng rồi, có lẽ cũng vì nguyên nhân này, vì để khước từ xuân tình nên Địa Tạng Vương tự xin đầu thai. Dùng thân người, nếm bách khổ, nhận nhân quả, độ phàm trần.”

“Thì ra là vậy sao?” A Cửu nghe rất nhập tâm.

A Ngư gật đầu: “Nghe nói khoảng một hai trăm năm trước, cũng không biết Đế Thính lên cơn điên gì, khi Địa Tạng Vương lập đàn giảng kinh thường vào điện làm loạn, đứng trước mặt một đám quỷ thần, hỏi trong tim Địa Tạng Vương có cô ta hay không.”

A Cửu hít sâu một hơi: “Chuyện lớn như thế, sao ta lại không biết?”

A Ngư tỉ mỉ suy nghĩ: “Khi đó hình như đại nhân uống rượu với Vũ đại nhân, say mấy mươi năm.”

“Thế Địa Tạng nói như thế nào?”

“Đương nhiên là nói – Không.”

A Ngư thở dài: “Vốn dĩ phủ Thái Sơn không có quy định về việc yêu đương, nhưng Đế Thính lại giao trái tim nhầm người, Địa Tạng Vương kia có tính cách thế nào chứ, trên trời dưới đất ai mà không biết?”

A Cửu gật đầu, nhớ lại dáng vẻ năm đó Địa Tạng hất áo cà sa, ngồi giữa ba nghìn lệ quỷ, dựng tay kết ấn rũ mắt đọc “Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật”.

Sau này A Cửu gặp được một vị thiếu niên anh hùng ở nhân gian, cũng mang theo khí phách chẳng nề hà gian khổ như thế, nói một câu thế này: “Hung Nô* chưa diệt, cần nhà làm gì”.

Trên đời này có rất nhiều người như thế, so với việc sống trong mật ngọt, lại bằng lòng sống với giá trị của bản thân.

A Cửu nghĩ, đây đại khái gọi là lý tưởng.

Trong lúc nói chuyện cửa son mở ra, Ngũ Tiền tiễn Đế Thính ra ngoài, Đế Thính ôm lấy một thấp thiếp màu đỏ trong lòng, cúi đầu vội vàng rời đi.

A Cửu lật người nhảy xuống, hạ xuống trước mặt Ngũ Tiền chưa kịp đóng cửa, Ngũ Tiền thấy mãi thành quen, mặt không gợn sóng mặc cho A Cửu đi theo, đi thẳng vào tẩm điện của Lệnh Hoành.

Tẩm điện của Lệnh Hoành phảng phất hương thơm, ngoài cửa có cánh mai nở đúng dịp, từng chùm đua mình, lại càng tôn lên vẻ lạnh lẽo của Phủ quân đại nhân đang đọc sách trong điện.

Lệnh Hoành nghe thấy động tĩnh A Cửu vào điện, chỉ khẽ quay nửa đầu, bóng hoa rơi xuống nốt ruồi đỏ trên cổ, như thể phủ lên một lớp màn nhung.

“Hôm nay bận, không đánh.” Lệnh Hoành đặt sách về.

Ánh mắt A Cửu quấn lấy cổ Lệnh Hoành, quen đường quen lối ngồi lên ghế thái sư, ngón trỏ đỡ lấy trán, khẽ trượt lên trên, hỏi Lệnh Hoành: “Ban nãy Đế Thính kia tìm cô làm gì thế?”

A Cửu rất ít khi nói chuyện với Lệnh Hoành, giọng điệu có chút ngúng nguẩy, nhưng cô đã nghĩ kĩ càng, nếu Lệnh Hoành tìm sai sứ mới cho Đế Thính để ứng phó với cô, vậy nhất định phải hỏi cho rõ ràng.

Lệnh Hoành hờ hững nhìn A Cửu một cái, dường như có chút ngạc nhiên với giọng điệu ôn hòa của A Cửu, nhưng lại nhanh chóng thu lại, đáp lời: “Tìm thiếp sinh thần.”

“Thiếp sinh thần, là sao?” A Cửu nhíu mày.

A Hoành trải giấy Tuyên ra, sau đó đè chặn giấy lên một góc, từ tốn làm xong, mới nói: “Địa Tạng chuyển thế đầu thai, mỗi lần nhập luân hồi sẽ có một thiếp sinh thần, trên đó viết mệnh cách nhân gian, tôi đưa thiếp cho Đế Thính, Đế Thính có thể biết Địa Tạng sinh vào giờ nào.”

“Viết cái này làm gì?” A Cửu nghiêng người, bị khơi gợi lòng hiếu kì.

Trước giờ A Cửu chưa từng nói nhiều với Lệnh Hoành như thế, nhưng hôm nay vừa nghe lại muốn nói thêm mấy câu.

Nhưng Lệnh Hoành dừng lại, nâng mí mắt nhìn A Cửu một cái, rồi lại rũ xuống, một lúc sau mới nói: “Ba tháng.”

“Ba tháng gì cơ?”

“Nếu ta nói với cô…” Lệnh Hoành nhấc bút, quệt mực, “Ba tháng không được gây sự.”

A Cửu cắn môi, suýt chút nữa lại muốn ra tay.

Nhưng con trùng đói trong lòng lại thò chân tay gõ loạn xạ, dập tắt từng tấc từng tấc ngọn lửa của A Cửu, A Cửu gật đầu, nhướng mày: “Được.”

Dường như Lệnh Hoành cười một cái, nhanh tới mức khiến A Cửu nghi hoặc rằng đó là ảo giác, chỉ nghe thấy Lệnh Hoành vừa giữ ống tay áo viết chữ, vừa nói: “Sau khi Địa Tạng đầu thai thành người trần, Đế Thính liền hóa thành con chó nhỏ, bầu bạn bên cạnh.”

“Tại sao lại là chó con? Làm người không tốt sao?” A Cửu đặt tay lên án thư, nhoài người hỏi Lệnh Hoành.

“Nếu làm người, sợ là tình cảm dây dưa, đảo lộn sách mệnh.”

A Cửu “ồ” một tiếng gật đầu, nhưng lại trào ra một nghi hoặc khác: “Thiếp sinh thần này, nói cho là cho được, có vẻ như phủ Thái Sơn của cô, có chút tùy tiện.”

A Cửu ngầm cười nhạo mỉa mai, cũng không biết Lệnh Hoành không nghe ra, hay là lười tính toán, chỉ có ánh mắt trầm lại, sau đó chậm rãi di chuyển cổ tay: “Là nhờ vả của Địa Tạng trước khi đầu thai.”

“Nhờ vả cô cho Đế Thính thiếp sinh thần? Nhờ vả chuyện này làm gì?”

“Đại khái là…” Lệnh Hoành viết xong nét móc câu cuối cùng, gác bút xuống, thoáng nghĩ ngợi rồi mới nói, “Không nỡ.”

“Không nỡ…” A Cửu lẩm nhẩm, có chút ngẩn người.

Nhưng thấy Lệnh Hoành không nói gì thêm, viền môi đóng kín giống như đang viết bốn chữ “ngôn tận vu thử (những lời cần nói tới đây đã hết)”.

A Cửu không muốn tự chuốc nhục nhã, liền đứng dậy muốn đi, nhưng lại nghe thấy Lệnh Hoành gọi mình.

A Cửu ngẩng đầu, Lệnh Hoành đưa tờ giấy viết ban nãy tới.

“Lời hứa ban nãy, kí tên.”

Ra khỏi điện Lệnh Hoành, mới gần một tiếng đồng hồ, quạ đã chiếm lĩnh ngọn cây đa già, khàn giọng kêu gào. A Cửu nhìn quạ già về tổ trong ánh hoàng hôn, rồi lại nhìn nét chữ bị Đế Thính di mờ, trong lòng vẫn là hai chữ “không nỡ” Lệnh Hoành nói ban nãy.

Khi cô và quạ mắt to mắt nhỏ nhìn nhau, lại càng cảm thấy ngày tháng ở phủ Thái Sơn cực kì nhàm chán, nhưng tại sao bản thân vừa tới đây đã là mười năm, nhưng lại chẳng muốn rời đi.

Ở đây không có hoa thơm cỏ lạ giăng đầy như Chung Sơn, không có thú nhỏ líu ra líu ríu, không có bạn tốt dăm ba bữa lại uống rượu tìm vui, ngay cả con quạ già cũng kêu tiếng được tiếng không, y hệt như câu được câu chăng của Lệnh Hoành khi nói chuyện.

Chu Yếm làm lợn sợ là đã sớm chuyển sang kiếp khác, lí do để không rời đi này đã không còn vững chân, tới cả hiện tại tìm tới cửa đòi đánh nhau với Lệnh Hoành cũng có chút chột dạ nhìn trước ngó sau.

A Cửu cọ lên kẽ tay dính mực đỏ ban nãy kí tên không cẩn thận bị dính lên, kỳ hạn ba tháng Lệnh Hoành nói ban nãy, giống như một tờ giấy tạm trú danh chính ngôn thuận, khiến A Cửu lại phảng phất vui vẻ trở lại.

Đang chìm trong suy nghĩ, không để tâm lại đi gần tới dòng luân hồi, bầu trời nặng nề buông xuống, một hàng du hồn cuồn cuộn bên trong cát vàng. Một đám cao thấp không đều, hình thù kì quái, có đồ tể mặt mày vàng vọt, cũng có cả gà cảnh ngẩng cao đầu rảo bước. A Cửu ngẩng đầu nhìn lên ba chữ “Súc Sinh Đạo” trên bia đá, trong tiếng bước chân chầm chậm tiến về phía trước, nhìn thấy một một thân hình quen thuộc.

Đế Thính gầy bé ôm tấm thiếp sinh thần kia, ôm thật chặt trong lòng, kéo vạt áo, đang đứng cuối đội ngũ tiến vào Súc Sinh Đạo.

Đế Thính khác với tất cả ánh mắt đờ đẫn của con người cùng súc vật, trong mắt Đế Thính sinh sôi hi vọng của thiếu nữ, đầu mũi rịn ra một lớp mồ hôi mỏng, lại vô duyên vô cớ hiện lên mấy phần lo lắng.

Ma xui quỷ khiến A Cửu gọi Đế Thính.

Đế Thính quay đầu, chớp mắt đôi cái, mỉm cười chào hỏi: “Cửu đại nhân.”

A Cửu mở mắt: “Cô biết tôi?”

Đế Thính vẫn cười: “Chuyện ngoài điện Phủ quân, tôi đã nghe hết rồi.”

Khi nói chuyện Đế Thính động đậy tai phải, lộ ra dáng vẻ của chó.

Những lời khua môi múa mép bị bắt bài, A Cửu có chút cảm giác lúng túng, mím môi lại rồi mới hỏi Đế Thính: “Cô thật sự nhập Súc Sinh Đạo này sao?”

Thần Thú tốt đẹp thì không làm, lại muốn làm chó hoang.

Đế Thính vẫn ôm thiếp sinh thần kia, cười tới nhăn mũi: “Phải.”

“Tại sao?” A Cửu mù mà mù mờ như thể hỏi chuyện đầu thai, lại như hỏi chuyện khác.

Đế Thính không đáp, chỉ nhấc bước nhẹ nhàng đi vào trong đội ngũ.

A Cửu đứng bên bia đá, nhìn bóng lưng gầy gò của Đế Thính, trước mặt là dòng luân hồi khổng lồ giống như hang đen, giống như chiếc miệng lớn giương nanh hung tợn, chờ đợi ăn tươi nuốt sống cơ thể nhỏ bé của Đế Thính.

Rất lâu sau, A Cửu mới thấy nơi nhô lên trên sống lưng Đế Thính động đậy, Đế Thính cúi cằm xuống, như thể đang nói với thiếp sinh thần trong lòng.

Đế Thính nói: “Vì tôi đã nghe thấy.”

“Gì cơ?” A Cửu cắn môi.

Đế Thính vẫn mỉm cười, nhớ lại khoảnh khắc bản thân xông vào đại điện rất nhiều năm trước, Địa Tạng vẫn đại từ đại bi ngồi trong chúng quỷ, giống một đóa sen thẳng tắp sa xuống vũng bùn lầy.

Địa Tạng nhìn Đế Thính, không chút hoảng loạn, cũng không chút chật vật, thậm chí ngay tới cái nhíu mày cũng không.

Nhưng ở trước mặt thần phật, trong tai trái Đế Thính dễ dàng phân biệt thật giả trên trời dưới đất, Địa Tạng đã cất lên một câu nói dối duy nhất từ khi sinh ra tới nay.

“Nghe thấy trong lòng ngài không có tôi, là giả.”

Cát vàng rợp trời nuốt lấy cơ thể của thiếu nữ, giống như đôi tay của thợ lành nghề, nhổ mũi miệng, dựng vành tai, vo khung xương thành một nhúm, rút từng sợi lông tơ trên đuôi, cuối cùng đè cơ thể thẳng tắp của Đế Thính xuống, nằm sấp trên mặt đất, trở thành con chó con bốn chân đạp tuyết.

Lông tơ của chó con mới sinh được phủ lên một lớp nước ối, nhăn nhúm, chưa thể mở to mắt, tứ chi không có sức lực nằm bệt dưới đất, giống như đã trải qua một phen đại nạn.

Lúc này nó nặng nề thiếp đi trên đôi bàn tay thon dài trắng trẻo, cổ tay khẽ giơ lên, cô gái mặc trường quần màu xanh giao lại cho người làm ở bên cạnh, khẽ nói: “Con thứ tư.”

Cô gái đứng trước chậu đồng rửa sạch tay, nhìn ánh mặt trời rực rỡ nhảy nhót bên ngoài, nhưng lại khép rèm cửa, ngồi trước án thư, bắt đầu viết thư.

“Mùa đông năm 1924, hôm nay trời quang, Ngọc Bảo sinh được bốn con chó con, một đực ba cái, lanh lợi đáng yêu.”

Cô gái dừng bút, tỉ mỉ suy nghĩ hết lần này tới lần khác: “Nếu cô thích, thì tới nhìn xem.”

Đầu bút lơ lửng giữa không trung, khẽ rung lên, mực nhỏ xuống, giống như dấu chấm câu.

Cô gái áo xanh đặt bút xuống, đóng phong thư lại, mở ngăn tủ ra, nhìn thư chưa gửi chất đầy bên trong, đặt phong thư mới lên trên đầu.

Cô gái lười biếng đứng dậy, mở vò rượu thơm ngát trên bàn, rót cho mình một chén, ngồi lên bàn, dựa đầu bên cửa sổ, vô cùng nhàm chán đợi mặt trời lặn.

Một âm thanh khàn khàn từ mặt đất truyền lên, Tiểu Thanh Xà ngẩng đầu, nói: “Nếu đại nhân muốn gửi thư, em sẽ tới phủ Thái Sơn.”

Vũ Sư Thiếp uống một ngụm rượu, cười nói: “Thôi bỏ đi.”

Tiểu Thanh Xà trèo đèo lội suối, khó khăn lắm mới bò được tới bên Vũ Sư Thiếp, cuối cùng nghi hoặc hỏi ra: “Đại nhân thường xuyên viết thư, nhưng lại không gửi nữa, là vì nguyên cớ gì?”

Vũ Sư Thiếp ngửi rượu thơm, nghiêng đầu: “Vì, ta ngửi thấy rồi.”

“Gì ạ?”

Ngón tay Vũ Sư Thiếp rũ xuống, đặt lên bức thư cuối cùng A Cửu gửi tới mấy hôm trước, hai chữ “Lệnh Hoành” thấp thoáng lộ ra trên mặt giấy viết thư, lần thứ ba xuất hiện trong thư của A Cửu.

Đầu ngón tay Vũ Sư Thiếp gõ một cái, không trả lời.

Rất lâu sau, Vũ Sư Thiếp mới nói: “A Cửu sẽ hiểu.”

Thú nhỏ chưa từng được khai hóa, đại khái cần rất nhiều rất nhiều thời gian, mới có thể hiểu được một thứ gọi là tình yêu.

Còn cần nhiều thời gian hơn nữa, mới có thể hiểu được yêu và không yêu hoàn toàn không giống nhau.

Có tình yêu là núi cao nước sâu, có tình yêu là cách trở núi sông. Có tình yêu là biển rộng mênh mông, có tình yêu là từ biệt hồng hà.

Chú thích:

1. Viên Hạng Thành hay Viên Thế Khải: là một đại thần cuối thời nhà Thanh và là Đại Tổng thống thứ hai của Trung Hoa Dân Quốc, đồng thời là hoàng đế duy nhất của Đế chế Hồng Hiến.

2. Tị thế: thoát li cuộc sống hiện tại, tránh tiếp xúc với ngoại giới.

3. Thế độ: cạo đầu đi tu.

4. Dân tộc Hung Nô: là dân tộc thời cổ, thời Chiến Quốc sống du mục phía Bắc các nước Yên, Triệu, Tần. Thời Đông Hán phân liệt thành Bắc Hung Nô và Nam Hung Nô, Bắc Hung Nô bị người Hán đánh bại, chạy về phía Tây, Nam Hung Nô sát nhập vào Hán, Trung Quốc.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.