Từng Thề Ước

Quyển 2 - Chương 17: Gió tung bông liễu, giang sơn ngả[1]



Chờ đợi suốt ngàn vạn năm, tự mua dây buộc mình, thời gian đằng đẳng như ngưng kết lại trong khoảnh khắc chia tay, mãi mãi dừng lại ở phút giây
người đó cất bước ra đi, còn đương đinh ninh dặn dò, thiết tha nhắn gửi, nhìn bề ngoài cứ ngỡ là si ngốc, nhưng đó chẳng phải một dạng thông
minh đấy ư?

[1] Trích trong bài qua biển Linh Đinh của Văn Thiên Tường (1236-1283). (ND)

Hơn một năm sau, nhờ A Hành dốc hết tâm sức săn sóc, cuối cùng Hoàng Đế cũng giữ được tính mạng.

Vì linh thể đã trọng thương nên Hoàng Đế bắt đầu lộ vẻ già nua, mái tóc
bạc trắng, gương mặt đầy nếp nhăn, cặp mắt cũng trở nên lờ đờ chậm chạp, chỉ thỉnh thoảng khi liếc mắt mới lại thấy sắc lạnh như xưa.

Hơn một năm nay tuy có Tri Mạt bày mưu tính kế, Ly Chu, Tượng Võng phụ tá,
nhưng dù sao nước không có vua cũng như rắn mất đầu, quân của Xi Vưu
liên tiếp giành thắng lợi, đã thu hồi lại toàn bộ lãnh thổ Thần Nông.

Từ sau khi tỉnh lại, ngày ngày Hoàng Đế đều thần người nhìn bức địa đồ do thổ linh ngưng tụ lại, trầm tư suy nghĩ.

Chuyên Húc và Tiểu Yêu nhón chân ghé mắt nhìn trộm qua cửa sổ, chợt Hoàng Đế
ngoảnh lại, cả hai giật thót mình, soạt một tiếng, rụt đầu lại núp dưới
khung cửa.

Hoàng Đế gọi: “Các cháu vào đây đi.”

Chuyên
Húc và Tiểu Yêu nắm tay nhau bước tới trước mặt Hoàng Đế, Chuyên Húc chỉ bức địa đồ màu vàng đầy đủ núi non sông ngòi do thổ linh ngưng tụ
thành, hỏi: “Ông nội, cái gì đây ạ?”

Tiểu Yêu nhanh miệng đáp: “Địa đồ, địa đồ của phụ vương cháu màu lam, do thủy linh ngưng tụ thành.”

Hoàng Đế giải thích cho Chuyên Húc: “Đây là địa đồ Hiên Viên quốc.”

“Con sông này tên gì?”

“Hắc hà.”

“Còn ngọn núi này?”

“Đôn Vật sơn.”

Chuyên Húc luôn miệng hỏi, còn Hoàng Đế cũng ân cần giảng giải từng vấn đề
một, cậu nhóc nghe rất chăm chú, trong khi Tiểu Yêu chán nản ngáp dài,
tựa vào sập gà gật ngủ.

Chuyên Húc trỏ xuống cực Đông Nam của địa đồ, hỏi: “Sông gì đây ạ?”

“Tương thủy, có điều nó thuộc về Cao Tân, cháu có muốn ngắm cảnh Tương thủy không?”

Chuyên Húc gật đầu lia lịa.

Hoàng Đế ngưng tụ linh lực, lập tức một bức tranh phong cảnh Tương thủy trải
ra ngay trước mắt Chuyên Húc, non xanh nước biếc, hoa thơm cỏ lạ, quả là muôn màu muôn vẻ.

Chuyên Húc liếc trộm Tiểu Yêu, thấy cô bé đã
lơ mơ ngủ, không thể cười mình được nữa, bấy giờ mới yên tâm nói thật:
“Đẹp quá, đẹp hơn Tiểu Yêu mô tả nhiều, đúng là khác hẳn Hiên Viên chúng ta.”

Hoàng Đế mỉm cười: “Phải tới Trung Nguyên, cháu mới biết thế nào gọi là rừng vàng biển bạc.”

Chuyên Húc nghe nói không giấu được vẻ háo hức.

A Hành bước vào bế Tiểu Yêu lên, vẻ trách móc: “Hiện giờ thân thể phụ
vương vẫn chưa hoàn toàn bình phục, người đừng lạm dụng linh lực. Chuyên Húc, về đi ngủ thôi.”

Chuyên Húc theo A Hành ra đến cửa, chợt ngoảnh lại hỏi Hoàng Đế: “Ông ơi, sáng mai cháu đến tìm ông được không?”

A Hành nhắc: “Sáng mai con phải học vẽ.”

Chuyên Húc phản bác: “Con không thích học mấy thứ đó, thích nghe ông và Tri Mạt, Ly Chu và Tượng Võng bàn bạc công việc kia.”

A Hành sững người, con trai Tứ ca lại không thích học vẽ là sao?

Chuyên Húc kéo tay áo nàng, nài nỉ: “Đi mà, cô cô.”

Hoàng Đế cũng bảo A Hành: “Ta vốn định nói chuyện này với con, nào ngờ cháu
nó đã tự động nói trước. Ta muốn giữ Chuyên Húc bên mình để đích thân
dạy dỗ nó.”

A Hành đưa mắt nhìn Chuyên Húc, thấy cậu nhóc vẫn
chưa hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói này. Trong mắt Chuyên Húc ăm
ắp khát vọng, cậu bé nhìn nàng đầy van nỉ, luôn miệng nài xin: “Đi mà,
cô cô, cô cô.”

A Hành dịu giọng: “Con đã muốn vậy thì từ mai trở đi, con sẽ theo ông nội để ông nội dạy bảo.”

Chuyên Húc mừng rỡ nắm chặt lấy tay A Hành.

Về đến tẩm điện A Hành giao Tiểu Yêu cho Chu Du chăm sóc, còn mình giúp
Chuyên Húc rửa mặt thay áo. Tuy ngoài mặt Chuyên Húc chẳng lộ vẻ gì,
nhưng trong lòng cậu cũng biết, cô cô thương mình hơn cả Tiểu Yêu.

A Hành đắp chăn cho Chuyên Húc, đậy chiếc vỏ sò đựng đầy Dạ Minh Châu bên giường lại, căn phòng tức thì tối om.

Nàng định quay ra, chợt Chuyên Húc cất tiếng: “Sau này lớn lên, con nhất
định sẽ bảo vệ cô cô và Tiểu Yêu, cả Chu Du nữa, không để ai hà hiếp mọi người đâu!”

A Hành bật cười mà lòng không khỏi xót xa. Một đứa
trẻ đang tuổi vô tư lự, vậy mà phải nếm trải nỗi đau mất cha mất mẹ, đến nỗi chỉ mong mình nhanh nhanh trưởng thành để bảo vệ những người thân
cận, không muốn mất thêm một người nào nữa. Nàng ngồi xuống bên giường
nhìn Chuyên Húc nhưng cậu nhóc đã nhắm nghiền mắt lại, dường như kẻ vừa
rồi lên tiếng chẳng phải mình. A Hành khẽ hôn lên trán cậu, đáp khẽ:
“Được.”

Đại quân Xi Vưu tiếng sát biên giới Hiên Viên thì dừng
lại, Xi Vưu yêu cầu Hoàng Đế đầu hàng, chỉ cần Hoàng Đế không bao giờ
tấn công Thần Nông nữa, đồng thời tạ tội với Viêm Đế Du Võng, hắn sẽ
không tiến đánh Hiên Viên.

Tri Mạt cực lực khuyên Hoàng Đế nhận
lời, ký hiệp ước với Thần Nông, thề không tiến đánh Thần Nông nữa để đổi lấy hòa bình. Tất cả triều thần đều cho rằng Hoàng Đế sẽ chấp thuận lời đề nghị của Xi Vưu, dù sao hắn cũng chỉ thu lại phần lãnh thổ thuộc về
Thần Nông, chẳng xâm phạm gì đến Hiên Viên cả.

Trái với dự liệu
của mọi người, Hoàng Đế không chấp thuận lời đề nghị của Xi Vưu. Ông
cương quyết tuyên bố: “Muốn ta thề trước toàn thiên hạ vĩnh viễn không
xâm phạm Thần Nông, tuyệt không thể được! Mộng tưởng cả đời ta chính là
thống nhất Trung Nguyên, ta thà chết cũng quyết không từ bỏ giấc mộng
này!”

Tri Mạt đương lúc khẩn khiết, cao giọng chất vấn: “Vậy còn bách tính Hiên Viên thì sao? Bệ hạ hãy hỏi xem bọn họ có nguyện chết vì Trung Nguyên hay không? Họ nhất định không bằng lòng! Họ chỉ muốn sống
yên ổn mà thôi!”

Hoàng Đế còn phải trông cậy vào Tri Mạt, không
muốn phát sinh xung đột với ông ta về vấn đề này, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Ngươi thấy ta có thể được coi là anh hùng chăng? Trong thiên hạ
có mấy kẻ có thể sánh được với ta?”

Tri Mạt nhất thời không nhận ra ý của Hoàng Đế, chỉ biết thành thật đáp: “Bệ hạ chẳng những là anh
hùng, mà còn là bá chủ thiên cổ! Xin bỏ qua cho thần cuồng vọng, thần
thấy Phục Hy đại đế cũng không bì được với bệ hạ.”

Hoàng Đế lạnh lùng nhìn Tri Mạt: “Thần Nông nằm giữa Trung Nguyên, lãnh thổ mênh
mông, sản vật dồi dào, địa linh nhân kiệt, hai đời Viêm Đế đều không ham chiến tranh, vậy mà vị bá chủ thiên cổ trong mắt ngươi như ta, tấn công Thần Nông còn khó khăn như vậy, ngươi cho rằng Hoàng Đế tương lai của
Hiên Viên có thể làm được hơn ư?”

Bây giờ Tri Mạt mới hiểu ý Hoàng Đế, ông ta trầm ngăm hồi lâu, đoạn khó nhọc đáp: “Không thể.”

“Ngươi nghĩ cứ yên phận ở mãi miệt Tây Bắc có thể khiến bách tính an cư lạc
nghiệp ư? Lỡ như Thần Nông tương lai sản sinh ra một vị Viêm Đế có hùng
tâm tráng chí thì Hiên Viên bị diệt quốc chỉ là chuyện trong chớp mắt
thôi. Nếu hiện giờ ta không nhổ cỏ tận gốc, nên đánh Thần Nông tới cùng, thì mấy ngàn năm nữa, sẽ tới lượt Thần Nông đánh chiếm Hiên Viên!”

Ánh mắt sắc bén của Hoàng Đế nhìn xoáy vào Tượng Võng và Ly Chu dưới thềm,
“Các ngươi có bằng lòng theo ta thống nhất Trung Nguyên không?”

Tượng Võng và Ly Chu lập tức quỳ xuống, hệt như mấy ngàn năm trước, khảng khái đáp: “Chúng thần thề chết phò tá bệ hạ!”

Tri Mạt chăm chú nhìn Hoàng Đế, ông không hề tán thành mộng tưởng của Hoàng Đế, nhưng Hoàng Đế cũng là người ông tôn kính tận đáy lòng, trên thế
gian này, có được mấy nam nhân can tâm xả thân vì mộng tưởng của mình
đây? Lại có được bao nhiêu nam nhân ôm ấp lý tưởng vô tiền khoáng hậu
như vậy?

Hoàng Đế tươi nét mặt, bước đến đứng giữa Ly Chu và
Tượng Võng, cười nhìn Tri Mạt hỏi: “Ba người chúng ta đều ở đây, huynh
đài, ngươi có bằng lòng ở lại, cùng chúng ta gầy dựng nên đại nghiệp
oanh liệt ngàn đời chăng?”

Hơn bốn ngàn năm trước, trên Hiên
Viên sơn, Hoàng Đế cũng đã hỏi Tri Mạt câu này. Vẻ mặt Tri Mạt dần dịu
lại, chỉ biết lắc đầu cười khổ. Bốn ngàn măm trước, ông đã bị người đàn
ông này khuất phục, bốn ngàn năm sau, ông vẫn bị người đàn ông này khuất phục. Thế nên, dù căm ghét chiến tranh, ông vẫn nguyện dốc lòng dốc sức vì ông ta. Tri Mạt lặng lẽ tiến lại, quỳ xuống trước mặt Hoàng Đế.

Hoàng Đế cười lớn, đỡ cả ba dậy, tràn trề tự tin nói: “Bốn huynh đệ chúng ta
nhất định sẽ có ngày bước lên đỉnh Thần Nông sơn! Đến chừng đó, sẽ uống
tràn cùng mây, ôn lại chuyện xưa, cười xem thiên hạ!” Trong phút chốc,
dường như tất cả tóc bạc nếp nhăn đều biến mất, Hoàng Đế lại trở thành
gã thiếu niên hào tình vạn trượng, tráng chí ngút trời năm ấy.

Hiên Viên cự tuyệt đầu hàng, không những thế, còn tuyên bố sẽ thay Thần Nông thảo phạt Xi Vưu.

Hoàng Đế chính tay thảo một bài hịch hơn ngàn từ chiếu cáo thiên hạ, liệt kê
hơn trăm tội danh của Xi Vưu: độc đoán chuyên quyền, tàn bạo hiếu sát,
chỉ vẻn vẹn hơn hai trăm năm đã tận diệt tám mươi bảy gia tộc trung
thành son sắt, đời đời phò tá Viêm Đế, khiến năm ngàn ba trăm chín mươi
sáu vị trung thần chết dưới cực hình, chưa kể vô số tội trạng khinh nhờn bề trên, hiếp đáp kẻ dưới nữa.

Hoàng Đế trùng trùng lo lắng,
khẩn thiết hỏi: mới hơn hai trăm năm đã giết bấy nhiêu người, nếu Xi Vưu nắm giữ Thần Nông quốc, tương lai sẽ còn giết bao nhiêu người, tận diệt nao nhiêu gia tộc nữa đây? Đoạn lại khéo léo lái sang chỉ trích Du Võng ngu dốt bất tài, rõ ràng biết gian thần lộng quyền, vô số đại thần liều chết dâng sớ, xin biểm chức Xi Vưu, y đều phớt lờ, chẳng những không
trị tội Xi Vưu, mà còn ngồi nhìn hết trung thần này tới trung thần khác
chết thảm, quả là nhu nhược như đàn bà. Bởi thế, Thần Nông quốc mới sinh ra quân thân lục đục, lòng dân tan tác. Hoàng Đế lại giải bày gan ruột
cùng thiên hạ: từ khi Hiên Viên lập quốc, ông nhất mực cần mẫn lo việc
triều chính, chăm sóc cho bách tính, đối đãi với dân chúng Thần Nông quy hàng chẳng khác nào con dân của mình, Du Võng dung túng Xi Vưu làm nhục những bậc lương đống như Hậu Thổ, còn ông ta lại ban cho Hậu Thổ vinh
hoa phú quý tương xứng với thân phận. Ông khẳng định mình không phải kẻ
hiếu chiến, mà chỉ vì không đành lòng nhìn Xi Vưu tàn nhẫn giết choc,
mới ra tay thay Thần Nông thảo phạt Xi Vưu.

Bài hịch của Hoàng
Đế xuất hiện rất đúng thời điểm. Quân đội của Xi Vưu đã giành lại Thần
Nông từ tay Hiên Viên, Hiên Viên không còn là kẻ xâm lược nữa, vô số quý tộc Thần Nông từng nắm giữ quyền hành da liền sẹo thì cũng quên cả đau, bắt đầu luyến tiếc quyền lực phú quý của mình, nhưng binh quyền đều nằm cả trong tay Xi Vưu, họ chẳng cách nào có được vinh hoa phú quý như xưa nữa, phải làm sao đây? Đúng lúc này, Hoàng Đế ra mặt thay bọn họ tru
diệt Xi Vưu, còn hứa hẹn Thần Nông về sau vẫn là của họ, khiến họ mừng
rỡ khôn xiết.

Vô số bô lão Thần Nông nhận được bài hịch tha
thiết chân thành, văn hoa trôi chảy của Hoàng Đế, nghĩ lại những tháng
ngày thê thảm luôn phải nơm nớp lo âu, sống nay chết mai sau khi Du Võng đăng cơ, thảy đều rơi nước mắt. Đám quý tộc Thần Nông luôn ôm hận với
Xi Vưu, lại được thêm vô số thuyết khách của Hoàng Đế đi khắp nơi uốn ba tấc lưỡi du thuyết, phân tích lợi hại, khiến rất nhiều già trẻ lớn bé
Thần Nông bắt đầu ngã theo Hoàng Đế, cho rằng Du Võng quả thật ngu dốt
bất tài, nếu không phải Du Võng dung túng Xi Vưu, Thần Nông sao có thể
diệt quốc? Nếu Thần Nông còn nằm trong tay Xi Vưu, bọn họ sớm muộn cũng
sẽ mất mạng.

Tóm lại, bài hịch đã giúp Hoàng Đế được chính danh, đồng thời tàn hủy thanh danh Du Võng, chẳng khác nào một thứ độc dược.

Nhận được bài hịch yêu cầu đầu hàng của Hoàng Đế, Xi Vưu bưng vò rượu vừa
uống vừa đọc, đọc đến đoạn kiệt kê tội trạng của mình, gương mặt hắn đầy vẻ cười cợt, chẳng buồn để tâm, nhưng khi đọc tới tội trạng của Du
Võng, hắn sa sầm mặt xuống, bóp vỡ cả vò rượu bằng đồng trong tay.

Du Võng là kẻ trung hậu nhân từ nhất mà Xi Vưu từng thấy: khi Chúc Dung
truy sát hắn, là Du Võng chẳng nề nửa đêm tới khẩn cầu Viêm Đế thu hồi
mệnh lệnh tru diệt Xi Vưu; khi tất cả mọi người trên Thần Nông sơn đều
chửi rủa hắn là cầm thú, là Du Võng đứng ra bênh vực hắn, la rầy bọn họ; khi Xi Vưu hắn nổi giận đánh bị thương tất cả mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, là Du Võng suốt đêm đuổi theo, ở bên hắn mấy ngày mấy đêm;
khi Xi Vưu cô độc phẫn nộ ở cấm địa Thảo Ao lĩnh, là Du Võng trộm rượu
đem lên núi cho hắn.

Suốt mấy trăm năm, Du Võng tự hồ một vị
huynh trưởng ôn hòa nhẫn nãi, đã khiến cho một kẻ hung hăng tàn bạo như
Xi Vưu cảm nhận được thế nào là tình người.

Sau khi Viêm Đế qua
đời, vô số người từng tấu trình lên Du Võng, ngay cả Vân Tang cũng e
ngại Xi Vưu một tay nắm giữ bình quyền, sợ rằng sau này sẽ soán ngôi
đoạt vị, chỉ mình Du Võng chưa hề nghi ngờ mảy may.

Tuy ngoài
miệng chưa từng thừa nhận, nhưng trong lòng Xi Vưu, Du Võng chính là
huynh trưởng của hắn, là người duy nhất khiến hắn tin rằng trên đời này
thật sự còn có thiện lương. Vậy mà giờ đây, vị quân vương thiện lương
nhân hậu, một lòng lo lắng cho bách tính Thần Nông lại bị Hoàng Đế đảo
lộn đen trắng, thả sức vu khống như vậy.

Phong Bá lẩm bẩm: “Sao
đọc bài hịch này, ta lại thấy mình đúng là tội nặng như núi thế nhỉ? Cứ
như là gian thần tặc tử soán vị đổi ngôi ấy.”

Vũ Sư giải thích:
“Đó là nguyên nhân vì sao bậc đế vương thông minh dù hùng mạnh đến đâu
cũng không thể dựa vào vũ lực mà lập quốc được. Vũ khí chỉ chinh phục
được thân thể, văn tự và ngôn ngữ mới chinh phục được con người.

“Chúng ta tính sao đây? Lẽ nào định đầu hàng Hoàng Đế?”

Vũ Sư xuất thân thế gia, đương nhiên hiểu rõ mấy chuyện tranh quyền đoạt
lợi, bèn nói: “Đám chư hầu quý tộc Thần Nông vừa hận vừa sợ chúng ta,
hiện giờ dù chúng ta từ bỏ binh quyền, chúng cũng suy bụng ta ra bụng
người, đời nào chịu tin tưởng, sớm muộn ắt sẽ giết sạch chúng ta mà
thôi. Huống hồ, nếu quy hàng Hoàng Đế, ông ta nhất định sẽ chém đầu Xi
Vưu để lấy lòng đám quý tộc Thần Nông. Chúng ta đã lâm vào đường cùng
rồi, chỉ còn cách duy nhất là đánh bại Hoàng Đế mà thôi. Đến khi giành
được thắng lợi, chúng ta có thể muốn gì nói đó, kẻ thất bại chẳng có tư
cách lên tiếng, những gì được lưu truyền cho hậu thế, đều là tiếng nói
của người thắng cuộc.”

Phong Bá lại hỏi: “Lỡ như thất bại thì sao?”

“Thì chúng ta sẽ vĩnh viễn là quân gian thần tặc tử theo lời Hoàng Đế.” Vũ
Sư nhìn Xi Vưu, lòng đầy thấp thỏm, chẳng rõ hắn đang nghĩ gì.

Phong Bá chợt vỗ đùi đánh đét: “Mẹ nó, không thể để tiếng thơm ngàn đời thì
lưu tiếng thối muôn thuở cũng hay, dù gì ông đây cũng sảng khoái mà
sống, mặc xác kẻ khác nói gì!”

Bọn Si Mỵ Võng Lượng đua nhau hùa theo: “Phải rồi, phải rồi.”

Phong Bá trịnh trọng bảo Xi Vưu: “Xưa nay ta hành sự không thẹn với lương
tâm, mà đầu hàng chính là nhận sai, dù có giết ta, ta cũng nhất định
không đầu hàng Hoàng Đế. Ta đã theo huynh mấy trăm năm, Du Võng đối với
chúng ta ra sao, ta đều ghi nhớ trong lòng, chúng ta quyết không thể để
Hoàng Đế nhục mạ huynh đệ mình như vậy được. Xi Vưu, huynh hạ lệnh đi!”

Xi Vưu đưa mắt nhìn tất cả huynh đệ đi theo mình, bọn họ đang lũ lượt quỳ xuống, chăm chú đổ dồn ánh mắt về phía hắn.

Đối mặt với tám mươi mốt cặp mắt rừng rực nhiệt huyết, cam nguyện vì mình
mà hiến dâng tính mạng, Xi Vưu bật cười lớn, tiếng cười phảng phất vẻ
bất lực và chua xót. Hắn dõi mắt nhìn về hướng Hiên Viên quốc, một lúc
lâu sau mới cao giọng ra lệnh: “Chuẩn bị toàn lực tấn công Hiên Viên
quốc, chừng nào Hoàng Đế chịu đầu hàng, tạ tội với Du Võng, bấy giờ mới
ngừng tấn công.”

Quân đội của Hiên Viên liên tiếp thất bại trước đại quân của Xi Vưu.

Chẳng những Hiên Viên và Thần Nông chiến hỏa liên miên mà Cao Tân cũng chẳng
được thái bình. Trung Dung bị giam trên đảo hoang bỗng nhiên biến mất,
mấy tháng sau, đã thấy y tự xưng vương ở mé Tây Cao Tân, tuyên bố thảo
phạt Thiếu Hạo.

Binh lực Thần tộc của Cao Tân có tổng cộng bốn
bộ, Thanh Long bộ là đích hệ của Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ đã quy thuận Thiếu Hạo từ lâu, còn hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ do hai anh em Trung Dung
nắm giữ, sau khi Tuấn Đế đời trước qua đời, Thiếu Hạo sợ hai bộ này dấy
binh nổi dậy nên ra sức thanh trừng bọn họ. Nhưng quan hệ mắc míu phức
tạp mấy vạn năm, nào phải một sớm một chiều mà cắt đứt được ngay, lúc
này dưới sự hiệu triệu của Trung Dung và mấy vương tử khác, lấy cái chết đáng ngờ của Tuấn Đế làm cớ dấy binh, hai bộ này liền tuyên bố chỉ thừa nhận Trung Dung, không thừa nhận Thiếu Hạo. Thiếu Hạo đụng phải nội
loạn, đành kết minh với Hiên Viên Hoàng Đế, hứa hẹn sẽ chi viện binh sĩ
Thần tộc cho Hiên Viên khi cần, cùng nhau thảo phạt Xi Vưu, tiếc rằng
Hiên Viên vẫn thất bại liên tiếp, không cách nào cứu vãn được.

Xi Vưu thế như chẻ tre, một đường đánh thẳng đến Hắc thủy. Trong Hiên Viên thành, khắp nơi đều là bách tính chạy nạn, lòng dân hoang mang, râm ran đồn đại rằng đại quân Xi Vưu chẳng mấy chốc sẽ đánh đến Hiên Viên
thành.

Trong Thượng Viên cung, Tri Mạt, Ly Chu, Tượng Võng, mấy
cận thần bên cạnh Hoàng Đế, cùng Hiên Viên Hưu, Hiên Viên Thương Lâm,
mấy viên đại tướng đang bàn bạc kế sách đối phó với Xi Vưu, Hoàng Đế ngả người trên sập, Chuyên Húc đứng bên cạnh, đều đang bình thản lắng nghe.

Hiên Viên Hưu và Hiên Viên Thương Lâm đều không dám hỏi thẳng Hoàng Đế, cứ
liên tục ra hiệu cho Ly Chu, Ly Chu đành tâu: “Chúng thần nhiều lời như
vậy, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn phải trông vào bệ hạ.”

Bấy giờ Hoàng Đế mới chậm rãi nói: “Từ sau trận Phản Tuyền, chúng ta thất
bại liên tiếp là lẽ thường, bởi binh bại như núi đổ, thủ đoạn của Xi Vưu lại nham hiểm độc ác. Chẳng những binh sĩ sợ hắn, mà ngay cả các ngươi
từ sâu thẳm đáy lòng cũng sợ hắn, trong các ngươi kẻ nào dám nói mình
không sợ Xi Vưu?”

Ánh mắt Hoàng Đế quét qua khắp lượt những kẻ
có mặt trong điện, Tượng Võng đỏ bừng mặt, bọn Hiên Viên Hưu nhất loạt
cúi gầm đầu, Hoàng Đế lại nói: “Hiện giờ cách duy nhất để xoay chuyển
cục thế là phải đánh thắng một trận, có vậy mới chấn hưng được sĩ khí,
giải trừ được nỗi sợ hãi trong lòng các ngươi.”

Mọi người nghe nói đều gật đầu hưởng ứng, Tri Mạt tâu: “Nhưng muốn thắng được, cần có một viên đại tướng không sợ Xi Vưu.”

Mọi người trong điện lại nhìn nhau, ai nấy đều ngẩn người ra, các đại tướng có thể cầm quân trong Hiên Viên tộc đều ở đây cả rồi.

Quen biết đã lâu, Hoàng Đế hiểu Tri Mạt trầm mặc kiệm lời nhưng lời nói ra luôn
có ẩn ý, bèn xua tay ra hiệu, “Các ngươi lui xuống trước đi.”

Trong đại điện chỉ còn lại Tượng Võng, Ly Chu và Tri Mạt.

Hoàng Đế lại quay sang bảo Ly Chu: “Nói cho Tri Mạt biết chuyện của Trung Dung đi.”

Thấy Ly Chu đưa mắt nhìn Chuyên Húc, Hoàng Đế lại phán: “Không cần kiêng kỵ nó.”

Ly Chu bắt đầu thuật lại: “Nhiều năm trước, Tuấn Đế qua đời, Thiếu Hạo hạ
lệnh giam cầm Trung Dung, Hoàng Đế liền sai ta bí mật liên hệ với Trung
Dung, dốc sức giúp hắn truyền tin ra ngoài. Sau khi Hoàng Đế bị Xi Vưu
đánh trọng thương, việc đầu tiên ngài giao phó cho ta, chính là bằng mọi giá giúp Trung Dung vượt ngục. Chúng ta đã hy sinh hơn một trăm cao thủ tuyệt đỉnh được huấn luyện từ nhỏ mới có thề giúp y trốn thoát. Sự việc về sau các ngươi đều đã biết, Trung Dung dấy binh tự lập làm vương. Có
lẽ Thiếu Hạo cũng đoán được chúng ta âm thầm giúp đỡ Trung Dung, nên cực chẳng đã mới phải từ bỏ thế trung lập, kết minh với chúng ta, hứa sẽ
cho mượn binh sĩ Thần tộc, cùng đối phó Xi Vưu.”

Tượng Võng và
Tri Mạt biết Hoàng Đế đa mưu túc trí nên tuy bất ngờ nhưng không đến nổi kinh ngạc, chỉ riêng Chuyên Húc rúng động nhìn ông nội, thì ra đi một
nước cờ lại phải tính toán nhiều năm như vậy, con cờ kẻ khác vứt bỏ vẫn
có thể trở thành tuyệt chiêu của mình.

Hoàng Đế bình thản nói:
“Hiện giờ nhìn bề ngoài Hiên Viên có vẻ rất gay go, nhưng thực ra cũng
chưa có gì đáng ngại. Xi Vưu cương mãnh thật đấy, nhưng cương quá thì dễ gãy, mãnh quá lại dễ tổn thương. Tốc chiến tốc thắng thì ăn thua nhau ở chỗ quân đội dũng mãnh, nhưng kháng chiến trường kỳ phải trông vào quốc lực tài phú. Dù sao Thần Nông cũng đã mất nước, bách tính ly tán, tiền
tài tập trung cả trong tay đám quý tộc, mà bọn này đa phần đều quy thuận chúng ta, chỉ còn lại mấy tên cứng đầu cứng cổ chủ trương tự lập, cũng
chẳng chịu hợp tác với Xi Vưu, bởi vậy Xi Vưu không lấy đâu ra được
nguồn tài lực lâu dài. Hắn am tường binh pháp, hắn cũng hiểu việc này
nên luôn dùng thủ đoạn đẫm máu để đẩy nhanh tiến độ, trận nào trận nấy
đều muốn đánh nhanh thắng nhanh là vì vậy.”

Bấy giờ người trong
đại điện mới phần nào hiểu được Xi Vưu, thì ra sự hung tàn hiếu sát của
hắn là có nguyên nhân, đồng thời cũng là một cách dùng binh.

Hoàng Đế lại nói: “Xi Vưu nhờ hung tàn mà đánh bại Hiên Viên, nhưng cũng
khiến thiên hạ kinh hãi, quân đội và bách tính Hiên Viên đều căm hận
hắn, chúng ta chỉ cần đánh thắng một trận, vãn hồi lại nhân tâm đang rối loạn, tức thì có thể xoay chuyển tình thế, biến thù hận thành sĩ khí.
Chỉ một trận thắng thôi!”

Mấy người trong đại điện vốn đã tuyệt vọng, nghe những lời này lại thấy hy vọng le lói, kích động dồn mắt về phía Hoàng Đế.

Hoàng Đế nhìn Chuyên Húc, mỉm cười nói: “Số mệnh con người nói đến cùng, đều
do tự mình quyết định cả. Lần trước ta thua, thật ra không phải thua Xi
Vưu, mà là thua trước tính cách của mình. Lần này nếu Xi Vưu thua, cũng
không phải là thua ta, mà là thua trước tính cách của hắn đó thôi.”

Chuyên Húc thầm kinh sợ, hiểu rằng Hoàng Đế đang dạy bảo mình, cậu nhóc bèn nhẩm đi nhẩm lại, nghiền ngẫm lời dạy của ông.

Tượng Võng ồm ồm cất tiếng: “Vừa rồi ông định ám chỉ viên đại tướng nào không sợ Xi Vưu?”

Tri Mạt đáp: “Ứng Long, xin bệ hạ phái người mời Ứng Long về.”

Ly Chu chen vào: “Đã phái rất nhiều người đi rồi, nhưng y đều từ chối.”

Tri Mạt giải thích: “Các ông không phái đúng người, Yêu tộc trọng nghĩa
khí, Ứng Long cũng vì thế mà rời bỏ Hiên Viên, muốn mời y quay lại, tự
nhiên cũng phải bắt đầu từ đây, ông nên nhờ vương cơ đi mời Ứng Long về
mới được.” Nói rồi, Tri Mạt thầm kinh ngạc, nói về thu phục nhân tâm,
trong thiên hạ không ai hơn được Hoàng Đế, chuyện ông ta nhìn thấu được, lẽ nào Hoàng Đế lại nhìn không ra? Tại sao Hiên Viên liên tiếp thất
bại, lũ lụt khắp nơi mà Hoàng Đế không vời Ứng Long?

Bắt gặp ánh mắt hờ hững của Hoàng Đế, Tri Mạt lập tức cúi đầu, chỉ nghe Hoàng Đế
nói: “Ứng Long đúng là mãnh tướng, nhưng thân phận của y không hợp làm
chủ soái, không thể khiến ba quân cúi đầu tuân theo. Chúng ta nhất định
phải tìm một người vừa danh chính ngôn thuận, lại vừa có thể khiến Ứng
Long kính phục để làm chủ soái.”

Tượng Võng nôn nóng hỏi: “Phải tìm ai đây? Xem ra chỉ mình Thanh Dương điện hạ là phù hợp, nhưng điện hạ đang bị trọng thương.”

“Con gái ta, Hiên Viên vương cơ – Hiên Viên Bạt.”

Ly Chu và Tượng Võng đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ tới Luy Tổ. Mấy người con của Luy Tổ tuy tính tình khác biệt, nhưng đều được hưởng thiên phú từ
cha mẹ, rất giỏi cầm quân đánh trận, ngay đến Xương Ý tính tình hòa nhã
cũng là tướng tài thiên bẩm.

Hoàng Đế lại nói: “Con nhỏ A Hành
có phần giống ta và A Luy thời trẻ, tiếc rằng chẳng có được hùng tâm
tráng chí như cha mẹ khi xưa. Nếu chẳng phải lần này ta bất ngờ bị
thương, phải nhờ vào y thuật của nó mới kéo dài mạng sống, e rằng nó đã
rời khỏi Hiên Viên từ lâu rồi. Trong mắt nó, ta không phải người cha
tốt, nếu ta hạ lênh cho nó cầm quân ra trận, nhất định nó sẽ cự tuyệt.
Nếu bức bách quá, có lẽ nó sẽ trực tiếp chiếu cáo thiên hạ, đoạn tuyệt
tình cha con với ta, như trước đây từng làm với Thiếu Hạo không chừng.”

Nghĩ đến ân oán mấy ngàn năm giữa Luy Tổ và Đông Ngư thị, Ly Chu và Tượng
Võng không nén được tiếng thở dài: “Vậy phải làm sao mới thuyết phục
được vương cơ đây?”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn Tri Mạt: “Ông có thể thuyết phục nó.”

Tri Mạt làm thinh không đáp.

Hoàng Đế lại nói: “Không phải ta muốn ép buộc con gái mình, nhưng giữa ta và
Xi Vưu, giữa Hiên Viên và Thần Nông chỉ có một bên được sống mà thôi.
Cái họa vong quốc diệt tộc đã rành rành trước mắt, chúng ta còn đường
nào để đi đây? Tri Mạt, lẽ nào ngươi quên nỗi đau như cắt mình từng trải qua rồi ư? Lẽ nào ngươi muốn con dân Hiên Viên cũng phải chịu đọa đầy
đau đớn như vậy ư? Lẽ nào ngươi quên chúng ta vì cái gì mà lập nên Hiên
Viên quốc rồi ư?

Tri Mạt ngẩng phắt lên, chằm chằm nhìn thẳng
vào mắt Hoàng Đế, đêu bên đều nhận ra đối phương đã đi guốc vào bụng
mình. Hoàng Đế hiểu Tri Mạt đã phát giác ra mưu kế của mình, Tri Mạt
cũng hiểu Hoàng Đế đã nhận ra ông ta phát giác. Nhưng Hoàng Đế chẳng hề
lo lắng, bởi ông đã dùng Tri Mạt đến đường cùng, thuật chế ngự lòng
người của Hoàng Đế, quả là vô địch thiên hạ.

Một hồi lâu, Tri Mạt quỳ sụp xuống, “Thần sẽ đi thuyết phục vương cơ.”

Một phong thư lạ hoắc được đưa lên Triêu Vân phong, nói là gửi cho vương
cơ, nhưng trên thẻ trúc lại chẳng ghi gì ngoài một dòng địa chỉ, quay
sang hỏi A Hành: “Vương cơ có bạn bè gì ở đó chăng?”

A Hành lắc đầu: “Không có.”

Chu Du nghe nói liền quăng tấm thẻ trúc lên án thư, nào ngờ bên trong lại
rơi ra một mảnh vải rách: “Ồ, cái gì đây? Hình như là thư tuyệt mệnh
dùng máu viết thành đó.”

A Hành vội cầm lên xem. Vết máu đã ngả nâu, nhưng sức mạnh sụt sôi giữa từng nét chữ vẫn phả vào rát mặt.

Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảnh tượng bi tráng ngày ấy vẫn rõ mồn một trong trí nàng như mới hôm qua. Một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc xé quần áo trên người lấy vải, dùng máu mình viết thư vĩnh biệt gửi người thân, rồi xông thẳng vào Tuân Sơn, sau cùng, kẻ bị giết, người chôn thân
trong biển lửa. Chính bọn họ đã dùng tuổi xuân của mình đổi lấy tính
mạng cho Xương Phó và bốn ngàn dũng sĩ Nhược Thủy tộc.

A Hành
định thần xem lại, thấy phong thư này ký tên Nhạc Uyên. Nàng còn nhớ gã
thiếu niên đó, kẻ đầu tiên đứng ra khẳng khái tâu trình, ổn định lòng
quân; kẻ đầu tiên xông vào Tuân Sơn, bình thản đón nhận cái chết; sau
cùng còn can đảm buông tay không kháng cự, dốc toàn bộ linh lực hóa
thành tín hiệu cảnh báo với nàng, chỉ rõ phương hướng của Chúc Dung,
bằng không, e rằng cả nàng và Xi Vưu cũng không tránh khỏi cái chết.

Một thiếu niên như thế lại hy sinh âm thầm lặng lẽ nhường kia, vĩnh viễn
chẳng thể được người đời ghi nhớ và ca tụng như Chúc Dung, nhưng chính
những thiếu niên dũng mãnh vô danh ấy, mới chèo chống được quốc gia này.

A Hành vội gọi A Tệ hạ sơn, theo địa chỉ ghi trên thư mà tìm đến.

Quân đội của Xi Vưu đã tiến đến Hắc thủy. Để tránh chiến hỏa, dân chúng đua
nhau đổ dồn về phía Tây, ngoài Hiên Viên thành đầy những dân chạy loạn,
họ không có tiền ở khách điếm, cũng không có bạn bè người thân để nương
nhờ, đành phải sống cảnh màn trời chiếu đất. Ban ngày trời ấm áp, kể
cũng không tới nỗi nào, nhưng ban đêm trời lạnh thấu xương, những người
này ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại lặn lội đường xa tới đây, đa
phần đều không gắn gượng nổi mà bỏ mạng. Không có nghĩa địa, xác họ được vùi ngay tại chỗ.

Đám nhỏ còn chưa biết thế nào, đau khổ, vẫn
ôm bụng đói nô đùa ầm ĩ, chạy nhãy giỡn hớt giữa những nấm mồ, nhưng
tiếng cười rộn rã chẳng bợn ưu sầu của chúng chỉ càng làm nổi bật cái
gọi là nhân thế vô tình.

A Hành trông thấy một bé gài cao xấp xỉ Tiểu Yêu đang thẫn thờ đứng trước một nấm mồ, bèn tiến lại. Cô bé ngẩng lên trông thấy A Hành, lẩm bẩm nói: “Đói quá.”

“Cha cháu đâu?”

“Đi đánh trận rồi.”

“Thế còn mẹ?”

Bé trỏ nắm đất trước mặt, ngây thơ đáp: “Mẹ đang ngủ bên dưới.”

A Hành xót xa ẵm đứa nhỏ lên, nhìn khắp sườn đồi đều là những kẻ rách
rưới bần hàn, nàng chợt thấy choáng váng không sao chịu nổi, lẽ nào đây
là Hiên Viên mỹ lệ nơi nàng sinh ra và lớn lên ư?

Tri Mạt bước lại gần, đưa cho bé gái một tấm bánh.

“Cám ơn ông.” Bé cẩn thận bẻ tấm bánh thành hai phần, nhét một nửa vào ngực áo, còn mình chỉ ăn một nửa.

Tri Mạt thắc mắc: “Sao cháu chỉ ăn một nửa?”

“Một nửa đề dành cho mẹ cháu, mẹ cũng đói lắm.”

Tri Mạt cười gượng: “Ngoan quá, cháu cứ ăn đi, khi nào mẹ cháu tỉnh dậy, ông lại mua cho hai mẹ con cái khác.”

“Thật không?”

“Thật mà.”

Bấy giờ cô bé mới hớn hở lấy nửa tấm bánh kia ra ăn ngấu nghiến.

A Hành đã làm mẹ, trông thấy cô bé như vậy, lòng lại càng đau xót khôn
tả. Trên ngọn núi này còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này? Trên toàn Hiên Viên còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này nữa?

Nhìn đám người trên sườn
núi, vẻ mặt Tri Mạt đầy đau xót: “Vương cơ chưa từng trải qua cảnh nghèo hèn loạn lạc, nhưng thần từ nhỏ đã lênh đênh lưu lạc, nếm đủ đắng cay,
mới hiểu thế nào là: thà làm chó thời bình, hơn làm người thời loạn.”

A Hành nhìn quanh, “Dù khi trước chưa hiểu, thì giờ cũng hiểu rồi.”

“Thần dùng bức thư kia dẫn dụ vương cơ tới đây, vốn đã chuẩn bị rất nhiều lời để thuyết phục, nhưng giờ lại chẳng thốt nổi ra miệng. Xưa nay thần vẫn không ủng hộ bệ hạ tấn công Thần Nông, hay nói khác đi là không ủng hộ
khát vọng thống nhất Trung Nguyên của bệ hạ, bởi vậy trước trận Phản
Tuyền lần thứ nhất, thần đã rời khỏi Hiên Viên thành, ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn. Nhưng sau trận Phản Tuyền lần thứ hai, Hoàng Đế lâm nguy, thần lại quay về Hiên Viên thành, giúp bệ hạ chèo chống Hiên Viên, không phải vì nể tình cũ giữa đôi bên, mà vì những người dân đang sống trên mảnh đất
Hiên Viên này. Vương hậu đã dốc hết tâm sức, giúp bệ hạ lập nên Hiên
Viên quốc này, không phải chỉ vỉ bệ hạ, mà bởi vương hậu cũng giống như
thần, đều muốn xây dựng một nơi mà dân đen, dân lưu lạc và Yêu tộc bị kỳ thị hắt hủi đều có thể sống bình đẳng cùng nhau. Dưới sự mỗ lực của mọi người, cuối cùng Hiên Viên quốc đã thật sự trở thành một nơi như thế.
Có lẽ vương hậu hối hận vì đã yêu bệ hạ, nhưng thần tin rằng, xưa nay bà chưa hề hối hận vì tất cả những gì đã bỏ ra cho Hiên Viên quốc.”

A Hành rút bức huyết thư trong ngực áo ra: “Sao bá bá lại có thứ này? Năm đó, con vốn định đích thân đem những bức thư này tới tay người nhà bọn
họ, nhưng Tứ tẩu đột ngột qua đời, rồi mẫu hậu lại ngã bệnh, con đành
phải phái thị vệ đi đưa giùm.”

Tri Mạt cười bình thản, nhưng nét mặt lại thê lương khôn xiết: “Đó là thư con trai thần gửi lại, lúc đó
thần đang ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn, nên địa chỉ nó ghi cũng là Đồng Nhĩ
sơn.”

A Hành sững người, mắt long lanh nước: “Bá bá.”

Tri Mạt vỗ vai nàng, “A Hành, khắp Hiên Viên quốc đâu đâu cũng có những
chiến sĩ giống như con trai ta. Có lẽ cha của đứa nhỏ kia cũng vậy, có
điều y còn bất hạnh hơn, chẳng có cơ hội để lại cho người thân một phong thư vĩnh biệt nữa. Ít ra, ta còn biết được con trai mình chết tại Tuân
sơn, có thể đi Tuân sơn bái tế, nhưng đứa nhỏ này ngay cả cha mình hy
sinh ở chốn nào cũng không biết. Nếu cuộc chiến này cứ thế kéo dài, sẽ
còn bao nhiêu người cha phải hy sinh? Còn bao nhiêu người mẹ phải ôm hận chết đi? Còn bao nhiêu đứa nhỏ phải chết đói? Con đã là mẹ, hẳn cũng
hiểu được nỗi lòng người mẹ, không thể bảo vệ cho con mình, không thể
trông thấy con mình lớn lên bình an, đồi với người làm mẹ, là điều tàn
khốc đến độ nào.”

“Phải làm sao mới có thể chấm dứt chiến tranh?”

“Đã đi đến bước này, chỉ còn cách lấy chiến tranh để chấm dứt chiến tranh
thôi. Bá bá biết con chất chứa rất nhiều nỗi khổ trong lòng, càng biết
con không muốn cầm quân đánh trận, nhưng ta tin nếu vương hậu còn tại
thế, chứng kiến thảm cảnh hiện giờ, cũng sẽ nói rằng: con là vương cơ
của Hiên Viên, những đứa trẻ này, những người mẹ này đều là con dân của
con, con có trách nhiệm phải bảo vệ họ.”

A Hành nhìn cô bé trong lòng mình, lặng thinh không đáp. Trước mắt nàng lại hiện lên dáng hình
cùng gương mặt khẳng khái quyết tử của Nhạc Uyên, rồi bóng dáng ấy dần
dần tan nhòa ra, hòa lẫn với bóng dáng một nam tử không rõ mặt mày, đó
là cha của cô bé, y đang nhìn nàng đầy cầu khẩn.

Tri Mạt giơ tay ẵm lấy cô bé đang thiêm thiếp trong lòng A Hành: “Chuyện này cứ để thần lo, vương cơ nên đi làm những việc mình không thể không làm đi.”

A Hành lặng lẽ nhìn đám người bần hàn khốn khổ nhan nhãn khắp sườn núi,
ánh mắt toát lên vẻ bi thương khôn tả xen lẫn tuyệt vọng cực cùng. Tri
Mạt cũng chẳng giục giã nàng. Một hồi lâu sau, A Hành rảo bước chảy
thẳng xuống núi, mới nghe tiếng Tri Mạt gọi với đằng sau: “Ứng Long đang ở Hà thủy.”

A Hành bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Hoàng Đế
đang dạy Chuyên Húc học, bài hịch chính là một đoạn hịch ông viết gửi Xi Vưu cũng như toàn thiên hạ.

Mặt trời đang chính ngọ mà không
phơi phóng, chính là để lỡ thời cơ, cầm dao mà không cắt, chính là để lỡ thời điểm thuận lợi, cầm búa mà không công phạt, kẻ xấu sẽ tràn đến.
Mạch nước nhỏ mà không ngăn chặn, sẽ hội tụ thành sông suối, đốm lửa nhỏ mà không dập, sẽ bùng lên thành ngọn lửa ngút trời, cái mầm mới nhú mà
không trừ, ngày sau sẽ trở thành cây đại thụ.

Chuyên Húc hỏi:
“Vậy vẫn phải động võ ư? Hôm qua ông dạy cháu rằng: lấy đức thu phục
thiên hạ mới là thượng sách, không nên tùy tiện động võ kia mà?”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, đáp: “Có lúc chiến tranh đã nổ ra thì chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa, cách duy nhất để chấm dứt chính là dùng vũ
lực để kiềm chế vũ lực, dùng chiến tranh để chấm dứt chiến tranh.”

A Hành bước đến trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương ủy thác cho Tri Mạt bá bá tới thuyết phục con ư?”

“Phải.”

“Con bằng lòng cầm quân ra trận không phải vì phụ vương, phụ vương có ngày
hôm nay đều là tự làm tự chịu! Nếu Hiên Viên chỉ là của riêng phụ vương
thì dù nó có bị hủy diệt cũng chẳng liên quan gì đến con hết. Tiếc rằng
Hiên Viên quốc không chỉ thuộc về một mình phụ vương, mà còn là tâm
huyết cả đời của mẹ, cùng những người như Tri Mạt bá bá, còn là của vô
số chiến sĩ Hiên Viên đã hy sinh, hơn nữa, còn là của toàn thể trăm họ
Hiên Viên.”

Hoàng Đế đáp: “Ta hiểu.”

“Khi Tứ ca bị vây ở Tuân sơn, con van nài Thiếu Hạo cho mượn binh, ngỡ rằng y sẽ nể mặt Đại ca mà chấp thuận, nào ngờ y vẫn cự tuyệt. Sau đó… hẳn phụ vương cũng
biết rồi, Xi Vưu đã đến, tuy hắn có lòng muốn giúp con, nhưng chỉ có thể cho con một nửa sức mạnh của hắn mà thôi. Cuối cùng quân sĩ Hiên Viên
tộc để cứu những huynh đệ khác đã dốc hết tâm sức, chẳng nề hy sinh bản
thân. Lúc bấy giờ con mới hiểu được ý nghĩa thật sự của huyết mạch thân
tộc, của gia quốc tử dân: chính là dù ta không biết ngươi, nhưng ta
nguyện chết để bảo hộ cho ngươi! Mới đây, con vừa biết được Nhạc Uyên,
con trai duy nhất của Tri Mạt bá bá cũng hy sinh ở Tuân sơn. Khắp Hiên
Viên quốc, đâu đâu cũng có những binh sĩ như Nhạc Uyên vậy, nếu Hiên
Viên quốc bị diệt, người nhà của họ sẽ phải lầm than khổ sở, người già
không ai phụng dưỡng, trẻ nhỏ chẳng chốn nương nhờ. Trước đây, con không hiểu được tại sao Tứ ca lại cam tâm chịu chết, chẳng phải Tứ ca rất yêu Tứ tẩu đấy sao? Lẽ nào huynh ấy nhẫn tâm bỏ lại Chuyên Húc vẫn còn
trứng nước? Nhưng hiện giờ con đã hiểu tâm trạng Tứ ca rồi, Nhạc Uyên
cùng các huynh đệ bọn họ không phụ con, con cũng không thể phụ lòng bọn
họ!”

Nói đoạn, nàng quỳ xuống trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương,
con sẽ bảo hộ Hiên Viên cho Người, đổi lại, Người có thể bảo vệ Chuyên
Húc không?”

Hoàng Đế nghiêm trang đáp: “Ta xin thề trước giang
sơn xã tắc, không để bất cứ ai làm hại Chuyên Húc, ta sẽ dốc lòng dạy dỗ nó, những gì con bảo vệ, ngày sau đều thuộc về Chuyên Húc tất cả.”

Được lời này của Hoàng Đế, A Hành chẳng còn gì vướng bận, nàng kính cẩn dập đầu ba cái rồi dắt Chuyên Húc đi thẳng ra ngoài.

Tiểu Yêu đang chán nản ngồi đánh đu một mình, trông thấy mẹ và Chuyên Húc
tiến lại, liền sáng mắt lên, nhảy ngay xuống chạy về phía hai người.

A Hành hai tay dắt hai đứa nhỏ, “Chúng ta đi thăm bà và bác đi.”

Dọc đường đi, mặc cho Tiểu Yêu ríu ra ríu rít, Chuyên Húc chỉ cắn môi làm
thinh. Đến trước mộ, Chuyên Húc và Tiểu Yêu đều quỳ xuống dập đầu hành
lễ.

A Hành ôm lấy Chuyên Húc, dặn dò: “Bà không muốn chôn ở Hiên Viên, trước lúc chết có trăn trối, muốn được đưa về chôn ở Thanh Long
Chi Thủ, quê cũ của bà. Nhưng bà là vương hậu, ông nội con không chấp
thuận đưa về an táng ở quê nhà. Có lẽ cô cô cũng không kịp thực hiện tâm nguyện này của bà, con giúp cô cô được không? Sau này, nếu con có thể
làm chủ, nhớ đưa bà nội về chôn tại Thanh Long Chi Thủ, bất kể kẻ khác
ngăn cản thế nào, cũng không được hợp táng ông nội và bà nội[1].”

[1] Lăng mộ của Hoàng Đế nằm ở vùng Trung Nguyên xưa, căn cứ theo ghi chép
“Luy Tổ thánh địa bỉ” thời đường, Luy Tổ được chôn ở Thanh Long Chi Thủ, nằm trong địa giới nước Thục xưa, theo lời trăn trối trước lúc lâm
chung, mộ phần của Hoàng Đế và vương hậu cách nhau ngàn dặm. Sau này,
cháu là Chuyên Húc sửa lại hành cung của Hoàng Đế thành Luy Hiên cung,
ngàn đời cúng tế, để Luy Tổ được hưởng mọi thứ tôn quý nhất.

Chuyên Húc nghiêm trang gật đầu: “Vâng, con nhất định sẽ thực hiện tâm nguyện
của bà nội, quyết không để ông nội và bà nội hợp táng.”

A Hành lại ôm Tiểu Yêu vào lòng: “Tiểu Yêu, mai mẹ sẽ dẫn con đến một chỗ này.”

“Đến đâu cơ?”

“Nơi mẹ từng sống. Ở đó có rất nhiều đào, đẹp lắm, bốn mùa đều nở hoa rực rỡ.”

“Ca ca đi cùng chứ?”

“Ca ca có việc của ca ca không thể đi cùng con được.”

“Vậy mình đi bao lâu hả mẹ?”

A Hành không đáp, chỉ mỉm cười nói: “Các con đi chơi đi, mẹ muốn ngồi lại với bà và bác một lát.”

Tiểu Yêu làm mặt quỷ với Chuyên Húc rồi tung tăng chạy đi hái hoa. Chuyên
Húc vẫn ngồi yên tại chỗ, “Cô cô phải cầm quân ra trận thật ư?”

“Ừm.”

“Nguy hiểm lắm phải không ạ?”

“Ta không biết nữa.”

“Không đi không được ư?”

Thấy A Hành lắc đầu, Chuyên Húc rớm rớm nước mắt, “Sao cô cô phải đưa Tiểu
Yêu đi? Không để muội muội ở lại đây được ư? Con sẽ chăm sóc cho muội ấy mà.”

A Hành đặt hai tay lên vai Chuyên Húc: “Ta biết con là một vị ca ca tốt! Nhưng con còn nhỏ, nhiệm vụ bây giờ của con là học tập,
ông nội đã thề trước giang sơn xã tắc rằng sẽ chăm sóc cho con, ta không phải lo cho an nguy của con nữa. Thân thế Tiểu Yêu khác với con, sau
này có thể sẽ có rất nhiều người muốn giết nó, e rằng còn liên lụy cả
đến con, nên ta phải đưa nó đến một nơi tuyệt đối an toàn.”

“Con không sợ liên lụy đâu.”

A Hành cười, dỗ dành Chuyên Húc: “Nhưng hiện giờ ngay cả năng lực bảo vệ
mình con cũng chưa có, làm sao bảo vệ Tiểu Yêu cho được. Chỉ can đảm
thôi thì không đủ đâu con.”

Chuyên Húc siết chặt nắm tay, lồng
ngực nhỏ bé phập phồng mãnh liệt, hồi lâu mới nghẹn giọng hỏi: “Vậy bao
giờ muội muội có thể trở về?”

“Chắc là nhanh thôi.” A Hành trầm ngâm giây lát rồi gượng cười: “Khi nào con có đủ năng lực bảo vệ nó.”

Chuyên Húc cúi đầu, buồn buồn, “Con hiểu rồi.” Dứt lời, cậu nhóc nhanh chóng
quẹt tay lau khô nước mắt, quay ngoắt người chạy đi.

Tiểu Yêu đứng giữa đồng hoa vẫy tay với Chuyên Húc, “Ca ca, ở đây này.”

Chuyên Húc chạy đến bên cô bé: “Muội thích hái hoa gì? Để ta hái cho.”

Tiểu Yêu nghiêng đầu, ngạc nhiên nhìn cậu nhóc. Xưa nay, Chuyên Húc rất khắc khổ, không mấy khi chịu chơi cùng bé, vậy mà hôm nay lại đòi hái hoa
cho bé là sao?

Chuyên Húc bực dọc hỏi: “Rốt cuộc có thích hái hay không nào?”

“Có, có!” Tiểu Yêu nắm lấy tay Chuyên Húc, “Muội thích loại hoa hồng thế này này, muội muốn tết một miện hoa.”

Chuyên Húc hái được rất nhiều hoa, tết cho Tiểu Yêu một chiếc miện hoa, còn giúp cô bé đội lên nữa.

Tiểu Yêu cười hì hì hỏi, “Huynh không nỡ để muội đi chứ gì?”

Chuyên Húc lườm cô bé: “Ta chỉ mong muội đi sớm cho khuất mắt!”

Tiểu Yêu gỡ món trang sức lông hồ ly vẫn đeo ở lưng ra, đây là đuôi hồ ly do tên xấu xa Xi Vưu chặt, mẹ thấy bé cả ngày cứ cầm vung vẩy, bèn tìm một miếng ngọc hoàn, làm thành trang sức cho bé đeo.

“Cái này tặng huynh đấy.”

Chuyên Húc lặng lẽ nhận lấy, giơ tay vuốt vuốt lớp lông hồ ly mềm mại. Cậu
biết Tiểu Yêu rất thích vật này, nên định trả lại cho bé. Tiểu Yêu nghĩ
đi nghĩ lại, vẫn tiếc rẻ không nỡ cho, cuối cùng đành dặn: “Đợi khi nào
muội về, huynh phải trả lại cho muội nhé. Muội chỉ cho huynh mượn chơi
thôi, huynh nhớ không được làm hỏng đâu đấy.”

Chuyên Húc phì
cười, cũng chẳng định trả lại cho Tiểu Yêu nữa, bèn đeo luôn vào thắt
lưng, chạy lại tìm cô cô. Tiểu Yêu chạy theo sau, luôn miệng liếng
thoắng: “Huynh đừng làm hỏng, đừng làm mất đấy nhé, phụ vương muội nói
đây là cái đuôi Cửu vĩ hồ, hiếm lắm đấy.”

Chuyên Húc đang chạy
chợt khựng lại, Tiểu Yêu liền hỏi: “Sao huynh lại dừng?” Đoạn cô bé nhìn theo ánh mắt Chuyên Húc, thấy mẹ mình đang ngồi lặng trước mấy nấm mộ.

Trên mộ nở đầy hoa dại đủ màu, đẹp tươi rực rỡ, nhưng lại toát lên vẻ thê
lương vô hạn. Trong khung cảnh ấy, bóng dáng mẹ bé càng đơn độc xót xa.
Tiểu Yêu bỗng thấy lòng mình nghẹn ứ những xúc cảm chẳng thể gọi thành
tên. Bé toan gọi Chuyên Húc, nhưng chạm phải ánh mắt cậu, cảm giác nghẹn ứ trong lòng ngực bé càng thêm mãnh liệt, không dám cất tiếng nói nữa,
tựa hồ chỉ cần lên tiếng, nước mắt sẽ lập tức tràn ra. Bé đành khẽ khàng nắm lấy tay áo Chuyên Húc.

Hồi lâu Chuyên Húc cắn môi nói:
“Không có gì, chúng ta qua đó đi.” Dứt lời cậu nhóc kéo Tiểu Yêu chạy về phía cô cô, Tiểu Yêu đặt miện hoa lên đầu A Hành, thỏ thẻ: “Cái này con và ca ca cùng làm, tặng cho mẹ đấy.” A Hành mỉm cười, vòng tay ôm cả
hai vào lòng.

Quay về Triêu Vân điện, sau khi thu xếp xong cho Chuyên Húc và Tiểu Yêu, A Hành liền tới gặp Vân Tang.

Luy Tổ dùng uy quyền của vương hậu nghiêm cấm thế lực của Hoàng Đế đặt chân vào Triêu Vân điện, nên từ khi Vân Tang gả tới Hiên Viên, cũng được Luy Tổ coi như con gái trong nhà, đối đãi không khác gì A Hành. Nhưng sau
khi Luy Tổ qua đời, không còn sự bảo hộ của bà, Hoàng Đế lại thảm bại
tại Phản Tuyền, Hiên Viên tộc đang từ vị thế của người chiến thắng vẻ
vang thoắt đã đổi sang thành kẻ chiến bại, sắp lâm vào cảnh nước mất nhà tan, thái độ đối với Vân Tang cũng chuyển từ thương hại thành đề phòng. Hiện giờ, mỗi lúc ra vào Vân Tang đều bị thị nữ giám thị, cả ngày nàng
chỉ nhốt mình trong đại điện, gảy đàn, nuôi tằm, dệt lụa, vẽ tranh.

A Hành đến tìm đúng lúc Vân tang đang đùa giỡn với bầy bướm, từng đôi
bướm rực rỡ đủ màu phấp phới bay giữa rừng dâu, lượn vòng quanh thiếu nữ áo trắng như mây, tựa hồ trăm hoa tụ lại vờn múa quanh nàng, vô cùng mỹ lệ.

A Hành lặng ngắm hồi lâu mới lên tiếng: “Muội chẳng học
được thuật điều khiển côn trùng của mẫu hậu, nhưng tỷ lại học được toàn
bộ thế này, nhất định mẫu hậu sẽ vui lắm đó.”

Vân Tang chạnh nhớ thời thiếu nữ, khi còn sống trên Triêu Vân phong, bấy giờ A Hành còn là đứa bé lẫm chẫm tập đi, cả ngày luôn miệng bập bẹ gọi tỷ tỷ tỷ tỷ, nàng cũng hết lòng thương yêu A Hành như em ruột, có điều bây giờ chẳng thể
nào trở lại như năm xưa được nữa. Vân Tang không nén được tiếng thở dài, “Hai ta vốn là đôi tỷ muội thân thiết, tiếc rằng muội lại là vương cơ
Hiên Viên, ta lại là vương cơ Thần Nông.”

“Có một việc muội vẫn
chưa cho tỷ hay. Thực ra tỷ không thể trở thành Đại tẩu của muội được,
bởi Đại ca muội đã chết trong trận Phản Tuyền lần thứ nhất.”

Vân Tang kinh ngạc trừng mắt nhìn A Hành, như không dám tin. Trái lại, A
Hành thở vào nhẹ nhõm, như vừa trút được gánh nặng, “Cuối cùng muội cũng nói ra được bí mật bao năm nay chôn giấu trong lòng rồi.”

Một lúc lâu thật lâu, Vân Tang mới chấp nhận được sự thật này: “Mẫu hậu có biết không?”

“Biết. Trước lúc lâm chung, mẫu hậu còn dặn đi dặn lại, bảo muội lựa lúc thích hợp nói cho tỷ biết. Mẫu hậu nói tỷ mãi mãi là con gái của người, người và Viêm Đế đều mong tỷ được hạnh phúc.”

Vân Tang thẫn thờ nhìn từng đôi bướm bay qua bay lại, trầm ngâm không nói.

A Hành lại nói: “Đại ca muội đã không còn, tỷ không thể nào trở thành
vương hậu tương lai của Hiên Viên, tiến tới can dự vào triều chính được. Chi bằng tỷ đi đi, đừng gắng gượng chịu khổ ở lại Hiên Viên nữa, nhân
lúc còn có thể chạy được, tỷ hãy cao chạy xa bay, càng xa càng tốt.”

Nước mắt Vân Tang lăn dài trên má, “Muội không hiểu đâu, có những chuyện đã
định sẵn từ khi chúng ta sinh ra rồi, dù có chạy tới đâu, cũng không thể giũ bỏ được dòng máu trong người mình.”

Nỗi tê tái trong lòng A Hành từ từ dâng lên từng chút một, dần dà lan khắp toàn thân, giá buốt
đến tận xương tủy. Một hồi lâu, nàng nới lên tiếng: “Muội hiểu lắm chứ,
nên muội mới nhận lời phụ vương cầm quân ra trận.”

Vân Tang chợt quay phắt lại trừng trừng nhìn A Hành, ánh mắt đầy kinh hoàng, phẫn nộ
và khinh miệt, sau cùng, tất cả đều biến thành bi ai khôn xiết.

A Hành né tránh ánh mắt Vân Tang, đứng dậy: “Chúng ta từ biệt ở đây, tỷ nhớ bảo trọng.”

“Đợi đã.” Vân Tang đưa mắt nhìn bầy bướm bay qua bay lại từng đôi từng đôi,
song song chắp cánh, thong thả nói: “Ta luôn bị giám thị, khi trước còn
có thể nhờ Hậu Thổ truyền đạt tin tức, nhưng sau khi phụ vương muội bị
thương, liền phái Hậu Thổ tới tận Thụ Sa quốc, mấy tháng nay rồi ta
chắng có tin gì về gã cả. Ta có chút chuyện muốn nói với Xi Vưu, muội
đưa giùm ta một phong thư cho hắn được không?”

A Hành nhẹ nhàng đáp: “Tỷ vừa nói rồi đấy thôi, muội là Hiên Viên vương cơ, tỷ lại là Thần Nông vương cơ.”

Vân Tang cười buồn, “Muội xem qua nội dung đi, rồi hẵng quyết định.”

Nói rồi nàng rút ra một mảnh khăn lụa, chấm phấn trên cánh bướm viết: “Nếu
hắn làm loạn, cứ…” Bàn tay nàng run bắn lên, hồi lâu không cách nào viết tiếp. A Hành ngạc nhiên nhìn Vân Tang, một lúc thật lâu sau, Vân Tang
mới dụng lực mắm môi viết tiếp: “Cứ giết hắn đi!” chữ “giết” trong rối
loạn vô cùng.

Vân Tang đưa mảnh khăn lụa cho A Hành, “Có tám chữ thôi, muội xem có thể đưa giùm không?” Ta không hề tiết lộ cơ mật gì
của Hiên Viên, chỉ là chút chuyện trong nội bộ Thần Nông tộc, có một
viên tướng có chút vướng mắc với ta, ta sợ Xi Vưu nể tình ta mà không
thể hạ sát thủ.”

A Hành thẳng thắn: “Được, muội sẽ kêu Chu Du đưa thư này đến tận tay Xi Vưu.”

Chưa nói dứt câu, A Hành đã thấy Chu Du từ trong rừng dâu liêu xiêu bước ra, chân đi loạng choạng, tựa hồ sắp ngã tới nơi, nhưng cặp mắt vẫn trừng
trừng nhìn xoáy vào nàng.

A Hành than thầm trong bụng, nàng cứ
nghĩ có bầy bướm của Vân Tang bảo hộ, chẳng còn sợ bất cứ kẻ nào rình mò nghe lén, ngờ đâu lại quên khuấy mấy trăm năm trước, Chu Du từng vâng
lệnh Đại ca bày thảo mộc trận trên Triêu Vân phong để bảo vệ cho mẫu
hậu.

“Đại ca mà vương cơ nói là ai? Nếu Thanh Dương điện hạ biết vương cơ nhận xằng Đại ca, nhất định sẽ nổi giận. Chừng nào về, điện hạ quyết không bỏ qua cho vương cơ đâu.”

A Hành nghẹn ứ trong cổ
họng, hồi lâu không thốt nổi nên lời, Vân Tang định đáp thay nhưng A
Hành đã giơ tay ngăn lại, tỏ ý để mình chính miệng nói ra. Nàng nhìn Chu Du, chậm rãi nói: “Thanh Dương đại ca ta, đã chết rồi.”

Chu Du
đờ người ra, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm như tự nói một mình: “Thanh
Dương điện hạ chết rồi ư? Điện hả bảo nô tỳ trông nom Triêu Vân điện,
chờ ngày quay về kia mà, nô tỳ vẫn đang đợi, sao điện hạ có thể không về được? Không, không phải, vương cơ nói dối!”

Chu Du vừa lẩm nhẩm nói, vừa run bắn lên, cả người đổ sập xuống, A Hành và Vân Tang phải đỡ lấy ả, “Chu Du, Chu Du…”

“Nô tỳ làm sao thế này? Sao đột nhiên lại mất hết khí lực, không đứng vững
được?” Chu Du đặt tay lên ngực, “Sao lồng ngực đau như cắt thế này? Bị
thương rồi ư? Nhưng nô tỳ đâu có giao đấu với ai…”

A Hành đặt tay lên cổ tay Chu Du, lòng chợt rung động, sững sờ nhìn ả.

Vân Tang thấy Chu Du đau đến nỗi run lên bần bật, còn A Hành cứ sững ra hồi lâu chẳng nói năng gì, cuống quýt giục: “Rốt cuộc Chu Du làm sao thế?
Sinh bệnh phải không?”

“Chu Du không sinh bệnh, cũng không bị thương, chỉ là…” A Hành nghẹn giọng ánh mắt đầy xót xa.

“Chỉ là sao?” Vân Tang gặng.

“Chỉ là đau lòng… thương tâm mà thôi.”

“Đau lòng ư? Thương tâm ư? Nô tỳ… Nô tỳ chỉ là khúc gỗ, làm sao có thể đau
lòng, thương tâm được? Thiếu Hạo và Điện hạ đều nói nô tỳ không biết thế nào là thương tâm, có lần nô tỳ tò mò bèn năn nỉ điện hạ dùng pháp
thuật để nô tỳ cảm nhận được thương tâm, nhưng điện hạ nói mình không
thể. Điện hạ còn bảo không biết thương tâm là tốt, cả đời khỏi phải
thương tâm… các người đều nhầm cả rồi!” Chu Du đẩy A Hành và Vân Tang
ra, lảo đảo đứng dậy, giật lấy mảnh lụa của Vân Tang từ tay A Hành,
“Muốn nô tỳ đưa thứ này đến cho Xi Vưu hả? Nô tỳ đi ngay đây.” Ả vừa nói vừa liêu xiêu quay đi.

“Chu Du, đại ca không thể quay về được nữa đâu, từ nay ngươi được tự do, nếu ngươi muốn rời khỏi Triêu Vân phong…”

“Suỵt!” Chu Du quay phắt lại, đặt ngón trỏ trên môi, ra hiệu cho A Hành im
lặng, “Nô tỳ không tin vương cơ đâu, Thanh Dương điện hạ nhất định sẽ
về! Tuy vương cơ là muội muội của điện hạ, nhưng vương cơ đâu hiểu được
điện hạ. Vương cơ có biết, lúc Vân Trạch điện hạ chết đi, Đại điện hạ đã phẫn nộ thế náo không? Vương cơ có biết, lúc vương cơ thành hôn, điện
hạ đã đau khổ thế nào không? Vương cơ có biết, khi vương hậu tức giận
thành bệnh, điện hạ đã tự trách ra sao không?”

Thấy A Hành nghẹn lời, Chu Du càng nói càng hậm hực: “Vương cơ chẳng biết gì hết! Vương
cơ chẳng hiểu gì về Thanh Dương điện hả cả, dựa vào cái gì mà dám nói
điện hạ sẽ không quay về? Mấy ngàn năm nay, nô tì đã bầu bạn bên điện
hạ. Từ khi còn là một khúc gỗ nằm trong ngực áo điện hạ, nô tỳ đã theo
người đi khắp trời Nam đất Bắc, về sau tu thành hình người, lại luôn
luôn kề cận bên ngài, tất cả hành động cử chỉ, mừng giận buồn vui của
điện hạ nô tỳ đều hiểu. Xưa nay Thanh Dương điện hạ đã nói là làm, chưa
từng thất tín, chỉ có kẻ khác không phải với điện hạ, chứ điện hạ chưa
từng có lỗi với ai, điện hạ bảo nô tỳ đợi thì nhất định sẽ về.” Nói rồi, Chu Du giận dữ ngoảy đầu đi thẳng.

“Chu Du!” A Hành gọi với theo.

“Gì cơ?” Chu Du hằm hằm ngoảnh lại, sắc mặt trắng bệch, đôi mày nhíu chặt, hiển nhiên vẫn chưa nguôi đau đớn trong lòng.

A Hành trầm mặc một hồi, khẽ lắc đầu, “Không có gì, Ngươi nhớ chăm lo cho Chuyên Húc, chừng nào đại ca về, nhất định sẽ khen ngươi!”

Chu Du nhoẻn cười tươi tắn, “Nô tỳ biết rồi!” Nói đoạn gật đầu lia lịa, loạng choạng đi thẳng.

Vân Tang đăm đắm trông theo bóng lưng Chu Du, cảm thán: “Nha đầu ngốc, thì
ra cô ấy đối với Thanh Dương… Chúng ta không nhận ra đã đành, ngay bản
thân cô ấy cũng không ý thức được. Muội nói xem, hiện giờ cô ấy có hiểu
được tình cảm của mình dành cho Đại ca muội không?”

“Đại ca đã
không còn, hiểu hay không hiểu có ý nghĩa gì nữa đâu.” Nói là nói vậy,
nhưng A Hành vẫn lã chã hai hàng nước mắt. Có lẽ, Đại ca đã hiểu cả,
nhưng lại mặc cho Chu Du mơ mơ hồ hồ, cũng bởi trách nhiệm trên vai Đại
ca quá nặng nề. Có lẽ Đại ca cũng mong đến một ngày nào đó, mình có thể
đặt gánh nặng trên vai xuống, dắt Chu Du ngao du khắp trời Nam đất Bắc,
giống như khi bọn họ mới gặp nhau vậy. Nếu không thể có một ngày như
thế, Đại ca thà rằng Chu Du vĩnh viễn chẳng bao giờ nhận ra, vĩnh viễn
không hiểu thế nào là thương tâm, nhưng Đại ca không biết rằng, cuối
cùng Chu Du cũng chẳng tránh khỏi thương tâm.

“Chu Du cứ đợi mãi như thế ư? Mộc yêu bọn họ hình như cũng sống lâu như Thần tộc vậy.”

“Muội không biết, muội chỉ biết rằng Chu Du rất vâng lời Đại ca. Năm xưa, ở
ngoài Ngu uyên, cô ấy suýt nữa đã bị Ngu uyên nuốt chửng, nhưng đại ca
bảo cô ấy đợi nên cô ấy cứ đợi như thế, không di không dịch một bước
chân.”

Chờ đợi suốt ngàn vạn năm, tự mua dây buộc mình, thời
gian đằng đẵng như ngưng kết lại trong khoảnh khắc chia tay, mãi mãi
dừng ở phút giây người đó chuẩn bị cất bước ra đi, còn đương đinh ninh
dặn dò, thiết tha nhắn gửi, nhìn bề ngoài cứ ngỡ là si ngốc, nhưng đó
chẳng phải một dạng thông minh đấy ư? Vân Tang khẽ thở dài, lặng lẽ đi
thẳng vào rừng dâu, bầy bướm vẫn lượn quanh mình nàng, như một đóa hoa
nở rộ, từ từ khuất bóng trong rừng dâu xanh mướt.

Sáng hôm sau, A Hành dẫn Tiểu Yêu lên Ngọc sơn.

Mấy trăm năm trước khi vội vã cùng Thiếu Hạo rời khỏi Ngọc sơn, nàng chẳng
hề nghĩ sẽ có ngày mình quay lại nơi này, hơn nữa còn dắt theo con gái
của nàng và Xi Vưu.

Được quay lại Ngọc sơn, A Tệ có vẻ rất cao
hứng, vừa nhảy nhót vừa kêu líu ríu. Cung nữ ra đón nồng nhiệt hoan
nghênh A Tệ, nhưng lại ngăn Liệt Dương lại, “Tiểu công tử, xin hãy dừng
bước.”

Thấy Liệt Dương ngẩn người, A Hành mím môi cười, “Tỷ tỷ không nhận ra ư? Đây là Liệt Dương đó.”

Cung nữ trợn tròn mắt nhìn Liệt Dương, lắp bắp hỏi: “Liệt Dương, sao mày lại tu thành người lùn thế này?”

A Hành nghe nói phá lên cười, A Tệ cũng lăn ra cười ngặt nghẽo, Liệt
Dương tức tối liền biến lại nguyên hình, bay vút lên cành cây.

Cung nữ hạ giọng thì thào với A Hành: “Vẫn nóng nảy như xưa nhỉ.”

Tiểu Yêu nhìn Đông ngó Tây, thỏ thẻ hỏi: “Mẹ bảo ở đây khắp nơi đều có hoa đào kia mà? Sao con không thấy?”

A Hành cũng không ngờ, lần này trở lại Ngọc sơn, mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi.

Ngọc sơn mấy trăm năm trước bốn mùa nở rợp hoa đào, đình đài lầu các thấp
thoáng dưới bóng hoa, cỏ non ngút mắt, hoa rơi lả tả, đi giữa khung cảnh đó, chẳng khác nào lọt vào tranh vẽ. Còn Ngọc sơn hiện giờ chẳng có lấy một bông hoa đào, chỉ có những cây đào rậm rì xanh um.

Nếu chỉ
vậy còn đỡ, dù gì A Hành cũng nghe nói, lúc Viêm Đế qua đời, Ngọc sơn đổ tuyết lớn, núi xanh chưa già, vì tuyết rơi mà bạc trắng mái đầu. Nhưng
dung mạo của Vương mẫu…

Vương Mẫu năm xưa tóc xanh tha thướt,
hoa dung nguyệt mạo, cặp mắt trong veo lạnh lùng như nước, đứng dưới cội hoa đào ngoảnh đầu trông lại, quả là đẹp hơn đào lý, lạnh tựa băng
sương, vậy mà giờ đây chỉ còn là một bà lão tóc trắng như bông, dung
nhan tiều tụy, ánh mắt tịch liêu.

A Hành sững sờ nhìn Vương Mẫu
trong khi Tiểu Yêu cười hì hì chạy lại bên cạnh bà, như quen thuộc từ
lâu, níu áo bà ríu rít hỏi: “Bà ơi, hoa đào đâu rồi? Mẹ cháu bảo ở đây
có rất nhiều hoa đào.”

Vương Mẫu đáp: “Hoa đào tàn cả rồi.”

Tiểu Yêu hành lễ với Vương mẫu theo lời A Hành, rồi cùng các cung nữ đi
chơi, để lại A Hành cùng Vương Mẫu tản bộ trong vườn đào. A Hành lên
tiếng: “Lần này con lên Ngọc sơn có hai việc.”

Vương Mẫu làm thinh không đáp. Đột nhiên, A Hành đổi giọng gọi, “Dì Mi.”

Vương Mẫu lạnh nhạt cười, “Trước lúc lâm chung, mẫu hậu ngươi mới chịu nhắc đến chuyện năm xưa hả?”

“Thực ra con đã biết từ lâu, hồi đó nán lại trên Tiểu Nguyệt đỉnh mấy ngày, bá bá đã kể hết cho con chuyện của các vị rồi.”

Vương Mẫu nghe đến đó chợt run bắn lên, dừng sững lại. A Hành gắng lấy can
đảm nói tiếp: “Bá bá nói, ông vẫn luôn hoài niệm những tháng ngày ba
người ở bên nhau, đó là quãng thời gian vui vẻ nhất, thoải mái nhất
trong đời bá bá.”

Sắc mặt Vương Mẫu trầm xuống, bà thong thả đi tiếp, chẳng tỏ vẻ gì.

A Hành lại nói: “Trước lúc lâm chung, con hỏi mẫu hậu có muốn đi Ngọc sơn một chuyến không, nhưng mẫu hậu chỉ lặng thinh, sau đó dặn con giao thứ này lại cho dì.”

A Hành mở gói lấy ra một chiếc áo tơ vàng nhạt trao cho Vương Mẫu, bên trên còn đặt một người gỗ nho nhỏ đẽo bằng gỗ
dâu. Vương Mẫu chẳng buồn đón lấy, chỉ lạnh lùng đưa mắt nhìn, năm xưa
Luy Tổ quyết dứt áo ra đi, mấy ngàn năm nay chưa từng ngoảnh lại, giờ có muốn ngoảnh lại cũng muộn rồi!

Vương Mẫu không tiếp nhận, A
Hành cũng chẳng biết làm sao, đành đặt người gỗ xuống đất. Người gỗ vừa
tiếp được hơi đất, lập tức lớn bổng lên, biến thành một thiếu nữ xinh
đẹp, dung mạo giống hệt Vương Mẫu mấy ngàn năm trước, nhưng thần thái
khí độ lại khác hẳn. Cặp mắt thiếu nữ đen láy linh hoạt, nét cười rạng
rỡ trên môi, mái tóc dài búi thành hai búi trên đầu, dùng tơ vàng quấn
quanh, từng sợi từng sợi tơ vàng lòa xòa rủ xuống, vô cùng hoạt bát xinh đẹp.

A Hành khe khẽ hát lên khúc ca dao xưa cũ mẹ nàng truyền dạy.

Thiếu nữ nhẹ nhàng xoay một vòng, bắt đầu nhảy múa, tay áo dài phấp phới, tà áo bay bay, tư thế hết sức uyển chuyển.

Vương Mẫu sững người nhìn cảnh tượng trước mắt.

Chiếc áo tơ vàng của thiếu nữ còn mới tinh, vậy mà ống tay đã bị toạc một
mảng, mỗi lúc khiêu vũ, cánh tay giơ lên, ống tay áo lại rẽ làm đôi, để
lộ cánh tay trắng nuột như tuyết.

Vương Mẫu còn nhớ, sáng hôm ấy tay áo mình bị cành cây cào rách, bà vụng đường kim chỉ nhưng A Luy lại rất thạo khâu vá, đã hứa sẽ vá giùm bà.

Tiếc rằng điệu múa ấy bà vĩnh viễn không bao giờ múa xong, buổi hoàng hôn ấy, cũng vĩnh viễn không bao giờ trở lại.

Khúc ca dứt, thiếu nữ cũng múa xong, lập tức biến thành tro bụi, tan đi theo gió, tự như lớp lớp chuyện xưa đều bị cuồng phong vô tình cuốn đi,
chẳng còn tăm tích.

Cả cánh rừng chợt lặng phắc, nghe rõ mồn một tiếng gió thổi qua tàng cây.

Vương Mẫu bỗng phá lên cười ngặt nghẽo, cười đến chảy cả nước mắt, “Thế này là gì đây?”

A Hành đáp: “Xin lỗi! Mẹ con bảo con nói lại với người một câu ‘xin lỗi’!”

Vương Mẫu tắt hẳn tiếng cười. A Luy là nữ tử kiêu ngạo nhất mà bà từng gặp,
xưa nay chưa hề biết cúi đầu, dù đánh gãy răng cũng cười mà nuốt cả răng lẫn máu, nàng Tây Lăng Luy kiêu ngạo đến cơ hồ độc đoán ấy, bây giờ ở
đâu?

Vương Mẫu trầm mặc hồi lâu, lại hỏi: “Sao mẹ ngươi không tự đến mà nói?”

A Hành đáp: “Con không biết, có hỏi, mẹ con cũng chỉ làm thinh. Khi đã
ngã bệnh, bà vẫn chính tay xe tơ dệt lụa, may chiếc áo này, bảo con giao lại cho dì.”

Vương Mẫu đứng lặng, ánh mắt dán chặt vào A Hành,
nhưng dường như lại đang xuyên thấu qua nàng, quay ngược về mấy ngàn năm trước.

A Luy đã hứa vá lại áo cho bà, nhưng không làm được, mấy ngàn năm sau, lại đưa đến một chiếc áo tự tay dệt nên. Nỗi canh cánh
trong lòng bà cả ngàn năm nay, há chẳng phải là nỗi canh cánh trong lòng A Luy ư?

Vương Mẫu chợt mỉm cười, nụ cười đã không còn vẻ sắc
sảo, thay vào đó, lại thêm phần bình thản. “Trông bộ dạng ta bây giờ
xem, bà ấy khăng khăng không lên Ngọc sơn là phải.” Nói rồi Vương Mẫu
nhận lấy chiếc áo, rảo bước ra khỏi rừng đào.

A Luy khăng khăng
không chịu gặp, Vương Mẫu lại kiên trì giữ gìn dung mạo, mong mỏi có thể gặp lại một lần, hai người khác tình mà chung một dạ, đều vì một chữ
“si”. Đây có lẽ là hồi ức đẹp đẽ cuối cùng của họ, nên bà không những
muốn ghi khắc mãi mãi, mà A Luy cũng không nỡ nào phá hỏng.

Vương Mẫu đứng trước vách núi, ngắm ráng chiều như khói tỏa, tịch dương tựa gấm thêu.

Ba huynh muội nắm tay nhau ngao du năm ấy, có hai người đã lìa trần. Để
giờ đây, dưới bóng tà dương đỏ sẫm, chỉ còn trơ lại mình Vương Mẫu.

A Hành bước đến cạnh Vương Mẫu. Có lẽ vì gút mắc trong lòng đã được cởi
bỏ, nét mặt Vương Mẫu cũng hòa dịu đi nhiều, chỉ còn nét buồn phảng phất giữa đôi mày là không sao xua tan được, “Ngươi còn chuyện gì nữa?”

“Con định giao con gái cho dì. Nhờ dì bảo hộ cho nó.”

“Cha nó là quốc vương Cao Tân, mẹ lại là vương cơ Hiên Viên, kẻ nào dám đụng đến nó?”

“Tên cháu là Tiểu Yêu.” A Hành viết hai chữ đó lên bàn, “Nó vốn không phải là vương cơ Cao Tân.”

Vương Mẫu ngạc nhiên hỏi: “Là con của Xi Vưu ư?”

A Hành gật đầu.

Vương Mẫu cười nhìn A Hành, ánh mắt đượm vẻ cảm thông, “Ngươi biết không? Năm xưa ta biết rõ Xi Vưu mới là kẻ xông vào địa cung Ngọc sơn, đánh cắp
Bàn Cổ cung, nhưng ta cứ thuận nước đẩy thuyền, giữ ngươi trên Ngọc sơn
sáu mươi năm, thực ra là cố ý phá hỏng hôn ước giữa ngươi và Thiếu Hạo,
tác thành cho ngươi với Xi Vưu.”

“Sau này con cũng đoán vậy.”

“Nếu không có ta nhúng tay vào, chắc ngươi và Thiếu Hạo sẽ đến được với nhau, cũng chẳng dẫn tới tình cảnh hôm nay.”

“Xưa nay con chưa từng hối hận vì đã yêu Xi Vưu. Đời này có thể gặp được chàng là may mắn của con.”

“Ta sẽ chăm sóc cho Tiểu Yêu, có điều, ta rất mong ngươi sẽ cùng Xi Vưu tới đây đón nó.”

A Hành vội hành lễ cảm tạ Vương Mẫu. Nàng gọi Tiểu Yêu lại, đinh ninh dặn dò bé phải nghe lời Vương Mẫu, chăm chỉ luyện tập, không được ham chơi.

Tiểu Yêu từ nhỏ đã bạo dạn không sợ người lạ, được đi chơi thế này, bé mừng
còn không hết, nghe mẹ dặn dò, bé vừa gật đầu lia lịa, vừa náo nức chực
nhảy chân sáo đi chơi. A Hành ôm bé vào lòng, khẽ gọi: “Tiểu Yêu…” rồi
nghẹn lời, chẳng biết nói thêm gì nữa, nhưng ánh mắt vẫn bịn rịn không
nỡ rời Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu ngạc nhiên hỏi, “Mẹ?”

A Hành sửa lại quần áo cho bé, đoạn nắm lấy ngọc đồng đeo trên cổ bé, “Con nhớ lời ta dặn rồi chứ?”

“Nhớ rồi, phải luôn đeo bên mình, bên trong có một thứ rất quan trọng.”

A Hành ôm choàng lấy Tiểu Yêu, siết mạnh. Tiểu Yêu vừa kêu khẽ, “Mẹ, đau
con” vừa ngọ ngoạy vùng vẫy, A Hành liền buông bé ra, “Đi chơi đi.”

Tiểu Yêu tung tăng chạy theo Vương Mẫu, được vài bước, chợt bé ngoảnh lại
dặn, “Mẹ mau mau tới đón con nhé, ca ca còn đang cầm đuôi hồ ly của
con.”

“Ừm.” A Hành nói chẳng nên lời, đành gật đầu.

Liệt Dương từ trên cành đáp xuống, biến thành hình người, “Đi được chưa?”

A Hành bảo Liệt Dương: “Ngươi ở lại đây đi, trông nom Tiểu Yêu giùm ta,
nếu ta không về nữa, ngươi đợi chừng nào thiên hạ thái bình hẵng cho nó
hạ sơn.”

Liệt Dương cười lạnh, “Đừng mơ! Nếu sống thì cùng sống, chết thì cùng chết!”

“Trải qua bấy nhiêu chuyện, ta mới phát hiện chết thực ra rất dễ dàng, sống
mới là khó khăn. Có thể sống đến cuối cùng mới là khó nhất.” A Hành quỳ
xuống trước mặt Liệt Dương, “Ta buộc phải giao việc khó khăn nhất lại
cho ngươi đây, lẽ nào ngươi đành lòng để A Tệ thay ngươi gánh vác ư?”

Liệt Dương không đáp, chỉ chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt lạnh lùng nhưng trong đôi mắt xanh biếc lại lấp loáng ánh lệ.

A Hành ầng ậng nước mắt, đứng dậy bảo A Tệ: “Chúng ta đi thôi.”

A Tệ rưng rưng nhìn Liệt Dương, từ từ bay lên, để lại một mình Liệt Dương lẻ loi đứng đó bất động. Liệt Dương không hề ngẩng lên nhìn bọn họ, chỉ một mực cúi gằm mặt xuống, dán mắt vào mũi chân. Chúng cứ ngỡ suốt đời
suốt kiếp này sẽ là người một nhà, sống chết có nhau, dẫu chết cũng
chẳng có gì đáng sợ, nào ngờ đâu, lại còn có lúc buộc phải sống.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.