[Hồi ký Chiến tranh VN] Từ Chiến Trường Khốc Liệt

Chương 33



NGÀY THỨ NHẤT 17-1

Chúng tôi bồn chồn đi lại. Sau khoảng hai giờ sáng, Mark Biello bắt đầu dựng máy quay ở cửa sổ trong trường hợp có điều gì xảy ra bên ngoài. Nic đang nói chuyện với tôi.

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời Baghdad không có trăng, “một đêm của những máy bay thả bom” mà một ai đó từng nói với tôi ở Việt Nam, khi máy bay chiến tranh có thể đến bất ngờ.

Nic hơi nghiêng đầu một chút, hình như anh ta nghe thấy tiếng máy bay? Tôi nói với anh ta rằng anh ta đang mơ. Anh ta bước qua hành lang tới một phòng có cửa sổ mở. Sau đó anh ta chạy lại, mặt xúc động.

Trong khoảnh khắc tiếp theo, một vệt sáng hiện ra rõ hơn trên bầu trời phía nam. Nic như chùng xuống. Tôi lắc đầu không thể tin nổi. Thông tin tình báo cho rằng Tổng thống Bush sẽ chờ vài ngày trước khi ra lệnh máy bay ném bom.

Những âm thanh của tiếng súng bắn lên trời báo hiệu rằng chiến tranh đã bắt đầu. Tôi liếc nhìn đồng hồ trong giờ phút lịch sử: 2 giờ 32 phút sáng.

Trong những ngày làm tin báo viết của mình, phút làm nên sự khác biệt giữa tin sốt dẻo còn trong truyền hình trực tiếp, giây làm nên sự khác biệt.

Tôi lảo đảo về vị trí làm việc. Điện thoại four-wire vo ve lời mời truyền hình. Nic đã sẵn sàng, biến mất ở hành lang. Anh ta mở cửa mọi lối đi giữa phòng anh ta và sự an toàn nơi trú ẩn tránh bom mười tầng phía dưới. Bernie Shaw đang quỳ xuống, nhìn ra ngoài cửa sổ tầng 9 khi mò mẫm tìm microphone. “Đến với Baghdad, đến với Baghdad”, anh ta thét lên, những ngón tay bấm nút điều khiển. “Điều gì đó đang xảy ra. Điều gì đó đang xảy ra”.

Trái tim tôi như ngừng đập. Bernie là người đầu tiên với câu chuyện. Nhưng sự thất vọng cạnh tranh của tôi biến mất khi tôi nhìn ra ngoài cửa sổ phía sau anh ta.

Vệt sáng đỏ tới mức dường như mặt trời mọc trở lại. Chuỗi ánh sáng vàng trải trên nền trời mặc dù phản lại từ chiếc đèn chùm lớn và tôi dám chắc chúng là những viên đạn lửa từ súng trên máy bay.

Mark Biello di chuyển cẩn thận khi lắp ráp lại một trong những máy quay của anh ta. Không phát được hình vào thời điểm này. Người quay phim đang cố gắng lấy hình để sử dụng sau đó. Tôi giúp anh ta thì nghe thấy Bernte gọi: “Peter At, tham gia cùng tôi ở đây”. Atlanta đang truyền hình trực tiếp chúng ta, cắt ngang cuộc phỏng vấn với Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger.

Bernie bắt đầu, “bầu trời Baghdad sáng rọi. Chúng ta đang nhìn thấy những vệt sáng tràn khắp bầu trời phải không Peter?”. Khi tôi đẩy mặt mình tới chiếc microphone, tôi nói lắp bắp sự quan sát của mình về “những vệt sáng lớn trên bầu trời, những hiệu ứng giống như sấm chớp”.

Bên ngoài, đèn vẫn sáng trong các tòa nhà và đường phố. Tiếng còi báo động bắt đầu rú lên khắp thành phố, nhưng mọi người dân Iraq đã tỉnh giấc từ lâu.

Khi John Holliman bước vào phòng, đèn khách sạn đã tắt cũng như các tín hiệu truyền thông bốn dây của chúng tôi. Tôi nghĩ, tất cả kế hoạch, tất cả những đấu tranh, tất cả tiền… đều đổ xuống sông. Thế giới ngoài cửa sổ chúng tôi nổ còn chúng tôi là những người đứng bên trong không giúp được gì.

Tôi thấy Biello ở phòng bên cạnh và giúp anh ta dựng các máy quay nhỏ ở một số cửa sổ trước khi dời tới vị trí ẩn nấp. Khi trở lại nơi làm việc, tôi nhìn thấy Holliman núp dưới cửa sổ, nhìn lên trong đêm sợ hãi và nói vào chiếc microphone bốn dây mà anh ta gắn với sợi dây dài.

“Chào Atlanta, Atlanta. Đây là Holliman. Tôi không biết là các bạn có thể nghe thấy tôi bây giờ hay không nhưng tôi sẽ tiếp tục nói chuyện với các bạn lâu như có thể”. Holliman đặt pin mới vào bốn dây để khởi động lại. Ánh đèn vàng hoa tiêu lóe lên nhưng Atlanta không nhận được tín hiệu. Holliman đặt microphone ra ngoài cửa sổ thu âm thanh đêm đó. Cửa sổ của chúng tôi rung lên. Chúng tôi mở cửa ra vào kết nối các phòng để có toàn cảnh. Sau đó, khi nghỉ vai độc thoại của mình, Holliman nghe thấy lời đáp từ Atlanta. Họ đã lắng nghe anh ta khoảng mười phút, chờ cho anh ta dừng lại để họ chen vào.

John nhảy múa trong niềm vui khi trận bom lớn nổ tung ba toà nhà làm rung chuyển căn phòng khách sạn. Tôi đoán đó là trụ sở đảng Ba’ath của Saddam Hussein. Truyện “Từ Chiến Trường Khốc Liệt (Live from the battlefield) ”

“David, đây là một đêm đặc biệt. Tuyệt biết bao được ở cùng cậu” Holliman đang nói chuyện trực tiếp từ Baghdad với người dẫn chương trình David French. Chúng tôi chuyển microphone qua lại cho nhau giống như gậy nghỉ ngơi.

Giám đốc sản xuất ở Atlanta, Bom Furnad, cổ động trên đường dây. Giọng ông ta náo nhiệt.

– Các bạn làm điều đó đi. Cả thế giới đang xem!

Vào lúc ba giờ sáng. Cuộc tấn công đầu tiên kết thúc. Một xe cứu thương màu trắng chạy dọc đại lộ có cây phía dưới chúng tôi, ánh đèn màu xanh lấp lóe và còi báo động rú lên. Không có thứ gì khác chuyển động. Bầu trời phía nam tối lại, nhưng ở phía đông, trên Dinh tổng thống, những tay súng lo lắng bắn thường xuyên, đạn lửa uốn trên bầu trời .

Một trong các biên tập hình của CNN, Kris Krizmanich, nhìn lên tôi e sợ. Cô ta đang ngồi xổm trên sàn nhà dựa vào tường, ho lặng lẽ. Ngay sau đó cô ta về nơi trú ẩn cùng Wiener.

Tôi giao microphone cho Holliman. “Oh, oh, bây giờ có một trận bắn phá lớn ở phía tây vị trí chúng ta. Và chúng ta chỉ nghe thấy whoa,… Nó là vụ nổ trên không lớn mà chúng ta thấy. Nó đang đặc kín bầu trời…” Mắt của Holliman lồi ra giống như bài văn của anh ta. Tiếng vang cuộc chiến kĩ thuật nhấn chìm chúng tôi.

Giờ tới lượt tôi. Tôi dựa gần chiếc microphone. Khách sạn đang rung chuyển. Tôi ngó ra ngoài cửa sổ và giọng tôi chết trong cổ họng. “Tôi nghĩ, John, vụ nổ trên không đã thổi tung trung tâm viễn thông”. Tiếng vang của bom nổ đi qua chúng tôi.

Tôi cố gắng nói bình tĩnh nhưng dường như có âm sắc cao giọng mà tôi không thể nào kiềm chế được. “Bây giờ các bạn có thể nghe thấy tiếng bom. Nếu các bạn vẫn ở đây cùng chúng tôi, các bạn có thể nghe thấy tiếng bom. Chúng tấn công về trung tâm thành phố”. Tôi nhắm mắt lại và giơ microphone lên, để cả thế giới nghe âm thanh của cuộc chiến vang qua cửa sổ, âm thanh dội lại từ những vụ nổ làm răng tôi va vào nhau.

Tôi chuyển microphone cho Holliman, người đoán liên lạc truyền thông của chúng tôi với Mỹ cuối cùng sẽ bị ngắt. “Tôi sẽ hỏi nếu anh có thể nghe thấy chúng tôi ở Washington và Atlanta. Các anh vẫn có thể nghe thấy chúng tôi chứ?”.

Giọng của phát thanh viên David French trên chiếc micro-phone kêu lách cách đảm bảo với chúng tôi, “John, chúng tôi vẫn nghe thấy anh. Tiếp tục đi. Chúng tôi vẫn nghe thấy anh”.

Holliman giải thích: “Các bạn biết đấy, khi các bạn nhìn thấy đường dây truyền thông liên lạc ra bên ngoài thế giới bị tấn công bằng một quả bom thì phải tiếp tục kiểm tra để chắc rằng vẫn liên lạc được”.

French ngắt quãng bằng thông báo từ sở chỉ huy của Mỹ ở Ả Rập rằng chiến tranh đã bắt đầu. “Tôi nghĩ thông tin này là thừa với các bạn. Các bạn đang xem nó”, anh ta bình luận ngắn gọn. Chúng tôi đã hành động trước Văn phòng báo chí của Lầu Năm góc khoảng 27 phút về sự bắt đầu của Chiến tranh vùng Vịnh?

Tôi bắt tay Holliman. John cho tôi lên hình sau khi kết luận rằng: “tôi sẽ nói cho các bạn biết rằng kinh nghiệm của tôi trong cuộc chiến là giới hạn, tôi tự hào nói điều đó. Nhưng tôi nghĩ khi mặt trời mọc vào ngày mai, kinh nghiệm của tôi sẽ nhiều lên rất nhiều”.

Khi mặt trời mọc, vẫn còn khoảng bốn giờ nữa. Chúng tôi không mong đợi máy bay giảm bớt oanh tạc hay những yêu cầu của CNN bình luận trực tiếp. Cổ họng của tôi rát mỏi, nói luôn mồm không dứt. Đầu tôi nhức, tôi cảm thấy cánh tay và lưng đau ê ẩm. Chúa ơi, tôi bị phát ban, ít nhất tôi đã không ngất.

Chúng tôi tạm dừng khá lâu. Đường dây liên lạc dường như đảm bảo. Chiến tranh đang gào rú trên đầu chúng tôi giống như trận bão được dự đoán trước. Mối quan tâm lớn nhất của tôi là tránh xuất hiện một cách ngu ngốc trước khán giả trên toàn thế giới. Tôi thề tránh việc nói liên mồm, ủy mị và phỏng đoán – chỉ truyền những gì tôi nhìn thấy. Thiển cận là một trong những hiểm họa của truyền hình trực tiếp nhưng lưỡng lự là một tội ác đạo đức, không dễ dàng để nói trước khi bạn nghĩ.

Có tiếng rít bên ngoài cửa sổ. Holliman dựa vào vai tôi về phía microphone. “Oh, đó nghe như tiếng rocket. Nó khá gần”. Tôi đảm bảo với anh ta, “Tôi nghĩ là rocket đang tới gần, nhưng không hướng về phía chúng ta, John”. Anh ta cười theo phản xạ tự nhiên. Tiếng gầm rú của phi cơ ném bom lập tức rú lên cùng những luồng khói đen dày đặc phụt ra từ các toà nhà chính phủ chỉ cách 1 dặm rưỡi. Trận ném bom căng thẳng và tiến gần hơn về phía khách sạn. Có rất nhiều mục tiêu trong khu vực của chúng tôi.

Tất cả các ngọn đèn ở Baghdad đều tắt trừ phòng chúng tôi, nơi chiếc đèn khẩn cấp đang lóe lên trên trần nhà. Khi nhận ra điều đó, John quay về phía tôi: “Peter, tại sao chúng ta không nhìn thấy nếu tắt ngọn đèn đó đi. Nếu chúng ta phải đập nó thì hãy làm đi. Hãy tắt ngọn đèn đó”. Ánh sáng lấp lóe là quan trọng với mọi di chuyển của chúng tôi trong phòng, để tìm nước khoáng, để điều khiển truyền thông bốn dây, để tránh đâm vào ghế và các hộp dụng cụ.

Tôi nói với anh ta không phải lo lắng. Đối với tôi dường như những máy bay ném bom và tên lửa đầu đạn hạt nhân tầm thấp tấn công những mục tiêu đã được quyết định trước. Khách sạn al – Rashid là mục tiêu chỉ khi Lầu Năm góc quyết định như vậy và nếu chúng tôi nằm trong danh sách ném bom thì không căn phòng tối nào có thể cứu được chúng tôi.

Ánh sáng lấp lóe tiếp theo về phía đông nam và theo sau là hơn mười vụ nổ. Chúng là nơi lọc dầu trên sông Tigris. Những biểu tượng bền vững của Iraq hiện đại bị dọn sạch trong một giây. Sức nóng của trận bắn phá thổi qua cửa sổ khách sạn mở của chúng tôi.

Giờ lại tới lượt tôi ở chiếc microphone đã bật. Tôi nói rằng tất cả các quả bom dường như đều ngắm thẳng tới mục tiêu. Tôi cố gắng để mô tả rõ. Chúng tôi có thể nhìn thấy rất nhiều từ độ cao tầng 9, tất nhiên không phải hết mọi thứ. Chúng tôi không biết chuyện gì đang diễn ra ngoài đó. Tôi biết rằng trong những khoảnh khắc đầu tiên quan trọng của cuộc chiến, ý kiến công chúng có thể hình thành đối với bản tin của chúng tôi. Chúng tôi có đường dây mở với thế giới; không có sự kiểm duyệt ở cả hai đầu. Những người giám sát Iraq đã rời vào trú ẩn trong các boong ke.

Bernie Shaw tham gia cùng chúng tôi. Anh ta ở dưới hầm tránh bom của khách sạn và đang thở hổn hển khi cố gắng leo lên chín lượt cầu thang trong bóng tối. Anh ta đã tới microphone, nhưng Holliman lấy nó lại từ anh ta. “Bernie, bạn và tôi đã có một quy định từ những ngày cả hai chúng ta phát thanh. Anh luôn luôn cảnh báo tôi đừng bao giờ lên hình khi hụt hơi. Tôi sẽ dành cho anh một khoảng thời gian để lấy lại hơi”.

Chuông điện thoại trong phòng bất ngờ reo và chúng tôi nhảy lên. Bernie nhấc máy nghe khi John hò la trong phòng, “Có phải điều gì đó mà những người xem của chúng ta muốn biết à” Holliman dường như quyết định để cả thế giới nghe lén mọi cử động của mỗi người chúng tôi. Đó là điện thoại của khách sạn giục chúng tôi rời khỏi phòng và đi xuống nơi trú ẩn. Tôi nghĩ rằng việc làm tin của chúng tôi đã hết.

Từ khi đánh bom bắt đầu, tôi đã chờ đợt nhân viên an ninh bước vào phòng và ngăn cản chúng tôi. Theo Bernie, tất cả các nhân viên truyền thông của chúng tôi đã tập hợp trong nơi trú ẩn dưới hầm và bị giữ lại bởi các nhân viên có vũ trang. Những người này cùng máy thu bán dẫn bắt kênh BBC đang phát phần bình luận trực tiếp của chúng tôi. Sự phản kháng cạnh tranh đang tới điểm bùng nổ. Truyện “Từ Chiến Trường Khốc Liệt (Live from the battlefield) ”

Tôi tính đến sự bối rối trong những giờ đầu tiên của cuộc chiến, để tiếp tục cho cửa sổ phát thanh của chúng tôi mở. Tôi nghi ngờ Chính phủ Iraq từng có ý định để ba chúng tôi, các phóng viên truyền hình – những quan sát không có giám sát – truyền những hình ảnh cho toàn bộ khán giả trên thế giới biết thời điểm quan trọng như thế này.

Mọi bước chân ngoài khách sạn và mọi cuộc phỏng vấn trong suốt khủng hoảng vùng Vịnh được chính quyền Iraq kiểm duyệt. Những thông tin trì hoãn là sự quan trọng quân sự sống còn. Nếu các đồng nghiệp của chúng tôi ở nơi tránh bom có thể làm chủ điều đó. Tôi đoán các nhân viên quân sự ở Baghdad cũng có thể làm được.

Chúng tôi nghe thấy truyền hình CNN từ Tel Aviv, một phóng viên nói Bộ Ngoại giao Israel đang xem CNN và đài phát thanh quốc gia Israel đang phát phần bình luận của chúng tôi, các nhân viên quản lí của CNN khẳng định điều đó.

Holliman đề nghị Bernie một chiếc sandwich kẹp cá thu. Có tiếng gió thổi qua cửa sổ mở và Holliman đề cập thậm chí vậy nhưng tất cả chúng tôi vẫn đang toát mồ hôi. Mọi thứ chúng tôi nói đều được truyền trực tiếp. Cảm ơn chúa wiener đã không ở đó với vốn từ vựng phong phú của anh ta.

Chúng tôi có nhiều thời gian trên hình. Cuộc tấn công diễn ra cứ 15 phút một lần. Chúng tôi so sánh cuộc đánh bom với một triệu con đom đóm với màn trình diễn pháo hoa ngày 4-7, với cơn bão, với sao băng, với tàu vũ trụ khởi hành. Shaw nói rằng nó giống như trung tâm của địa ngục.

Chúng tôi hiếm khi phủ định lẫn nhau, nhưng có một lần Bernie thách thức sự miêu tả của Holliman về một vụ ném bom như là “cái đẹp”. Anh ta bình luận đanh thép, “John, điều đó với tôi không đẹp”.

Chúng tôi chạy hết từ mặt bên này khách sạn tới mặt bên kia để kiểm tra khung cảnh. Dồn dập bom và tên lửa tấn công các khẩu pháo bắn phá máy bay, vị trí radar, các bộ ngành chính phủ, mục tiêu công nghiệp, các đầu mối liên lạc với chiến trường Kuwait. Nhưng chúng tôi có thể nhìn thấy những chiếc cầu vẫn nằm trên sông Tigris.

Có tiếng đập cửa. Tôi nhìn Bernie, John và gợi ý họ trốn đi. Tôi sẽ giải quyết việc quấy rầy. Holliman luồn vào phòng kế bên rúc xuống một chiếc giường. Shaw vào một phòng và trốn dưới bàn.

Tôi bật công tắc điện thoại, đèn màu vàng và mở cửa. Ba chiếc đèn pin rọi vào mặt tôi và tôi bị đẩy vào trong phòng. Họ là những nhân viên an ninh và to cao hơn tôi rất nhiều. Một người xoay tôi vào tường trong khi những người khác đi vòng quanh phòng của chúng tôi, mở tủ và đóng các cửa sổ. Họ lấy máy quay của chúng tôi khỏi khung máy và mang chúng ra hành lang yêu cầu tôi xuống boong ke. Không còn cách nào khác, tôi buộc phải đi xuống cầu thang.

Tôi ngồi xuống trong lối cửa ra vào. Tôi tuyên bố rằng tôi sợ bị giam giữ. Tôi chứng minh bằng đôi tay run lên sợ hãi trong một khoảng không đóng kín. Tôi nói rằng tôi đã có 10 năm ở Việt Nam và những trận đánh bom bên ngoài không làm tôi lo lắng nhưng ở đây trong một căn phòng đóng kín tôi như phát điên.

Những nhân viên an ninh cố gắng một cách hời hợt kéo tôi đi và sau đó bỏ đi cùng máy quay của chúng tôi. Tôi nhìn theo ánh đèn pin của họ biến mất vào cầu thang và sau đó trở lại phòng.

Atlanta nghĩ rằng họ đã mất chúng tôi. David French đã nói với khán giả, “Tôi không mong muốn cảnh báo bất kì ai” nhưng sự liên lạc với chúng tôi đã bị mất. Wolf Blitzer truyền tin từ Lầu Năm góc rằng tắc nghẽn điện tử cuối cùng đã làm chúng tôi mất phát sóng. Tôi bật hệ thống bốn dây lên và nói với Atlanta rằng chúng tôi đã trở lại nhiệm vụ.

Bernie nói anh ta lo tất cả chúng tôi có thể bị rời đi. “Tôi sẽ chuyển míc cho John, cho anh, Peter, và tôi sẽ trốn dưới bàn, không phải vì tôi sợ những gì đang diễn ra ngoài kia mà tôi muốn đảm bảo nếu có cuộc làm phiền khác và nếu hai anh bị đưa đi thì ít nhất còn một trong chúng ta sẽ ở đây”.

Bây giờ các phát thanh viên đang gọi chúng tôi là “Những cậu bé của Baghdad” khi Bernie lên hình thì có tiếng gõ cửa mạnh một lần nữa ngắt quãng anh ta. Anh ta thì thào: “Chúng ta phải trốn” và ném microphone vào tôi.

Tôi tắt tín hiệu để kiểm tra cửa và nghe thấy David French tuyên bố: “Cảm ơn rất nhiều các quý ông. Chúng tôi đoán đó không phải là người bán hàng Fuller Brush”.

Đó là Wiener. Anh ta cố gắng ra khỏi chỗ ẩn nấp. Bốn người chúng tôi nghe trên hệ thống bốn dây bài phát biểu của Tổng thống Bush đưa ra những yêu cầu tối thiểu cho việc dừng ném bom: rằng lực lượng của Saddam Hussein phải rời Kuwait và ông ta phải tuân theo những giải pháp của Liên hợp quốc.

Tiếng vang các vụ nổ nhấn mạnh bài phát biểu của Tổng thống. Khi Bush nói: “Đây sẽ không phải là một Việt Nam khác”, thì tôi đang nghĩ về chuỗi các cuộc tấn công của Mỹ bên ngoài Hà Nội khi tới thăm vào năm 1972. Mỹ đã dừng những cuộc tấn công ác liệt nhất tới tận khi kết thúc cuộc chiến. Nói theo cách này thì đây mới chỉ là điểm khởi đầu.

Ingrid Formanek, người cũng thoát ra thành công, đi lên từ boong ke và nói với chúng tôi có một cuộc biểu tình “đả đảo Bush” khi các nhân viên an ninh khách sạn đi vòng quanh các nơi trú ẩn cùng vũ khí tự động và mặt nạ khí gas.

Chúng tôi bật cuộc họp báo của Bộ trưởng quốc phòng Dick Cheney. một phóng viên hỏi ông ta có lo lắng đánh bom ở Baghdad đã giết người dân thường hay không. Ông ta đáp lại: “Việc làm tin tốt nhất mà tôi từng xem về những gì diễn ra ở Baghdad là trên kênh CNN. Dựa vào những lời bình luận từ đội làm tin CNN ở khách sạn ở Baghdad, cuộc tấn công vào các mục tiêu với độ chính xác cao đã thành công, ít nhất đó là thông báo theo CNN”.

Vào lúc bình minh, không gian trở nên yên ắng hơn. Chúng tôi vui vẻ ngồi vào ghế thay đổi vị trí sau khi nằm trên bụng và bò trên đầu gối. Tôi nhắc khán giả nhớ sự yên tĩnh không có nghĩa là kết thúc của bất kì điều gì vì “những phát súng đầu tiên trong cuộc chiến đã được bắn ra”.

Không có dấu hiệu gì về phản ứng của Saddam Hussein. Tôi nghĩ ông ta cũng gan lì. “ông ta đã nói rõ vài tuần trước ông ta chào đón cuộc chiến này và chuẩn bị để chiến đấu. Chiến trường của ông ta là khẩu hiệu “Allah Akbar – Allah vĩ đại”.

Sương mù trở lại. Có những dấu hiệu giao thông trên xa lộ tám làn phía trước khách sạn. Chúng tôi nhìn thấy xe cứu hỏa đi qua bầu trời phủ đầy khói đen dày đặc.

Tôi tỉnh dậy vào khoảng trưa, phát hiện ra hậu quả của trận ném bom qua đêm: toilet mất nước. Tôi rửa mặt bằng nước khoáng. Điện không có lại trong khách sạn. Holliman đang gõ bản phát thanh bằng máy đánh chữ di động của tôi vì máy tính không hoạt động và tôi cười với chính mình. Mọi người trêu khi tôi mang nó tới khách sạn vài ngày trước đó. Có phải tôi không biết chúng tôi đang ở trong thời đại máy tính đâu?

Điện thoại four-wire vẫn hoạt động nhưng vì lúc đó vào sáng sớm ở Mỹ và có rất ít cuộc gọi truyền hình trực tiếp. Không gian làm việc của chúng tôi lộn xộn khi đội xếp đồ rời đi. Dãy phòng khách sạn đã trở thành nhà của CNN và các đồng nghiệp truyền thông trong vòng 5 tháng.

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khách sạn. Từ xa, phía sau Trường đại học Baghdad, khói đen cuồn cuộn từ nhà máy lọc dầu. Do ra trên sông Tigris. Nhiều khói đen hơn bao quanh chân trời phía nam nơi tập trung công nghiệp năng lượng và hóa học của Iraq. Bụi nâu và khói trùm lên từ vùng thành phố lâu đời nơi có đạn tên lửa bắn thẳng tàn phá Bộ Quốc phòng. Những tòa nhà cao các bộ của chính phủ vẫn không bị tàn phá. Giao thông thưa thớt trên các đường lớn của thành phố.

Saddam Hussein không hoảng sợ với sức tàn phá của những đợt tấn công phủ đầu. Nic Robertson đã gặp ông ta trước đó ở trung tâm viễn thông trên đường đi gửi thông điệp tới người dân của ông ta rằng “nguồn gốc của các trận chiến” đã bắt đầu. Nic nói Saddam vận quân phục chỉnh trang, trông “rất cương quyết, có sự quyết đoán trong bước chân của ông ấy”. Nếu như các đồng minh đang mong đợi cú đấm hạ gục một lần, thì điều đó không xảy ra.

Đến lượt tôi truyền hình cùng Holliman khi Bernie ngủ, miêu tả các trận đánh bom cứ nửa giờ một lần hoặc nói chuyện về Baghdad và các cửa hàng đã đóng cửa, những hạn chế trên ống kính máy quay. Tôi hiểu chúng tôi không còn độc quyền với câu chuyện nữa, và một số các tổ chức thông tin khác đã công khai điện thoại vệ tinh của họ và bắt đầu làm tin dưới sự kiểm soát của các quan chức Iraq.

Tôi dần nhận ra chúng tôi đã trở thành một phần của câu chuyện. Các phát thanh viên CNN thường hỏi về sức khỏe của chúng tôi. Molly Mccoy nhắc lại một lời bình luận mà tôi đã nói trước đó rằng tôi cảm thấy “tương đối an toàn” trong Khách sạn al-Rashid. Cô ta hỏi những người khác cảm thấy thế nào và tôi trả lời rằng họ không chia sẻ sự tự tin của tôi, một bình luận mang đến lời xì xào tán thành từ đám đông CNN tụ lại.

Tất cả đều kết thúc lúc 7 giờ tối khi Holliman đang truyền hình trực tiếp. Người giám sát của chúng tôi, Ala’a, bước vào nơi làm việc, kéo tay áo tôi và thì thào rằng chúng tôi phải đóng cửa. Sau đó anh ta quay sang Holliman và đặt ngón tay chặn ngang cổ họng anh ta.

Holliman giả vờ không nhận ra, nói cao giọng, “Ngài Ala’a, ngài muốn tôi làm gì thưa ngài? Tôi không hiểu. Ngài phải nói với tôi”. Tay nhân viên đó đã không đi tới microphone nhưng trước sự năn nỉ của chúng tôi, buộc anh ta lưỡng lự đưa ra lời giải thích: Bộ viễn thông yêu cầu đóng cửa.

Wiener bước vào phòng tuyên bố kiểm duyệt quân đội đã ban sắc lệnh, truyền hình trực tiếp bản tin bị cấm và chúng tôi phải đóng cửa ngay lập tức. Wiener nói vào microphone: “Đây là điều mà chúng tôi không hề muốn làm”.

Wiener và Holliman không sẵn sàng nhượng bộ phần việc của họ. CNN đã chiếm được sự chú ý yêu thích trong suốt cuộc thảm sát Thiên An Môn khi các nhà sản xuất chống lại các yêu cầu của một nhân viên Trung Quốc đóng cửa việc phát hình. Tôi đoán rằng các đồng nghiệp của tôi đang cố gắng làm chiến thuật tương tự như vậy.

Tôi muốn dừng lại. Cảm nhận của tôi là chúng tôi đã tận dụng được chiếc cửa sổ đặc biệt. Chúng tôi đã truyền hình trực tiếp 17 tiếng đồng hồ mà không có một giây kiểm duyệt. Chúng tôi đã chứng kiến thủ đô Baghdad trong cuộc tấn công khủng khiếp. Chúng tôi nêu rõ mọi mục tiêu bị tấn công mà chúng tôi biết và chỉ ra rất nhiều mục tiêu chưa bị tấn công. Chúng tôi nói mọi thứ và bất kì điều gì chúng tôi muốn về cuộc chiến và Saddam Husseint ở ngay trong vườn sau của ông ta. Chúng tôi đã có tin hoàn toàn sốt dẻo so với các đối thủ cạnh tranh vào đêm chiến tranh bắt đầu. Và tất cả chúng tôi cần ngủ.

Tôi lợi dụng thứ hạng. Tôi lấy microphone từ Holliman. “Do vậy John, tôi sẽ quyết định cắt thông tin liên lạc bởi vì tôi là phóng viên lâu năm ở đây”.

Phát thanh viên chịu trách nhiệm ở Atlanta, Bob Cain đang đáp lại khi tôi bước đi khỏi hệ thống bốn dây mà các cậu bé của Baghdad đã có “Những bài tin đầu tiên và họ có thể chỉ truyền hình những bài tin cuối cùng. Chúng tôi sẽ giữ liên lạc với các bạn”.

Chúng tôi đi xuống boongke khi lời đồn đại lan khắp khách sạn al-Rashid nằm trong danh sách ném bom đêm hôm đó. Tôi không cãi nhau với niềm tin của Weiner có sự nguy hiểm sắp xảy ra khi anh ta đón đầu lối đi. Tôi đấu tranh với sự hoảng sợ nhìn thấy quanh mình. Tôi tự vấn bản thân và với những người khác lí do gì cho phía đồng minh ném bom khách sạn, đặc biệt bây giờ sự có mặt của chúng tôi đã quá rõ ràng trong mắt công chúng. Thậm chí nếu khách sạn bị ném bom, tôi nghĩ những nơi trú ẩn không đủ vững chắc cho chúng tôi sống sót.

Các boongke đông đúc và ánh đèn lờ mờ với năng lượng khẩn cấp Những nhà vệ sinh bắt đầu bốc mùi. Đám đông CNN cố gắng khoanh vùng góc ngủ cho chúng tôi bằng chăn từ tầng trên nhưng những người khác tràn quanh nó.

Tôi nằm cạnh một quan chức Bộ Thông tin, Jalil alSekh, người đã mang cả gia đình tới trú ẩn: hai đứa con gái tuổi vị thành niên, Rand và Reem, cùng vợ ông ta, lsahra và mẹ vợ Saffia. Họ thân thiện. Họ nói chuyện về trận tấn công của người Iran sống sót trong suốt cuộc chiến chỉ vừa mới kết thúc. Họ chuyền nhau một chai nước khoáng và vài quả cam. Họ không có chỗ nào để đi. Họ bị tắc trong suốt thời gian vừa rồi và đang cố gắng vượt qua. Tôi bắt đầu quen dần


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.