Tiếng ngựa hí tiếp liền nhau rền vang cả sơn cốc.
Vầng mặt trời đỏ ối như quả cầu lửa khuất dần xuống đỉnh núi phía Tây.
Thảo nguyên bao la tiếp giáp với sa mạc hút cả tầm mắt tiếp giáp với chân trời, hoàn toàn không có bóng dáng dân cư, ngay đến cả một cái lều du mục cũng không.
Ngoài cốc khẩu là một bãi quái thạch rộng, với vô số những tảng đá hình dạng cao thấp, muôn vẻ khác nhau được thời gian bào nhẵn thành những hình thù kỳ quặc.
Khấu Anh Kiệt ngồi giữa đám quái thạch đó, im lìm tưởng chừng như cũng là một tảng đá, mắt nhìn đăm đăm vào sơn cốc, nơi vọng tiếng ngựa hí vang ra đến ngoài.
Khấu Anh Kiệt là một chàng trai chừng hăm ba tuổi, người dong dỏng cao, khuôn mặt dễ nhìn nhưng toát ra vẻ cương nghị với đôi mắt sáng hơi có nhiều tham vọng.
Chàng làm gì mà cho đến lúc hoàng hôn như thế này, vẫn một mình giữa thảo nguyên chìm trong hoang mạc bao la ít dấu chân người?
Đã suốt một năm nay, Khấu Anh Kiệt đã trải qua muôn ngàn gian khổ, nằm gai nếm mật lần theo dấu vết của bầy ngựa hoang từ Tề Cáp Nhĩ tới tận Mạc Bắc này, với quyết tâm bắt cho bằng được con ngựa quý, vốn là niềm ao ước của tất cả những người sành ngựa.
Đó là một con ngựa ô, cổ có một khoang trắng nhỏ, được đặt tên là “Hắc Thủy Tiên”.
Một năm chỉ dành cho việc đuổi theo một con ngựa hoang, đủ thấy con ngựa quý giá bao nhiêu và lòng kiên trì của chàng trai này đã vượt đến mức độ nào.
Nấp trong đám quái thạch, Khấu Anh Kiệt không rời mặt khỏi “Hắc Thủy Tiên” cùng với bầy ngựa hoang có đến mấy trăm con.
Con ngựa ô lúc nào cũng đi đứng riêng rẽ, dáng cao quý và ngạo nhễ như một vị hoàng đế.
Thì chính nó được coi là “vua” của loài ngựa mà!
Vầng dương đã lặn, những tia nắng cuối cùng còn đọng lại trên cành lá mang sắc vàng lóng lánh.
Tiếng ngựa hí càng rộn rã, những con ngựa đang nằm đều đứng lên, rung bờm gõ móng chừng như đã đến lúc xuất phát.
Khấu Anh Kiệt tay nắm chặt sợi dây thòng lọng, đứng ở vị trí thuận lợi nhất, cố giữ cho nhịp thở đều hòa.
Suốt một năm săn lùng con ngựa quý, chàng hầu như thuộc lòng tính nết, mọi phản ứng của “Hắc Thủy Tiên”, thế mà lúc này chuẩn bị tung sợi dây vào cổ nó, chàng vẫn thấy lòng đầy hồi hộp, tim gõ dập dồn như tiếng vó ngựa đang phi trong lòng.
Chợt nghe tiếng tiêu văng vẳng.
Khấu Anh Kiệt quay đầu tìm kiếm, thấy cách khoảng nửa dặm về hướng đông có một con lạc đà đủng đỉnh đi, trên lưng ngồi vắt vẻo một lão nhân, bận hoàng y lẫn với màu cát, tay cầm một ống tiêu, dáng rất du nhàn.
Nhưng Khấu Anh Kiệt chỉ nhìn thoáng qua rồi trở lại tập trung đầu óc vào con Hắc Thủy Tiên.
Đàn ngựa bắt đầu lao ra cốc khẩu.
Theo lệ thường, con Hắc Thủy Tiên vẫn chạy cuối cùng.
Đây là thời cơ lớn nhất, cũng là vị trí thuận lợi nhất nhờ vào bãi quái thạch che dấu nhân ảnh của chàng, một nơi mà suốt năm dài Khấu Anh Kiệt mới có được.
Cũng là lần duy nhất chàng quyết định xuất thủ.
Khi Hắc Thủy Tiên tung mình lao ra khỏi sơn cốc thì Khấu Anh Kiệt cũng bật cao lên hai trượng, tung sợi dây thòng lòng vào đầu nó.
Con ngựa ô hí vang, lồng lên như tên bắn, kéo theo sợi dây thòng lọng, đầu kia là Khấu Anh Kiệt cố sức giữ chặt, có chuyện gì cũng không buông. Chàng vừa vận lực tối đa vào hai cánh tay ghì lại để giảm bớt tốc độ của con ngựa, vừa lần theo sợi dây để tiếp cận nó.
Con ngựa vừa nhảy theo hình chữ chi, vừa cúi xuống cắn vào sợi dây hòng thoát khỏi đối thủ nhưng vô hiệu.
Tuy vậy cũng phải qua hơn tới hai dặm Khấu Anh Kiệt mới nhảy lên được mình nó.
Đêm tàn, ngày rạng!
Hắc Thủy Tiên toàn thân đẫm ướt mồ hôi, miệng thở hồng hộc, không còn phi điên cuồng như trước nữa, chừng như đã chịu thuần phục bởi một kỵ sĩ cự phách.
Suốt đêm quần đảo cùng con ngựa bất kham, Khấu Anh Kiệt cũng phờ phạc hẳn ra, tay mỏi rã rời những vẫn cố giữ chặt bờm ngựa.
Nhưng cho dù thế nào đi nữa, mã vương Hắc Thủy Tiên cũng đã thuộc về chàng!
Mãi đến giờ tỵ, khi tin chắc con tuấn mã đã hoàn toàn thuần phục, Khấu Anh Kiệt mới nhảy khỏi lưng nó.
Chàng đưa tay vỗ lên cổ con ngựa vừa rồi dữ như hùm nhưng bây giờ thì trông hiền lành như một con dê, nhìn nó đầy trìu mến, lấy ra một tấm khăn trắng cẩn thận lau mồ hôi cho nó rồi dắt tới một hồ nước tắm rửa.
Cảm tình giữa người với ngựa được thiết lập một cách nhanh chóng và rất kỳ diệu.
Chẳng bao lâu đã thấy Hắc Thủy Tiên gậm cỏ một cách thoải mái bên bờ hồ, còn Khấu Anh Kiệt lấy ra một chiếc bánh cứng ngắt ngồi lên tảng đá ăn ngon lành, lòng hứng khởi không sao kể xiết.
Như vậy là khổ công suốt một năm qua nay đã được đáp trả xứng đáng.
Đang trìu mến ngắm nhìn con tuấn mã, Khấu Anh Kiệt chợt thấy từ xa những đám bụi bốc lên, lát sau hiện ra năm kỵ mã phi rầm rập tới gần.
Đến cách hồ nước chừng năm trượng thì năm kỵ sĩ gò cương dừng ngựa lại.
Khấu Anh Kiệt mới nhìn qua đã sinh ác cảm với bọn người này.
Tên đầu tiên dáng chừng là thủ lãnh cưỡi lưng ngựa bạch, tuổi độ tứ tuần, người cao gầy, răng vẩu mũi khoằm, chừa bộ râu dê, mình khoác áo da gấu.
Bốn tên kỵ sĩ đứng sau lưng gồm một hán tử chột mắt trái, một tên da đen như đít nồi cao lêu khêu tới tám thước, một tên thấp lùn mập ú và một đại hán mặc hồng y, tướng mạo hung dữ, áo phanh ra để lộ bộ ngực lông lá.
Năm tên này cưỡi những con ngựa màu sắc khác nhau, binh khí của chúng cũng không thống nhất.
Tên chột mắt đeo thanh Bát Quái đao, hồng y đại hán mang một cặp Lưu Tinh chùy, hán tử lùn mập không đeo binh khí, tên mặt đen như đít nồi cũng sử một cây Cửu Tiết tiên, còn tên thủ lĩnh cao gầy thì đêm một đôi Phán Quan bút.
Cả bọn nhìn Hắc Thủy Tiên bằng ánh mắt tham lam, sau đó chuyển sang Khấu Anh Kiệt với cái nhìn thù địch không giấu diếm.
Tên cưỡi bạch mã dáng chừng thủ lãnh không nói gì, tế ngựa lại gần con Hắc Thủy Tiên xem xét một lúc rồi quay lại bảo đồng bọn :
– Không sai, chính là con ngựa đó!
Tên lùn mập hỏi :
– Hắc Thủy Tiên?
– Chính thế!
Tên thủ lĩnh trả lời xong quay sang nhìn Khấu Anh Kiệt hỏi :
– Tiểu tử! Ngươi vừa bắt được con ngựa đó ở đâu?
Ngay từ khi đối phương mới xuất hiện, Khấu Anh Kiệt đã có ác cảm. Nay thấy chúng bàn về con ngựa, chàng tin rằng chúng chẳng có chút thiện ý nên nghe không thèm trả lời mà chỉ vận công phòng bị.
Tên chủ lĩnh chẳng thèm để ý đến thái độ của Khấu Anh Kiệt, mắt không rời con Hắc Thủy Tiên nói bằng giọng dứt khoát :
– Báu vật đó là của ta!
Nói xong đưa mắt ra hiệu cho tên lùn mập.
Tên này liền xuống ngựa, từ từ bước đến gần Khấu Anh Kiệt, khi đến cách chừng bảy tám thước, hắn bất thần lao vọt tới, bàn tay phải vung lên.
Trong tay áo tên mập vốn đã giấu sẵn hai mũi Liễu diệp đao, khi hắn vung tay, hai mũi đao bay như hai tia chớp tới Khấu Anh Kiệt, một nhằm vào yết hầu, một nhằm vào ngực chàng.
Tên này mập ú nhưng động tác nhanh nhẹn lạ thường, thủ đoạn lại vô cùng hiểm độc, vừa xuất chiêu đã hạ sát thủ.
Khấu Anh Kiệt sớm đã lường trước tình huống này.
Với một chiêu bất ngờ hiểm độc và chuẩn xác như vậy, ai cũng tin rằng đối phương không sao toàn mạng nổi.
Không hiểu Khấu Anh Kiệt làm cách nào mà tránh được hiểm chiêu đó, chỉ thấy chàng đã sấn đến bên đối thủ, trong tay xuất hiện một thanh nhuyễn đao.
Thậm chí bốn tên hán tử kia không kịp nhìn kỹ thanh đao hình dạng thế nào vì nó vừa rời khỏi vỏ đã lóa lên như ánh chớp.
Thế đao cực kỳ phàm tốc và chính xác.
Ánh đao lóe lên được đúng nửa vòng thì được thu lại ngay, cùng lúc đó một tiếng rú thảm vang lên nhưng tắt nghẹn nửa chừng.
Cùng lúc Khấu Anh Kiệt tra đao vào vỏ thì thân thể của tên lùn mập cũng từ từ đổ xuống, máu từ cổ họng bị cắt đứt phun lên trời thành một vòi cao tới hơn bốn thước.
Quang cảnh thanh bình bên hồ đã biến thành chết chóc, trong không khí sặc mùi huyết tanh.
Ngay cả con Hắc Thủy Tiên cũng thôi gặm cỏ ngẩng lên nhìn.
Bốn tên hán từ gườm gườm nhìn Khấu Anh Kiệt, trong ánh mắt sung mãn nỗi hận thù và có cả sự kinh ngạc.
Chừng như chúng chưa quen với hành động giết người một cách chớp nhoáng như thế.
Thỏ tử hồ bi, vật thương đồng loại, lẽ nào chúng giương mắt nhìn đồng bọn bị chết thảm mà không báo thù?
Huống chi bọn này đã quen thói hung tàn trong năm tên mà mới một bị trúng đao thì có gì đáng sợ?
Cả bốn tên đưa mắt nhìn nhau, giống như đã có sự phân công, hai tên rời lưng ngựa nhảy xuống.
Đó là tên chột mắt và tên cao kều mặt đen.
Hai tên vừa xuống ngựa đã nghiến răng lao tới Khấu Anh Kiệt tay vung binh khí tấn công ngay, tên chột với cây Bát Quái đao, tên mặt đen với ngọn Cửu Tiết tiên, một tả một hữu giáng xuống đầu Khấu Anh Kiệt.
Đao quang, tiên ảnh phản quang ánh mặt trời loang loáng, kình khí nổi lên như bão táp, công thế thật kinh nhân.
Khấu Anh Kiệt buộc phải chùng người xuống lăn đi hai vòng thoát ra ngoài vùng công kích.
Chàng chưa kịp đứng dậy thì tên cao kều mặt đen đã lao theo, ngọn Cửu Tiết tiên duỗi thẳng như cây thiết trượng nhằm vào ngực chàng đâm xuống.
Khấu Anh Kiệt lăn tiếp nửa vòng tránh khỏi rồi bật người đứng dậy, cây nhuyễn đao trong tay lóe sáng.
Tên cao kều mặt đen chưa kịp thu roi về chống đỡ thì đã bị chém bay mất nửa đầu, gục xuống chết ngay mà không kịp kêu một tiếng.
Ngay lúc ấy thì thanh Bát Quái đao của tên hán tử chột mắt chém bổ xuống vai trái Khấu Anh Kiệt.
Chàng mới thu đao về một nửa đã phải đưa lên chống đỡ.
– Choang!
Hai thanh đao chém vào nhau làm bùng lên một quầng lửa và tiếng nổ rền vang như sấm chấn động thảo nguyên.
Sau cú nghênh chiêu trực diện, cả hai đối thủ cùng lùi một bước.
Nhưng hán tử chột mắt vừa lùi đã tung mình lao tới, song cước tung lên, một nhằm vào tiểu phúc, một đã móc lên hàm Khấu Anh Kiệt.
Hán tử chột mắt triển khai công thế vô cùng mau lẹ, nhưng Khấu Anh Kiệt phản ứng cũng không chậm.
Một lùi về còn chưa đứng vững, thanh nhuyễn đao trong tay chàng đã lập tức biến chiên chém xuống.
Chỉ nghe phập một tiếng, sau đó là tiếng rú thê thảm của hán tử chột mắt chẳng khác nào lợn bị chọc tiết, đồng thời máu đỏ phun ra.
Chân phải của tên chột bị chém đứt đến bẹn còn theo đà bay đi năm sáu thước gần đến bờ hồ, còn hắn ngã xuống ngay trước mắt Khấu Anh Kiệt, ngất đi bất tỉnh.
Khấu Anh Kiệt nhảy lùi một bước tới cả trượng, tay vẫn cầm chắc nhuyễn đao sẵn sàng cho cuộc chiến tiếp theo.
Nhưng hai tên hán tử còn lại không có ý định xuất thủ.
Tên thủ lĩnh cao gầy khoác áo da gấu phóng ánh mắt đầy thù hận nhìn Khấu Anh Kiệt một lúc rồi khoác tay bảo tên đồng bọn duy nhất còn lại :
– Đi!
Cả hai con ngựa một bạch một hắc quay đầu phóng nước đại chạy biến vào thảo nguyên không bao lâu thì mất hút.
Khấu Anh Kiệt thẫn thờ nhìn theo chúng, hồi lâu mới định thần, thở hắt ra một hơi giắt đao vào vỏ.
Sau đó chàng chậm rãi bước tới gần tên hán tử chột mắt bị chém đứt mắt chân phải, thấy hắn nằm bất động, chàng cúi xuống sờ vào mũi xem mới biết rằng đã chết, có lẽ vì mất máu quá nhiều.
Tuy rằng hành động của chàng là để tự vệ nếu không tất đã chết dưới tay năm tên đồng bọn kia rồi, nhưng một lúc giết tới ba mạng người, trong lòng Khấu Anh Kiệt vẫn vô cùng áy náy.
Chàng đứng lặng nhìn ba tử thi hồi lâu rồi cuối cùng buông tiếng thở dài quay đi.
Ba chú ngựa mất chủ vẫn bình yên gặm cỏ bên bờ hồ.
Khấu Anh Kiệt chọn trong đó một bộ yên cương mang lên lưng con Hắc Thủy Tiên vừa bắt được.
Người đẹp vì lụa, ngựa đẹp nhờ yên, sau khi được trang sức, con tuấn mã trông càng lộng lẫy.
Khấu Anh Kiệt không muốn nấn ná thêm ở nơi tang tóc này, buộc xong yên cương liền lên ngựa phóng đi.
Hắc Thủy Tiên không quen với những thứ dây nhợ vướng víu trên mình, vừa hí vừa lồng lên quay lại cắn lung tung.
Nhưng suốt đêm qua, khi chưa có yên cương còn bị thuần phục, huống chi bây giờ dã tính của nó mất đi bảy tám phần?
Sau một hồi lồng lộn, cuối cùng nó cũng trở nên ngoan ngoãn chịu sự điều khiển của sợi dây cương.
Giữa giờ ngọ thì tới một tiểu trấn gọi là Nam Ngõa Tử.
Thực ra đó chỉ là một khu chợ nhỏ của người du mục với số hàng quán lèo tèo, bày bán chủ yếu là lương thực, gia súc và vài quán ăn nhỏ.
Khấu Anh Kiệt ghé vào lót dạ qua loa rồi vội vã lên đường.
Chàng quyết tâm trước khi trời tối vượt qua sa mạc tới Thượng Đô, sau đó vượt qua Vạn lý trường thành tiến nhập vào Trung nguyên, kết thúc một năm bôn tẩu khắp vùng Mạc Bắc.
Khấu Anh Kiệt vốn xuất thân từ một thế gia ở Giang Nam, nhưng phụ thân mất sớm học văn bất thành nên chuyển qua nghề võ.
Lúc đầu chàng tới Hành Dịch môn bái vị chưởng môn nhân là Chung tiên sinh làm sư phụ.
Sau ba năm, công việc luyện võ đang có nhiều thành tựu, Khấu Anh Kiệt đã căn bản học xong nội ngoại công của bổn môn thì Chung tiên sinh lâm bạo bênh mà qua đời ở tuổi tráng niên, buộc lòng Khấu Anh Kiệt phải bỏ môn đàn.
Năm ấy mới mười bảy tuổi, Khấu Anh Kiệt rời Giang Nam tới Mã gia ở tận Tái Bắc để học đao pháp.
Khoái đao của Mã gia lúc ấy lừng danh khắp thiên hạ võ lâm, có thể coi là đứng đầu nam bắc ngũ tỉnh.
Mã lão đầu lúc này đã bảy mươi ba tuổi mới thu được một đệ tử đắc ý nên rất cao hứng, trong suốt hai năm đã dốc sức truyền thụ hết tinh hoa đao pháp cho.
Có lẽ số của Khấu Anh Kiệt là phải chịu nhiều lưu lạc nên chàng mới học nghệ được hai năm thì Mã lão đầu cũng cưỡi hạc tây quy, trước khi lâm chung còn kịp tặng lại cho ái đồ thanh bảo đao tùy thân mà ông cất giữ nhiều năm, quý như con người của mắt mình gọi là Miên đao hay Như Ý đao.
Mã lão đầu không con nhưng có một người cháu tên là Mã Thiên Tích ở khu vực Vạn Lý Trường Thành làm nghề buôn ngựa.
Khi ông chết đi, ông để lại khá nhiều tài sản.
Khấu Anh Kiệt là người chính nhân quân tử không có lòng tham.
Sau khi sự phụ qua đời, chàng lo tang sự xong mang hết tài sản quý báu đến Trường Thanh giao cho người cháu!
Mã Thiên Tích vô cùng khâm phục và cảm kích trước nghĩa cử này, lưu Khấu Anh Kiệt lại để cùng mình quản lý cửa hàng buôn ngựa.
Nhưng đã dấn bước vào giang hồ chí tại bốn phương, Khấu Anh Kiệt chưa ở được vài năm đã ngỏ ý ra đi!
Mã Thiên Tích lưu giữ không được đem tặng khá nhiều tiền của tiễn biệt Khấu Anh Kiệt rời khỏi Trường Thành!
Chàng chưa trở về Giang Nam ngay mà vượt Vạn Lý Trường Thành ra quan ngoại tới Thượng Đô!
Gần đây những người sành ngựa ở vùng Ký Bắc đều biết về một con ngựa hoang thiên lý trong một đàn ngựa hoang ở khu vực này được đặt tên là Hắc Thủy Tiên.
Không những ở Ký bắc mà gần như khắp quan ngoại đều biết đến con ngựa này.
Tất cả những người mê ngựa đều ao ước có được Hắc Thủy Tiên gọi nó là Thượng đẳng mã vương.
Khấu Anh Kiệt đã có lần nhìn thấy con ngựa quý báu này.
Vốn đã từng mấy năm làm nghề lái ngựa cùng Mã Thiên Tích nên có khá nhiều kiến thức về ngựa, chàng chưa từng nhìn thấy con ngựa nào tuyệt diệu như Hắc Thủy Tiên, từ bấy đến nay ôm ấp hoài vọng chiếm hữu cho được nó bằng mọi giá.
Khấu Anh Kiệt hướng ra quan ngoại chỉ với mục đích này.
Bây giờ hoài vọng đã thành công, chàng không còn lý do gì mà ở lại đây nữa.
Tuổi trẻ thường sục sôi khát vọng.
Với nhất thân võ công nay lại chiếm hữu con ngựa quý bậc nhất giang hồ, Khấu Anh Kiệt trào dâng nhiệt huyết, muốn làm việc gì chấn động võ lâm mang lại lợi ích cho nhân quần.
Thực tế đao pháp của Khấu Anh Kiệt đã vượt quá sư phụ Mã lão đầu trước đây do được kiêm võ học của hai nhà và nhờ trí thông minh sáng tạo.
Chàng đã sáng tạo ra rất nhiều chiêu thức li kỳ ảo diệu, trong đó có những chiêu sau này vận dụng rất có hiệu quả.
Vừa rồi giết ba tên cường đạo bên hồ Khấu Anh Kiệt cũng dùng chiêu thức do mình sáng tạo.
Bản tính chàng vốn trầm tư ít nói, thông thường những người này đều sống nội tâm, làm việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, đó cũng là một trong những điều kiện giúp Khấu Anh Kiệt đạt được thành tựu nhanh chóng trong võ học!
Nhưng hiện giờ trong giang hồ hầu như chưa ai biết đến cái tên Khấu Anh Kiệt chứ đừng nói là nhân vật này nọ.
° ° °
Rời khỏi Nam Ngõa Tử lại tới sa mạc bao la.
Đi mới được mấy chục dặm, trời bỗng nhiên nổi gió, Khấu Anh Kiệt phải lấy tấm khăn màu xám buộc lên đầu.
Càng đi gió càng thổi mạnh tạo thành những cơn gió lốc cuốn cát tung bay lên trời như những con ốc khổng lồ!
Trời vừa đó còn sáng sủa, bỗng chốc trở nên u ám mịt mùng.
Đối với người đi trong sa mạc, bão cát là tai họa đáng sợ nhất làm người ta dễ mất phương hướng càng đi càng dấn sâu vào hoang mạc cho đến khi kiệt sức mà chết.
Trong trường hợp đó, những người có kinh nghiệm chỉ có thể chọn một trong hai cách đối phó.
Nếu cách nơi xuất phát là nơi dân cư hay nguồn nước không xa thì lập tức quay trở lại.
Cách thứ hai là phải dừng để tiết kiện sức lực chờ gió dịu mới tiếp tục hành trình.
Khấu Anh Kiệt chọn phương pháp thứ hai.
Trong sa mạc có rất nhiều gò cát lớn nhỏ, chàng xuống ngựa dắt đến sau một gò cát tránh gió.
Chính lúc ấy thì đôi mắt tinh tường của chàng phát hiện thấy một nhân ảnh thấp thoáng sau một gò cát cách đó chừng ba trượng đồng thời một vật gì xé gió bay thẳng vào mặt.
Khấu Anh Kiệt thất kinh vội nghiêng đầu tránh đi, lúc ấy mới nhận ra đó là một quả trùy!
Trong đầu chàng lóe lên ý nghĩ :
– Người kia bận hồng y, lại dùng chùy tấn công, đích thị là một trong hai tên sống sót trong số năm tên đạo tặc lúc sáng. Năm tên đã bị giết mát ba, còn hai tên vẫn chưa chịu cam tâm tìm mình báo thù, quả là phiền phức!
Người kia lại nhoài người lên cồn cát.
Lần này thì Khấu Anh Kiệt đã nhìn rõ đúng là tên hồng y đại hán có bộ mặt hung dữ đeo đôi Lưu Tinh chùy trong năm tên tấn công mình lúc sáng.
Lại thêm một quả chùy nữa ném tới, thế cực kỳ thần tốc và chuẩn xác buộc Khấu Anh Kiệt phải lăn đi một vòng mới tránh được.
Tên hồng y đại hán lại ném tiếp một quả chùy nữa, đứng thẳng người lên cười hắc hắc nói :
– Tiểu cẩu! Nộp mạng đi!
Khấu Anh Kiệt lại lăn đi một vòng nữa.
Thủ đoạn của tên hồng y đại hán chẳng phải tầm thường. Với đôi Lưu Tinh chùy trong tay vừa thu vừa phát, chỉ trong chớp mắt đã ném tới ba chùy, thế vô cùng hung hiểm.
Với khoảng cách ba trượng, hắn chọn cách đánh này phát huy sở trường của mình, làm vô hiệu hóa binh khí của đối phương, lại trong tình cảnh bão cát mịt mù trời đất thế này thì chỉ còn cách nằm chờ chết mà thôi!
Hơn nữa hắn đứng trên gò cao, tầm quan sát rất rộng, tiến có thể công, lùi có thể thủ như vậy hắn đã chiếm tận thượng phong.
Khấu Anh Kiệt cũng thừa hiểu điều này biết rằng nếu không có cách gì xoay chuyển tình thế thì sớm muộn cũng sẽ trúng trùy của đối phương.
Hơn nữa còn tên thủ lĩnh cưỡi con ngựa bạch cùng đi với hắn, tuy chưa thấy đâu nhưng chàng tin rằng hắn đang có mặt ở quanh đây thôi, một khi tên này tham chiến thì nguy cơ càng tăng gấp bội!
Chàng đang mãi nghỉ thì đôi Lưu Tinh chùy lại xé gió bay tới, nhằm hai bên tả hữu hợp công.
Khấu Anh Kiệt lại phải lăn đi mấy vòng mới tránh được, kinh hãi thầm nghĩ :
– Đôi Lưu Tinh chùy của tên này quả thật lợi hại, mỗi chiếc nặng chí ít phải hai chục cân chỉ cần trúng một chùy là mất mạng ngay! Thế mà hắn lại phát ra thần tốc như thế…
Tuy nhiên phàm vật gì có lợi về mặt này tất hại về mặt khác.
Sau khi tránh được bảy tám chùy, Khấu Anh Kiệt nhận ra rằng đôi chùy sắt tuy to lớn đáng sợ nhưng với khoảng cách ba trượng, muốn đả thương được chàng không phải dễ, chỉ càn tránh đi một lúc, đối phương sẽ hao tổn nhiều sức lực, lúc đó có thể tìm cơ hội phản công!
Đã có chủ định, chàng bình tĩnh dùng thân pháp né tránh từng quả chùy, chỉ thỉnh thoảng tên hồng y đại hán ném tới cả đôi chàng mới lăn đi vài vòng nhưng lập tức đứng lên ngay đồng thời chú ý đề phòng tên thứ hai bất ngờ công kích.
Tên hán tử thấy công hoài không trúng thì giận quát vang, đôi Lưu Tinh chùy bay tới càng lúc càng dồn dập, kình phong rít lên nghe mà kinh tâm động phách, cát bị cày xới liên tục bay rào rào.
Nhưng đấu pháp của Khấu Anh Kiệt tỏ ra có hiệu quả, tuy tên hán tử tấn công mãnh liệt hơn nhưng càng lâu chàng càng có kinh nghiệm việc né tránh đỡ tốn nhiều sức hơn.
Chỉ thấy nhân ảnh của chàng thấp thoáng giữa hai quả chùy, giống như hài tử đang nhảy dây vậy!
Sau hơn hai chục chùy, chừng như nội lực tổn thất không ít, đôi Lưu Tinh chùy công ra rời rạc dần.
Vốn đã có chủ định từ trước, Khấu Anh Kiệt cố giảm bớt khoảng cách.
Dần dần hai người chỉ còn cách nhau chưa tới hai trượng.
Lúc đó Khấu Anh Kiệt cũng đã phát hiện ra nhân vật thứ hai, chính là tên thủ lĩnh cưỡi ngựa bạch răng vẩu mũi khoằm mặc áo da gấu.
Hắn đứng sau một gò cát cách hai đối thủ chừng bốn trượng.
Có lẽ tên này đã nhận ra sai lầm của đồng bọn nên mới quyết định hiện thân hợp công.
Đã từng động thủ một lần, Khấu Anh Kiệt biết rằng bọn người này tất là hạng lục lâm thảo khấu chẳng cần tuân theo quy định giang hồ, chỉ cần đạt mục đích quản gì lấy đông hiếp ít?
Hơn nữa trong hoang mạc bao la chỉ việc giết người cướp đồ là được còn sợ gì ai biết?
Khấu Anh Kiệt quyết định ngay :
– Đây là cơ hội phản kích, chờ tới khi tên kia xuất thủ thì tình hình sẽ khó khăn hơn!
Chờ tên hồng y hán tử ném một chùy chàng không né tránh nữa mà bất thần chộp lấy ném ngược trở lại vào ngực hắn.
Từ phía sau vang lên tiếng kêu của tên thủ lĩnh :
– Cẩn thận!
Nhưng lời cảnh báo đó hình như đã chậm mất một chút, vì Khấu Anh Kiệt đã lao vút tới.
Tên hồng y hán tử không ngờ đối phương lại hành động như thế, vì xưa nay đã ai dám dùng tay không bắt chùy của hắn bao giờ?
Lúc này khoảng cách giữa song phương chưa tới hai trượng, khi nhận ra nguy cơ thì quả chùy đã ném tới trước ngực rồi!
Trong lúc bối rối, hắn vội ném quả chùy kia ra!
Choang!
Đôi Lưu Tinh chùy va vào nhau phát ra ánh lửa chói lòa và một tiếng nổ vang như sét.
Tên hán tử chưa kịp trấn tĩnh lại thì Khấu Anh Kiệt đã lướt tới gần, ánh đao lóe lên.
Tên hồng y hán tử liều mạng đưa đoạn dây xích buộc chùy lên đỡ, tay kia vung chưởng đánh vào mặt đối phương.
Cùng một lúc ấy một nhân ảnh từ phía sau lao tới Khấu Anh Kiệt, đôi Phán Quan bút trong tay một nhằm vào hậu tâm, một đâm tới vai tả.
Nhưng tất cả những cố gắng tuyệt vọng đó đều không cứu được tính mạng bi thảm của tên hồng y hán tử.
Sợi xích trong tay hắn không ngăn được thanh Như Ý đao phạt trúng ngay giữa yết hầu.
Tiếng rú kinh hồn của tên hán tử tắc nghẹn lại giữa chừng, từ cổ họng một vòi máu bắn lên cao năm sáu thước…
Hắn ngã ngay xuống trước mặt Khấu Anh Kiệt, mắt mở to trừng trừng nhìn kẻ thù dần dần trở nên trắng dã, tay vẫn còn giữ chặt sợ xích buộc một đầu đôi Lưu Tinh chùy.
Khấu Anh Kiệt quay lại thì vừa lúc tên thủ lĩnh lao tới, song bút chuyển thế đâm vào giữa ngực chàng.
Hai người lập tức triển khai một cuộc ác chiến.
Cả hai đều biết đây là cuộc đấu một mất một còn, chỉ có thể một người sống sót ra khỏi hoang mạc nên mỗi chiêu đấu đều vô cùng hung hiểm, tất yếu là không nhường nhịn một phân nào, tìm mọi cách để lấy mạng đối phương.
Đấu tới ba bốn mươi chiêu thì trời dần lặng gió, thay vào đó là kình lực từ hai đối thủ phát ra làm cát tung lên mịt mù như mọt cơn lốc lớn, đao quang bút ảnh rợp trời, tiếng binh khí đánh vào nhau nghe đinh tai nhức óc.
Giữa cuộc hỗn chiến, tên thủ lĩnh bị ngọn Như Ý đao cắm vào giữa ngực, nhưng hắn cũng kịp đâm trả lại một bút.
Còn may là bị một đao chí mạng nên đầu bút chỉ xuyên qua lớp áo da không xuyên sâu vào thịt.
Khấu Anh Kiệt thở phào một hơn rút thanh đao ra khỏi ngực đối phương.
Lúc này chàng mới thấy vừa mỏi mệt vừa chán ngán, đưa mắt nhìn hai tử thi máu từ cổ và ngực vẫn còn ộc ra, Gió đã dịu đi nhiều.
Ánh nắng chiều tà chiếu xuống hoang mạc thê lương, sau cuộc chiến khốc liệt này đã yên tĩnh lại.
Trên không vang lên tiếng kêu lảnh lói của những con ó đầu trọc lốc xúm lại mỗi lúc một đông.
Chúng phát hiện ra xác chết nhưng vì có người nên chưa dám sà xuống thấp, chỉ lượn lờ trên cao chòng chọc nhìn xuống.
Khấu Anh Kiệt đứng ngẩn ra một lúc rồi cúi xuống miết lưỡi đao vào cát cho sạch máu tra vào vỏ.
Chàng buông tiếng thờ dài vừa quay đi thì chợt thấy một người cưỡi lạc đà tiến đến.
Mới vừa nhìn qua, Khấu Anh Kiệt đã nhận ra ngay.
Đó là lão nhân mà chiều qua chàng đã thấy thoáng qua ngay trước khi bắt được con Hắc Thủy Tiên.
Lão vẫn bận bộ y phục màu vàng như cát, tay cầm chiếc tiêu dài vàng óng, giống như được làm từ ngà voi, dáng vẻ rất khoan thai.
Mấy hôm nay, tuy chỉ trông thấy một lần nhưng Khấu Anh Kiệt có cảm giác đi đâu cũng gặp con người bí ẩn đó, căn cứ vào tiếng tiêu thoang thoảng lúc xa lúc gần và dấu chân lạc đà còn mới.
Có một điều khó hiểu là suốt một đêm một ngày qua, Khấu Anh Kiệt cưỡi trên lưng Hắc Thủy Tiên đã vượt cả quãng đường ít nhất là năm sáu trăm dặm, làm sao lão nhân kia cưỡi lạc đà mà vẫn theo kịp?
Xem ra đây chẳng phải là cuộc gặp ngẫu nhiên!
Khấu Anh Kiệt nghĩ thầm :
– Chắc rằng lão đã trông thấy cuộc đấu vừa rồi! Chẳng lẽ lão ta có quan hẹ gì với hai tên này?
Tuy Khấu Anh Kiệt giết đối phương là hành động tự vệ nhưng trong ngày giết chết một lúc năm tên đồng bọn, chàng không khỏi áy náy trong lòng.
Vì thế khi thấy lão nhân đến, chàng dừng lại lúng túng bất an nhìn lão ta.
Đương nhiên không phải là do chàng sợ mà vì cảm thấy mình có lỗi.
Chàng đứng chờ lão nhân tới gần, từ lúng túng biến thành ngạc nhiên.
Trời vừa qua một trận bão cát làm trời hôn địa ám đi như vậy, thế mà y phục lão ta sạch bóng không vương một hạt cát nào kể cả đôi giày gấm và chiếc khăn tím chít trên đầu cũng vậy.
Trông lão nhân này rất quý phái, không phải dựa vào bộ y phục bằng vải lụa thượng phẩm, chiếc tiêu bằng ngà voi cũng như các thứ phục sức khác trên người mà từ bản thân lão toát ra phong thái cao quý đường bệ khiến người ta cảm thấy kính phục.
Nhưng một người quý phái thì tại sao tới nơi hoang mạc này làm gì, hơn nữa còn đơn độc một mình?
Khấu Anh Kiệt vốn định hỏi mấy vấn đề mà minh băn khoăn nhưng nghĩ lại, người trong giang hồ biết ít thêm chừng nào thì tránh được phiền phức chừng đó nên nhịn lại không hỏi nữa.
Nghĩ thế liền quay đi.
Nào ngờ mới được một bước, lão nhân đã trầm giọng quát :
– Đứng lại!
Nghe tiếng quát cộc lốc đó, Khấu Anh Kiệt không khỏi bực mình nhưng vẫn dừng lại quay người.