Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm

Chương 5



— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— ——

Suốt mấy ngày tiếp theo đó không có cuộc đi chơi nào. Chiều tối hôm lễ Giáng sinh, khi trên bầu trời hiện ra vì sao đầu tiên, trong lều của ông Rô-li-xơn hàng trăm ngọn nến bừng sáng trên cái cây dành cho Nen. Thực ra, cây thông được thay bằng một cây trắc bách diệp chặt ở trong một cái vườn tại En Mê-đi-nét, tuy nhiên, Nen vẫn tìm thấy giữa những cành cây vô khối kẹo bánh và một con búp bê tuyệt đẹp mà cha đã mua cho cô bé từ Cai-rô, còn Xtas thì được nhận khẩu súng săn của Anh mà em hằng khao khát. Em còn được cha trao cho đạn, nhiều thứ dụng cụ dùng cho thợ săn và yên ngựa. Nen không thể ngồi nóng chỗ vì sung sướng, còn Xtas, dù vẫn cho rằng, ai đã làm chủ một khẩu súng săn thật sự thì cũng phải có được sự đúng đắn tương ứng, song cũng vẫn không sao kìm giữ nổi – và chọn lúc quanh lều vắng vẻ, em liền trồng cây chuối và đi vòng quanh lều bằng hai tay. Nghệ thuật này em đã từng luyện tập rất kĩ ở trường học tại Port Xai-đơ; em làm thành thạo đến mức đáng kinh ngạc và nhiều lần đã khiến Nen thích thú, thậm chí cô bé còn ghen với Xtas một cách chân thành về chuyện đó nữa.

Đêm Lễ Giáng sinh và ngày đầu tiên của lễ trôi qua với bọn trẻ một phần trong lễ cầu kinh ở nhà thờ, một phần để ngắm nghía những thứ quà tặng mà chúng nhận được, và phần nữa dành để huấn luyện Xa-ba. Người bạn mới này tỏ ra sáng dạ không ngờ. Ngay trong ngày đầu tiên, nó đã học được cách đưa chân cho người ta bắt, mang khăn mùi soa lại cho chủ theo mệnh lệnh – tuy nó không dễ dàng trao trả những chiếc khăn ấy – và hiểu được rằng việc dùng lưỡi liếm mặt Nen là việc làm không xứng đáng với một con chó lịch sự. Với một ngón tay đặt lên cánh mũi, Nen giảng giải cho nó nhiều bài học khác nhau, còn nó vẫy đuôi để chứng tỏ rằng nó rất chăm chú lắng nghe và thâu nhận vào đáy lòng những bài học ấy. Trong những chuyến đi dạo trên quảng trường đầy cát của thành phố, tiếng tăm của Xa-ba tại Mê-đi-nét mỗi giờ một lớn lên, thậm chí, cũng như mọi thứ vinh quang khác, cái tiếng tăm này bắt đầu có mặt khó chịu của nó, bởi nó kéo theo hàng đàn lũ trẻ con Ả Rập. Ban đầu chúng còn đứng xa xa, nhưng sau đó, bạo dạn hơn vì sự hiền lành của con “quái vật”, chúng mỗi lúc một tiến lại gần, và cuối cùng ngồi vây chặt quanh lều đến nỗi không ai còn có thể cử động thoải mái được nữa.Thêm nữa, vì đứa trẻ Ả Rập nào cũng hít mía từ sáng tới đêm, nên bọn trẻ kéo theo hàng binh đoàn ruồi nhặng; bọn này không những chỉ gây khó chịu mà thậm chí còn nguy hiểm nữa, bởi chúng truyền bệnh đau mắt Ai Cập. Vì vậy, gia nhân buộc phải xua bọn trẻ con đi, nhưng Nen đứng ra bảo vệ chúng, và cô bé còn phân phát he-lou tức là kẹo bánh, cho bọn trẻ ít tuổi nhất, vì thế Nen rất được chúng yêu mến, và dĩ nhiên, cũng khiến cho số lượng đám trẻ con tăng lên khá nhiều.

Ba ngày sau bắt đầu những chuyến đi chơi chung, thường là một phần bằng tàu hoả chạy trên đường ray hẹp – những đường ray mà người Anh đã xây dựng khá nhiều ở Mê-đi-nét Em Phai-um – một phần bằng lừa, và đôi khi bằng lạc đà. Hoá ra, mặc dù trong những lời ca ngợi mà I-đrix dành cho những con vật này dẫu có nhiều phần khoác lác, bởi không những hạt đậu mà thậm chí ngay cả con người cũng chật vật lắm mới ngồi yên được trên lưng chúng, song vẫn có phần đúng. Số lạc đà này dĩ nhiên là thuộc loại lạc đà để cưỡi, và vì chúng được nuôi dưỡng khá đầy đủ bằng ngô địa phương hoặc ngô Xi-ri nên bướu của chúng rất nhiều mỡ và chúng chạ y rất hăng, đến mức cần phải ghìm bớt chúng lại. Hai gã người Xu-đan là I-đrix và Ghe-bơ-rơ đã lấy được lòng tin và tình cảm của mọi người (mặc dù mắt họ đôi khi loáng lên những ánh hoang dã), và điều đó chủ yếu là do sự tuân thủ hết mực cùng sự chăm lo rất tận tình dành cho Nen. Ghe-bơ-rơ lúc nào cũng có vẻ mặt tàn ác và hơi thú vật, song I-đrix thì nhanh chóng nhận ra rằng cô bé là nhân vật được yêu quý nhất trong cả đoàn, nên mỗi khi có dịp là y lại tìm cách chứng tỏ rằng y lo lắng cho cô chủ hơn lo cho chính “linh hồn” của mình. Dĩ nhiên ông Rô-li-xơn hiểu được rằng, thông qua Nen, I-đrix muốn lần đến túi tiền của ông, nhưng vốn cho rằng, trên đời này không có một ai có thể không yêu mến cô con gái một của ông, ông vẫn biết ơn y và không tiếc tiền.

Trong vòng năm ngày, họ đã đi tham quan những di tích của thành phố cổ đại Crô-cô-đi-lô-pô-lix nằm gần thành phố, nơi đó ngày xưa những người Ai Cập thờ một vị thần tên là Xê-bắc, thần có mình người nhưng đầu cá sấu. Chuyến du lịch tiếp đó là chuyến đi tới kim tự tháp Ha-na-rơ và thăm các di tích mê cung, song chuyến đi dài nhất và toàn bằng lạc đà là chuyến đi tới hồ Cai-rô-un. Bờ phía bắc của hồ là sa mạc mênh mông, trên đó, ngoài di tích của các thành phố thuộc Ai Cập cổ đại, không còn một dấu vết nào khác của sự sống. Ngược lại, về phía Nam là một miền đất phì nhiêu và tuyệt vời; ngay bên bờ hồ, mọc đầy thạch thảo và lau sậy, là hàng đàn bồ nông, hồng hạc, diệc, ngỗng trời và vịt trời. Tại đây, Xtas có dịp để biểu diễn tài thiện xạ của mình. Bằng khẩu súng săn thông thường bắn đạn chì không có rãnh khương tuyến cũng như bằng khẩu súng săn bắn đạn viên với nòng có rãnh xoắn, những phát đạn của em tuyệt vời đến nỗi sau mỗi tiếng nổ dường như đều nghe thấy tiếng tắc lưỡi kinh ngạc của I-đrix và những người Ả Rập chèo thuyền, và những con chim bị bắn rơi xuống nước bao giờ cũng đi kèm với tiếng kêu không đổi: Tuyệt! Tuyệt vời!

Những người dân Ả Rập đoán chắc rằng ở phía bờ “sa mạc” bên kia có rất nhiều chó sói và linh cẩu, và chỉ cần ném một xác cừu ra cồn cát là có thể chắc chắn săn được thú rồi. Do nghe theo những lời cam đoan ấy, ông Ta-rơ-cốp-xki và Xtas thức hai đêm liền ngoài sa mạc, gần các di tích của Đi-ne. Nhưng con cừu đầu tiên bị dân Bê-đu-in cuỗm mất, ngay sau khi những người thợ săn vừa quay gót, còn con cừu thứ hai chỉ dụ được mỗi một con lang núi thọt chân và liền bị Xtas hạ ngay. Những chuyến đi săn tiếp theo phải tạm thời hoãn lại, vì hai kĩ sư đã đến lúc phả i lên đường đi kiểm tra các công trình thuỷ lợi tiến hành ở sông Ba-hơ-rơ Du-xép,gần En La-hum, về phía Đông Nam Mê-đi-nét.

Ông Rô-li-xơn chỉ chờ cô O-li-vi-ơ đến. Chẳng may, thay vì cô gia sư là một lá thư của bác sĩ, trong đó báo tin rằng, những vết han đỏ trên mặt lại xuất hiện sau khi bị bọ cạp đốt, và trong một thời gian dài nữa, người bệnh không thể rời khỏi Port Xai-đơ được. Tình thế trở nên khá rắc rối. Mang theo cả bọn trẻ, bà Đi-na, lều trại cùng toàn bộ đám gia nhân là điều không thể thực hiện được, chí ít cũng vì lí do đơn giản là các kĩ sư phải nay đây mai đó, và thậm chí họ có thể được lệnh phải đi đến tận kênh đào lớn I-bra-him. Vì vậy, sau một cuộc bàn bạc ngắn, ông Rô-li-xơn quyết định để Nen ở lại dưới sự chăm sóc của bà Đi-na và Xtas, cùng với viên đại diện cho toà lãnh sự Italia và viên thống đốc của địa phương, mà trước đó ông đã làm quen. Ông cũng hứa với Nen – cô bé tiếc vì phải chia tay với cha – rằng cùng với ông Ta-rơ-cốp-xki, ông sẽ từ những địa điểm làm việc ở gần đấy ghé về Mê-đi-nét, hoặc nếu tìm thấy gì đáng tham quan, thì họ sẽ gọi bọn trẻ đến nơi ấy.

– Ba và bác sẽ mang theo Kha-mix, – ông nói, và nếu cần thiết thì sẽ cử anh ta trở lại đón các con. Bà Đi-na lúc nào cũng phải đi kèm Nen, nhưng vì với bà Nen có thể làm mọi chuyện theo ý mình, nên cháu, Xtas, cháu phải canh chừng cho cả hai nhé.

– Bác có thể tin chắc rằng, – Xtas đáp, – cháu sẽ trông nom em Nen như em gái của cháu. Em có Xa-ba, cháu có khẩu súng săn, thách kẻ nào dám đụng tới em.

– Không phải bác muốn nói chuyện đó. – Ông Rô-li-xơn nói. – Chắc chắn là các con sẽ không cần tới Xa-ba cũng như khẩu súng săn. Chỉ cần cháu làm ơn trông chừng cho em khỏi mệt nhọc quá, và cẩn thận chớ để cho em bị cảm lạnh. Bác đã yêu cầu ông lãnh sự, hễ khi nào em cảm thấy không được khoẻ lắm thì ông ta sẽ mời bác sĩ từ Cai-rô đến. Bác và ba cháu sẽ thường xuyên phái Kha-mix về đây để lấy tin tức. Ngài thống đốc của địa phương cũng sẽ tới thăm các con. Thêm nữa, bác đồ rằng, ba cháu và bác sẽ chẳng khi nào vắng mặt lâu lâu.

Ông Ta-rơ-cốp-xki cũng không tiếc lời căn dặn Xtas. Ông nói với em rằng Nen không cần tới sự bảo vệ của em, vì rằng ở Mê-đi-nét cũng như trong toàn tỉnh En Phai-um không có những người dã man, cũng không hề có thú dữ. Thật là một chuyện tức cười và không xứng đáng với một thiếu niên chẳng bao lâu sẽ hết tuổi mười bốn nếu nghĩ như thế. Chỉ cần em ân cần và thận trọng, chớ tự ý một mình, hoặc cùng với Nen tiến hành một chuyến du lịch nào, nhất là bằng lạc đà, vì việc cưỡi lạc đà bao giờ cũng khiến cho người ta mệt mỏi.

Nghe thấy thế, Nen làm ra vẻ buồn bã, khiến ông Ta-rơ-cốp-xki phải an ủi cô.

– Dĩ nhiên, – ông vừa nói vừa vuốt mái tóc cô bé – các con có thể cưỡi lạc đà, nhưng chỉ khi nào có mặt chúng ta, hoặc khi đến với chúng ta, nếu Kha-mix được phái đến đón các con.

– Thế chúng con không được phép du lịch, dù chỉ là những chuyến đi chút chút ngần này hay sao ạ? – Cô bé hỏi.

Và cô bé đưa ngón tay nhỏ bé chỉ mức độ bé nhỏ của những chuyến du lịch ấy. Cuối cùng hai ông bố đồng ý rằng, chúng có thể đi chơi bằng lừa, chứ không phải bằng lạc đà, và không được đến các di tích cổ, nơi chúng dễ dàng lọt xuống một cái hang hốc nào đó, mà chỉ được phép đi chơi trên đường cái tại những cánh đồng lân cận, và tới những khu vườn nằm ngoài thành phố mà thôi.

Người thông ngôn cùng với một nhân viên phục vụ của công ti Cúc sẽ có nhiệm vụ luôn luôn đi kèm bọn trẻ.

Sau đó, hai ông ra đi, nhưng chỉ đi gần thôi, đến Ha-ma-rét En Mac-ta, nên chỉ sau mười giờ đồng hồ họ lại quay trở về Mê-đi-nét nghỉ đêm. Chuyện đó lặp đi lặp lại trong vài ngày, cho tới khi họ kiểm tra hết công việc ở những địa điểm gần nhất. Sau đó, khi công việc ở xa hơn, nhưng vẫn chưa phải ở những địa phương quá xa, thì đêm đêm, Kha-mix quay trở về, và sáng sớm hôm sau đưa Xtas và Nen tới những thị trấn nhỏ, mà cha chúng muốn cho chúng tham quan một chốn nào đó thú vị. Phần lớn thì giờ ban ngày, bọn trẻ sống cùng với cha, gần tối, chúng quay trở về Mê-đi-nét, về lại khu lều trại. Cũng có những ngày Kha-mix không quay lại, và khi đó, mặc dù có Xtas và Xa-ba làm bạn – càng ngày cô bé càng phát hiện ra ở con vật những đứ c tính mới – song Nen vẫn cứ trông ngóng người liên lạc ấy đến. Cứ như thế, thời gian trôi đi đến lễ Ba Vua, khi cả hai kĩ sư quay về Mê-đi-nét nghỉ lễ.

Hai ngày sau họ lại ra đi, nói rằng lần này sẽ đi lâu hơn, và có lẽ sẽ tới tận Be-ni Xu-ép, từ đó tới En Pha-khen, nơi bắt đầu con kênh đào cùng tên rồi đi mãi về phía Nam dọc theo sông Nin.

Vì vậy, bọn trẻ con vô cùng ngạc nhiên, khi vào hôm thứ ba, quãng chừng mười một giờ trưa, chúng thấy Kha-mix xuất hiện tại Mê-đi-nét. Xtas là người đầu tiên gặp anh ta khi em đi tới bãi chăn nuôi ngắm lạc đà. Kha-mix đang nói chuyện với I-đrix và chỉ nói vắn tắt với Xtas rằng anh ta về để đón em và Nen, rằng anh ta sẽ tới ngay khu lều để báo rõ địa điểm mà các ông chủ bảo bọn trẻ phải đến. Cậu bé lập tức lao đi, mang tin vui về cho Nen, và gặp Nen đang đùa nghịch với Xa-ba trước lều.

– Em biết không? Kha-mix tới rồi! – Ngay từ xa cậu bé đã kêu lên.

Thế là Nen bắt đầu nhảy cẫng cả hai chân lên, như kiểu bọn con gái thường nhảy dây.

– Ta đi đi! Ta đi đi!

– Phải, chúng ta sẽ lên đường, và đi xa đấy.

– Đi đâu hả anh? – Cô bé hỏi, lấy hai tay gạt mớ tóc xoã vào mắt.

– Không biết. Kha-mix bảo rằng lát nữa sẽ tới báo.

– Sao anh biết là đi xa?

– Anh nghe I-đrix nói rằng, ông ta và Ghe-bơ-rơ sẽ cùng đoàn lạc đà lên đường ngay lập tức. Thế có nghĩa là chúng ta sẽ đi tàu lửa và sẽ gặp lạc đà tại nơi hai ba đón chú ng ta, rồi từ đó chắc chúng ta sẽ đi tham quan ở một nơi nào khác.

Cô bé nhảy liên tục, những sợi tóc xoà xuống không những che riêng mắt mà cả mặt cô bé, còn đôi chân thì nẩy bật trên mặt đất như bằng cao su vậy.

Mười lăm phút sau, Kha-mix tới, cúi chào hai trẻ:

– Thưa cậu chủ, – y nói với Xtas, – ba giờ nữa chúng ta sẽ đi chuyến tàu đầu tiên.

– Tới đâu?

– Tới En Ga-rắc Xun-ta-ni, rồi từ đó, cùng với các ông chủ đi lạc đà tới Va-đi Rai-an.

Trái tim Xtas rộn lên vì vui sướng, song đồng thời những lời của Kha-mix cũng khiến em ngạc nhiên. Em biết rằng, Va-đi Rai-an là một vành đai rộng lớn của các quả đồi cát nổi lên trên sa mạc Li-bi, về phía Nam và Tây Nam Mê-đi-nét, trong khi đó ông Ta-rơ-cốp-xki và ông Rô-li-xơn khi ra đi lại nói rằng họ đi theo hướng hoàn toàn ngược hẳn lại, tức là về phía sông Nin.

– Có chuyện gì xảy ra vậy? – Xtas hỏi. – Thế cha tôi và bác Rô-li-xơn không phải đang ở Be-ni Xu-ép mà lại ở En Ga-rắc ư?

– Sự tình lại diễn ra thế đấy ạ! – Kha-mix đáp.

– Thế sao cha tôi lại bảo viết thư cho Người thì gửi về En Pha-khen?

– Các ông chủ viết cả trong bức thư này lí do tại sao lại đang ở En Ga-rắc. Y tìm trong người bức thư một lúc, rồi kêu lên:

– Ôi, Đấng tiên tri! Tôi để quên bức thư trong cái túi ở chỗ những tay quản lạc đà rồi. Tôi phải đi ngay kẻo I-đrix và Ghe-bơ-rơ đi mất thì hỏng.

Và y chạy ngay tới chỗ những người chủ lạc đà, trong khi đó, bọn trẻ cùng với bà Đi-na chuẩn bị lên đường. Vì có lẽ sẽ là một chuyến đi chơi dài, nên bà Đi-na gói ghém vài chiếc áo dài, một ít đồ lót và mang một bộ quần áo ấm hơn cho Nen. Xtas cũng sửa soạn cho mình, em không quên mang theo khẩu súng và đạn dược, vì hi vọng rằng sẽ đụng độ với lũ chó sói và linh cẩu tại những gò cát Va-đi Rai-an.

Mãi một tiếng đồng hồ sau, Kha-mix mới quay lại, người đẫm mồ hôi, thở hổn hà hổn hển, đến nỗi một lúc lâu không nói được nên lời.

– Tôi không tìm thấy những người chủ lạc đà nữa, – y nói, – tôi chạy đuổi theo họ, nhưng chẳng được ích gì. Song cũng chẳng sao, đến En Ga-rắc chúng ta sẽ tìm được cả thư lẫn các ông chủ thôi mà. Liệu bà Đi-na có cần phải đi với chúng ta không ạ? Có thể tốt hơn là bà ấy ở lại nhà. Các ông chủ có nói gì tới bà ta đâu?

– Nhưng khi ra đi ông chủ bảo rằng lúc nào bà Đi-na cũng phải đi cùng với cô chủ, vậy thì bây giờ bà ấy cũng sẽ đi cùng.

Kha-mix khom người xuống, đặt tay lên trái tim và nói:

– Chúng ta phải mau lên, thưa ông chủ, nếu không tàu hoả sẽ chạy mất.

Đồ đạc sẵn sàng nên cả bọn tới ga vừa kịp giờ. Khoảng cách từ Mê-đi-nét tới Ga-rắc không vượt quá ba mươi cây số, nhưng tầu hoả trên con đường nhánh nối hai địa điểm đó chạy rất chậm và lại đỗ rất nhiều lần. Giá như có một mình, thì hẳn là Xtas đã chọn cách đi lạc đà chứ không đời nào chịu ngồi tàu, vì em tính rằng, I-đrix và Ghe-bơ-rơ, xuất phát trước tàu hoả hai tiếng đồng hồ, hẳn sẽ đến En Ga-rắc trước chúng. Song, đối với Nen, con đường đó quá dài, nên anh chàng đỡ đầu trẻ tuổi, người đã ghi tâm khắc cốt những lời căn dặn của hai ông bố, không muốn làm cô bé bị mệt.

Và nói cho cùng, thời gian trôi qua đối với hai đứa cũng nhanh đến nỗi, ngoảnh đi ngoảnh lại, chúng đã tới Ga-rắc rồi.

Cái ga xép, mà những người Anh thường dùng làm nơi xuất phát đi thăm Va-đi Rai-an, vắng tanh vắng ngắt. Bọn trẻ chỉ gặp có vài người đàn bà mang những giỏ quýt, hai người đàn ông Bê-đu-in,những chủ lạc đà không quen biết, cùng I-đrix và Ghe-bơ-rơ với bảy con lạc đà, trong đó một con thồ nặng hàng. Còn chẳng thấy bóng dáng ông Ta-rơ-cốp-xki và ông Rô-li-xơn đâu cả.

Nhưng I-đrix giải thích sự vắng mặt của họ như sau:

– Hai ông chủ đi vào sa mạc để dựng lều mà người ta đã chở từ Et-xa tới, các ông chủ ra lệnh bảo chúng ta đi sau.

– Làm sao ta có thể tìm được họ trong vùng đồi núi này? – Xtas hỏi.

– Các ông chủ đã phái tới đây những người dẫn đường để đưa chúng ta đi.

Vừa nói thế hắn vừa trỏ hai người Bê-đu-in. Người già hơn trong hai người đó cúi chào, đưa tay lau con mắt độc nhỡn, và nói:

– Lạc đà của chúng tôi không béo bằng lạc đà của các ông, nhưng chạy chẳng kém đâu. Chỉ một giờ đồng hồ là chúng ta tới nơi thôi.

Xtas rất vui thích vì sẽ được ngủ đêm giữa sa mạc, nhưng Nen cảm thấy hơi thất vọng, vì trước đó cô bé cứ đinh ninh rằng sẽ được gặp cha ở Ga-rắc.

Lúc đó, viên trưởng ga, một người Ai Cập ngái ngủ, đội mũ phê-đơ màu đỏ và mang kính đen, tiến lại gần, và vì chẳng có việc gì làm, ông ta bắt đầu ngắm nghía bọn trẻ người Âu.

– Đây là con của các người Anh mà sáng hôm nay đã mang súng săn đi trước vào sa mạc. – I-đrix vừa nói vừa đặt Nen lên yên.

Đưa khẩu súng cho Kha-mix cầm, Xtas leo lên ngồi bên Nen, vì cái yên rộng rãi, có dáng một cái bành, có điều là không có mái che. Bà Đi-na ngồi sau lưng Kha-mix, những người khác cũng leo lên lạc đà và tất cả lên đường.

Giá như viên trưởng ga dõi theo họ lâu hơn một chút, hắn là ông ta sẽ thấy ngạc nhiên, vì những người Anh mà I-đrix vừa nói tới đã đi thẳng về phía di tích cổ, tức là về phía Nam, còn họ lại hướng về phía Ta-le-a, nghĩa là về phía ngược lại. Song trước đó, viên trưởng ga đã quay về nhà rồi, vì hôm đó không còn đoàn tàu nào tới Ga-rắc nữa.

Đã năm giờ chiều. Thời tiết thật là tuyệt diệu. Mặt trời đã ngả sang bên kia sông Nin và xuống thấp trên sa mạc, chìm vào trong những ráng chiều màu vàng và đỏ rực đang cháy lên ở phía trời Tây. Không khí dường như chứa chan những ánh hồng, khiến mắt người phải nheo lại vì ánh sáng quá thừa thãi. Đồng ruộng nhuốm màu tim tím, còn những rặng núi xa xa, nổi bật trên nền ráng chiều, lại có màu thạch anh tím ngắt. Thế giới mất đi những đường nét thực và dường như chỉ còn là một trò đùa của những ánh sáng từ thiên giới mà thôi.

Khi họ còn đi qua những vùng đồng ruộng xanh tươi có trồng cây thì những người Bê-đu-in dẫn đường cho đoàn lạc đà đi những bước khoan thai, nhưng ngay khi dưới gót chân lạc đà bắt đầu rin rít tiếng cát cứng thì mọi thứ đều thay đổi ngay lập tức.

– Yalla! Yalla!1 – Những tiếng kêu man rợ bỗng rú lên. Đồng thời nghe thấy tiếng rít của những chiếc roi vụt xuống, và đàn lạc đà, chuyển từ nước kiệu sang nước đại, bắt đầu lao đi như một cơn lốc, vó chúng làm bắn tung cát và sỏi sa mạc.

– Yalla! Yalla!

Nước kiệu của lạc đà xóc hơn, còn nước đại bước chạy mà chúng ít khi dùng – lại lắc lư nhiều hơn, nên ban đầu lũ trẻ thích chí với cuộc chạy điên cuồng này. Nhưng sự tròng trành quá nhanh, ngay cả khi chơi đu, cũng dễ khiến cho người ta chóng mặt.

Vì vậy, một lát sau, khi nhịp chạy không hề giảm bớt đi, cô bé Nen bắt đầu thấy quay cuồng trong đầu và hoa mắt.

– Anh Xtas này, tại sao ta lại phóng ác thế anh?

– Cô bé vừa kêu lên vừa quay lại phía người bạn của mình.

– Anh nghĩ rằng bọn họ đã thúc lũ lạc đà chạy quá nhanh, bây giờ không thể hãm bớt chúng lại được. – Xtas đáp.

Song nhận thấy rằng, giờ đây, nét mặt của cô bé hơi tái đi, Xtas bắt đầu gọi những người Bê-đu-in đang phóng như bay phía trước để bảo họ chậm bớt lại. Song tiếng gọi của em chỉ mang lại mỗi một kết quả duy nhất la khiến cho tiếng kêu: Yalla lại vang lên, và đàn súc vật càng tăng thêm tốc độ.

Lúc đầu, cậu bé ngỡ rằng những người Bê-đu-in không nghe thấy tiếng gọi của em, song khi tiếng gọi lần sau cũng không được một lời đáp lại, còn gã Ghe-bơ-rơ phía sau em vẫn không ngừng quất roi vào con lạc đà mà em và Nen đang cưỡi, thì em lại nghĩ rằng, có lẽ không phải do lạc đà hăng máu, mà rõ ràng là do bọn người này đang rất vội vã, vì một nguyên do nào đó không rõ.

Em thoáng nghĩ rằng, có thể do họ đi lạc đường, bây giờ họ muốn rút bớt thời gian đã mất nên họ mới phóng nhanh như thế, vì sợ rằng các ông chủ sẽ quở phạt họ về quá muộn. Song chỉ lát sau em hiểu rằng, điều đó không đúng, bởi lẽ, hẳn là ông Rô-li-xơn sẽ giận hơn nhiều nếu bọn họ làm Nen bị mệt. Vậy thì chuyện này là nghĩa lí gì? Tại sao họ không tuân theo lệnh của em. Trái tim cậu bé bắt đầu nổi lên cơn giận và nỗi lo lắng cho Nen.

– Dừng lại! – Em lấy hết sức thét lên, quay người lại phía Ghe-bơ-rơ.

– Ouxkout (câm mồm)! – Tên Xu-đan quát lên đáp lại. Và chúng tiếp tục phóng đi.

Ở Ai Cập, đêm buông xuống vào khoảng sáu giờ, ráng chiều tắt dần, rồi lát sau trên bầu trời hiện lên vầng trăng to tướng, đỏ bầm vì nhuốm sắc ráng chiều, trải xuống sa mạc làn ánh sáng dìu dịu.

Trong tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng thở hồng hộc của lũ lạc đà, tiếng móng chân chúng nện gấp gáp và câm lặng xuống mặt cát, thỉnh thoảng tiếng roi vút. Nen mệt đến nỗi Xtas phải giữ em trên yên. Cứ chốc chốc cô bé lại hỏi đã sắp tới chưa, rõ ràng, em chỉ ước mong làm sao chóng được gặp cha. Nhưng chúng chỉ hoài công dõi nhìn bốn chung quanh. Một giờ trôi qua, rồi giờ nữa, không hề thấy bóng lều trại và đống lửa nào cả.

Lúc ấy, Xtas bất chợt “dựng đứng” tóc trên đầu; em hiểu ra rằng bọn em đã bị bắt cóc.

— —— —— —-

1 Yalla – tiếng kêu thúc giục lạc đà của người Ả Rập.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.