— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —— —
Đó là đoạn dài nhất, vì chúng đi suốt mười tám giờ liền, chỉ dừng lại nghỉ một lần ngắn. Chỉ có những con lạc đà để cưỡi thực tốt, có đủ nước dự trữ trong dạ dày, mới có thể vượt được quãng đường như vậy. I-đrix không tiếc sức lạc đà, vì quả thực hắn lo sợ những người săn đuổi. Hắn hiểu rõ rằng, cuộc săn đuổi hẳn xuất phát từ lâu, và đồ rằng cả hai kĩ sư dẫn đầu cuộc săn đuổi này sẽ không để phí thời gian. Mối nguy hiểm đe dọa sẽ từ phía sông lại, bởi chắc chắn là ngay sau khi bọn trẻ bị bắt cóc, các mệnh lệnh được chuyển ngay bằng điện tín tới tất cả các điểm dân cư bên bờ sông, ra lệnh cho các vị tù trưởng phái những toán quân tiến sâu vào sa mạc dọc theo hai bờ sông Nin, giữ lại tất cả những kẻ đi về phía Nam. Kha-mix còn nói chắc chắn rằng chính phủ cũng như hai kĩ sư sẽ đưa ra những giải thưởng rất lớn cho những ai bắt được chúng, do vậy, hẳn là sa mạc hiện đang nhung nhúc bọn săn tìm. Chỉ còn một cách đối phó duy nhất là rẽ sâu hơn nữa về phía Tây, song về phía Tây lại là ốc đảo lớn Khác-ghê và nơi đó hẳn cũng đã nhận được các bức điện, hơn nữa, nếu chúng tách quá xa dòng sông, thì chỉ trong vòng vài ngày chúng sẽ thiếu nước uống, và cái chết khát sẽ chờ đợi chúng.
Còn chuyện lương thực nữa. Trước khi bắt cóc bọn trẻ hai tuần, những người Bê-đu-in đã chuẩn bị một số lương khô, ngô và chà là, giấu trong những chỗ giấu chỉ riêng chúng biết, song những chỗ đó cũng chỉ nằm trong phạm vi cách Mê-đi-nét bốn ngày đường mà thôi. I-đrix hãi hùng khi nghĩ tới chuyện phải cử người vào các làng ven sông mua lương thực khi thiếu ăn, khi ấy, bọn này, trước sự cảnh giác đã được khơi gợi cùng những giải thưởng mà người ta hứa hẹn trả cho ai bắt được bọn chúng, sẽ dễ dàng rơi vào tay các tù trưởng địa phương, rồi chúng sẽ khai ra cả đoàn. Tình thế quả là khó khăn, gần như tuyệt vọng, và càng ngày I-đrix lại càng thấy rõ hơn rằng hắn đã làm một công chuyện thật điên rồ.
“Chỉ cần vượt qua At-xu-an thôi! Chỉ cần vượt được At-xu-an!” – hắn sợ hãi và tuyệt vọng tự nhủ trong lòng. Hắn không tin Kha-mix khi tên này khăng khăng bảo rằng quân của Ma-hơ-đi đã tràn đến tận At-xu-an, vì Xtas bác bỏ chuyện đó, mà đã từ lâu I-đrix hiểu được rằng, thằng bé da trắng này hiểu biết nhiều hơn tất cả bọn chúng. Nhưng hắn cho rằng, bên kia cái thác đầu tiên, nơi dân chúng sống hoang dã hơn, ít chịu ảnh hưởng của người Anh và Chính phủ Ai Cập hơn, hắn sẽ tìm thấy nhiều người theo Đấng tiên tri hơn, những người này khi cần sẽ giúp đỡ chúng, cung cấp lương thực và lạc đà cho chúng. Song theo tính toán của bọn Bê-đu-in, từ đây đến At-xu-an hãy còn năm ngày đường nữa, mỗi lúc một nhiều tính chất sa mạc hơn, mà các thứ dự trữ dùng cho người và vật thì giảm đi trông thấy.
May thay, chúng có thể thúc lạc đà phi với tốc độ nhanh nhất, vì cái nóng chưa khiến cho sức lực lạc đà bị cạn đi. Ban ngày, vào những giờ trưa, mặt trời thiêu đốt quả là gay gắt, nhưng không khí vẫn rất dễ chịu, còn ban đêm lạnh đến nỗi Xtas phải ngồi sang cùng lạc đà với Nen – sau khi được sự đồng ý của I-đrix – để chăm sóc sức khoẻ cho cô bé và canh chừng cho Nen khỏi bị nhiễm lạnh.
Song những điều lo lắng của em hơi thừa, vì bà Đi-na – sau khi tình trạng đôi mắt, hay nói đúng hơn, con mắt đã khá – chăm sóc cô chủ rất ân cần. Cậu ngạc nhiên về chuyện cho tới nay sức khoẻ của cô bé không có gì trục trặc đáng kể, và bản thân cô bé chịu đựng đoạn đường càng ngày càng ít được nghỉ ngơi hơn này cũng tốt như chính Xtas vậy. Nỗi phiền muộn, sợ hãi và những giọt lệ mà cô bé đã đổ ra vì nhớ cha, không ảnh hưởng đáng kể tới cô. Có thể cô bé gầy đi chút ít, khuôn mặt trắng trẻo rám lên vì gió nắng, nhưng trong những ngày đi đường về sau này, cô bé cảm thấy ít mệt mỏi hơn nhiều so với lúc đầu. Quả tình, I-đrix đã cấp cho cô bé con lạc đà ít xóc nhất và đã làm cho cô cái chỗ ngồi thật tuyệt diệu, trong đó Nen có thể nằm ngủ, song chủ yếu là không khí trong lành của sa mạc, mà ngày đêm cô bé được thở hít, đã cấp thêm sức lực cho cô chịu đựng những vất vả nhọc nhằn.
Xtas không những chỉ coi sóc Nen một cách đơn thuần mà còn cố ý chăm sóc cô bé một cách thành kính, mặc dù rất gắn bó với cô em gái bé nhỏ, em hoàn toàn không cảm thấy mình đã có tình cảm ấy.Tuy nhiên, em nhận thấy là bọn Ả Rập cũng chịu ảnh hưởng của sự thành kính này, và bọn này vô tình tin chắc rằng, chúng đang chở đi một con tin vô cùng quý giá, mà chúng phải đối xử hết sức thận trọng. I-đrix đã quen với điều đó ngay từ hồi còn ở Mê-đi-nét, vậy nên tất cả bọn chúng đều đối xử tốt với cô. Chúng không hề tiếc nước hay chà là đối với Nen. Cả tên Ghe-bơ-rơ tàn bạo bây giờ cũng không dám động tới cô bé nữa. Một nguyên nhân nữa của chuyện đó cũng có thể là do vẻ xinh xắn khác vời của Nen; ở cô bé có một thứ gì đó của hoa và của chim, vẻ đẹp ấy thì ngay cả những tâm hồn hoang dã và kém phát triển của bọn người Ả Rập này cũng không chống lại nổi. Nhiều lần, tại các chỗ nghỉ chân, khi cô bé đứng bên đống lửa được nhóm bằng cây hồng sa mạc, hoặc những cành gai – hồng hào trong ánh lửa và toả ánh bạc bởi vầng trăng thì cả bọn Xu-đan lẫn bọn Bê-đu-in đều không thể rời mắt khỏi cô bé, và vừa tắc lưỡi tán phục theo phong tục của chúng, vừa lầm rầm thốt lên: Lạy đức A-la! Tuyệt vời! Tuyệt vời!
Vào trưa ngày thứ hai sau đợt đi kéo dài ấy, Xtas và Nen (khi ấy đang cùng cưỡi một con lạc đà)bị xúc động một cách vui sướng. Ngay sau lúc mặt trời mọc, trên sa mạc dâng lên một làn sương mờ sáng và trong suốt, sau đó làn sương tan đi. Rồi khi mặt trời lên cao hơn nữa, thì cái nóng càng ghê gớm hơn những hôm trước. Những lúc lạc đà dừng chân, không cảm thấy có một chút hơi gió nào, dường như cả không khí lẫn mặt cát đang ngủ say trong sự ấm áp, trong ánh sáng và sự tĩnh mịch. Đoàn người và vật đang đi trên một vùng đồng bằng đơn điệu không bị những khe núi cạn chia cắt, bỗng trước mắt bọn trẻ hiện ra một phong cảnh kì thú. Những khóm cọ thanh tao cùng những cây hồ tiêu, những cánh đồng quýt, những ngôi nhà màu trắng, một thánh đường nhỏ với cái tháp cao vút, còn phía dưới là những bức tường thành bao quanh các khu vườn cây, tất cả những thứ đó hiện ra rõ nét và gần gũi đến nỗi có thể nghĩ rằng, chỉ cần nửa tiếng đồng hồ nữa thôi là cả đoàn sẽ lọt vào vườn cây của ốc đảo.
– Cái gì thế này? – Xtas kêu lên. – Nen! Nen! Nhìn kìa!
Nen nhỏm dậy và lặng đi vì kinh ngạc, song chỉ giây lát sau cô bé bắt đầu kêu lên sung sướng:
– Mê-đi-nét! Về với ba! Về với ba! Xtas xúc động tái người đi.
– Quả thật… Đây có thể là Khác-ghê… Nhưng không! Có lẽ là Mê-đi-nét thật… Anh nhận ra cái tháp và thấy cả những chiếc chong chóng gió trên giếng nước kia.
Quả thật, ở phía xa xa, nổi rõ những chiếc cánh quạt gió được đặt trên tháp cao của những chiếc giếng nước kiểu Mỹ, trông giống như những ngôi sao màu trắng. Trên nền cây cối xanh tươi, trông chúng rõ ràng đến nỗi cặp mắt tinh tường của Xtas có thể phân biệt được cả mép cánh sơn màu đỏ.
– Mê-đi-nét thật rồi…
Qua sách vở cũng như qua các câu chuyện được nghe, Xtas hiểu rõ rằng trên sa mạc thường có ảo ảnh, và nhiều lúc khách bộ hành trông thấy các ốc đảo, các thành phố, những rặng cây và những cái hồ, song đó chẳng qua chỉ là ảo giác, là những trò đùa của ánh sáng, và là hình phản chiếu của các vật thực ở cách đấy rất xa. Nhưng lần này, hiện tượng rõ ràng đến mức gần như sờ mó được đã khiến cậu bé không thể nghi ngờ, mà nghĩ rằng quả thực đó là Mê-đi-nét. Kia là cái tháp trên toà nhà của viên thống đốc, kia là cái hành lang hình tròn nằm ngay dưới đỉnh tháp, từ đó viên miedin(1) gọi giáo dân đi cầu nguyện, kia chính là khóm cây quen thuộc – và nhất là những chiếc chong chóng gió ấy! Không – đây phải là thực! Cậu bé thoáng nghĩ rằng có thể bọn Xu-đan, sau khi cân nhắc tình thế, đã hiểu ra rằng chúng không thể thoát được, và không nói gì trước với cậu, chúng quay trở về Phai-um. Song chính sự thản nhiên của chúng đã khiến cho cậu nảy ra những mối nghi ngờ đầu tiên. Nếu đây quả thực là Phai-um thì sao bọn chúng lại nhìn một cách dửng dưng đến thế? Rõ ràng là bọn chúng trông thấy, chúng đưa tay chỉ trỏ cho nhau, nhưng trên nét mặt chúng không hề thấy có một biểu hiện nào của sự xúc động hay do dự.
Xtas trông lại một lần nữa, và có thể chính sự dửng dưng của bọn Ả Rập đã khiến em nhận thấy bức tranh trước mặt nhợt nhạt đi.
Em cũng nghĩ rằng, nếu như đoàn người quay lại thật thì hẳn chúng đã phải co cụm lại, phải tụ tập lại với nhau, ít nhất cũng vì sợ hãi chứ. Trong khi đó, bọn Bê-đu-in, mà theo lệnh của I-đrix suốt mấy ngày nay bao giờ cũng đi tiền trạm, vẫn chẳng thấy bóng dáng đâu, còn Kha-mix đi cảnh giới phía sau thì trông xa đến nỗi chỉ nhỏ bằng một con diều hâu bay gần mặt đất.
“Ảo ảnh” – Xtas tự nhủ.
Trong lúc đó, I-đrix tiến lại gần nó và gọi to:
– Này, thúc lạc đà đi nhanh lên! Mày có nhìn thấy Mê-đi-nét không?
Rõ ràng là hắn nói đùa, trong giọng nói của hắn chứa chất bao ý chọc tức, khiến cho trong lòng cậu bé tắt hẳn tia hi vọng cuối cùng vào chuyện mình đang ở trước thành Mê-đi-nét thật.
Và ấm ức trong lòng, em quay sang Nen để xua tan ảo tưởng cho cô bé, thì vừa lúc, xảy ra một sự kiện khiến cho tất cả mọi người tập trung sự chú ý về phía khác.
Trước mặt xuất hiện một tên Bê-đu-in đang phóng lạc đà cật lực quay trở lại, ngay từ xa đã vung vẩy một khẩu súng hoả mai Ả Rập dài ngoẵng mà trước đó trong đoàn không ai có. Tới chỗ I-đrix, hắn trao đổi vội vã vài tiếng, ngay lập tức, cả đoàn quành sâu thêm vào sa mạc. Một lúc sau lại xuất hiện tên Bê-đu-in thứ hai, dắt theo sau một con lạc đà cái béo mập buộc bằng sợi dây thừng, trên bướu có lắp yên, những túi da treo lủng lẳng hai bên hông.
Lại một cuộc nói chuyện ngắn ngủi nữa mà Xtas không thể nghe được tiếng nào. Đoàn người vội vã lao về hướng Tây và chỉ dừng lại khi đến được một cái khe cạn thật hẹp, đầy những tảng đá nằm hỗn độn, các khe nứt và hang động. Một trong số các hang đó lớn đến nỗi bọn Xu-đan có thể cho cả người và lạc đà ẩn kín trong đó.
Mặc dù cũng đoán được ít nhiều về chuyện vừa xảy ra, nhưng Xtas vẫn nằm xuống cạnh I-đrix và giả vờ ngủ, với hi vọng là bọn Ả Rập – mà cho tới lúc này mới chỉ trao đổi với nhau vài tiếng cụt lủn về sự kiện vừa rồi – chắc giờ đây sẽ bắt đầu nói chuyện kĩ hơn.
Quả thật, niềm hi vọng ấy không đánh lừa em, vì ngay sau khi rải thứ c ăn cho lạc đà, bọn Bê-đu-in và Xu-đan cùng với Kha-mix ngồi tụ tập lại với nhau.
– Từ nay ta chỉ có thể đi ban đêm thôi, còn ban ngày chúng ta sẽ phải ẩn náu – tên Bê-đu-in chợt lên tiếng. – Bây giờ các khe cạn sẽ có rất nhiều, trong mỗi một khe đều có thể tìm thấy nơi ẩn nấp an toàn.
– Chúng mày có chắc nó là lính canh không? I-đrix hỏi.
– Ôi A-la! Chúng tôi đã nói chuyện với hắn mà. May là hắn có mỗi một mình. Hắn đứng khuất sau tảng đá, chúng tôi không trông thấy, nhưng từ đằng xa chúng tôi đã nghe thấy tiếng lạc đà kêu. Chúng tôi bèn giảm tốc độ và lặng lẽ tiến đến gần, nên hắn trông thấy chúng tôi khi chúng tôi chỉ còn cách hắn vài ba bước chân. Hắn hoảng quá liền nhắm súng vào chúng tôi. Giá hắn bắn, thì dù cho chẳng có ai trong hai đứa tôi bị giết chết đi chăng nữa, nhưng bọn lính canh khác cũng có thể nghe thấy tiếng súng, vì vậy tôi vội vàng bảo hắn: “Dừng lại! Chúng tôi đang đuổi theo bọn người đã bắt cóc hai đứa bé da trắng, cả đoàn sẽ tới đây ngay bây giờ”. Thằng nhóc hãy còn trẻ và ngốc nghếch bèn tin lời, chỉ yêu cầu chúng tôi phải thề trên kinh Cô-ran là đúng như vậy. Chúng tôi bèn xuống lạc đà và thề…Đức Ma-hơ-đi sẽ giải tội cho chúng tôi…
– Và Người sẽ ban phước! – I-đrix nói. – Hãy kể tiếp xem sau đó chúng mày làm gì.
– Thế rồi, – tên Bê-đu-in tiếp tục, – sau khi thề xong tôi mới bảo thằng bé: “Nhưng ai bảo đảm cho chúng ta là anh không thuộc về bọn cướp đang chạy trốn với bọn trẻ con, biết đâu bọn chúng chẳng để anh lại đây để níu chân những người đuổi theo lại? Và tôi ra lệnh cho hắn cũng phải thề, hắn đồng ý và càng tin chúng tôi hơn.
Chúng tôi bắt đầu hỏi hắn xem có thêm lệnh gì mới theo đường dây đồng từ các tù trưởng hay không, và cuộc truy đuổi trên sa mạc đã tiến hành chưa. Hắn bảo rằng đúng thế, người ta hứa sẽ thưởng thật nhiều. Tất cả các khe cạn cách sông hai ngày đường đều được canh gác, trên sông các tầ u thuỷ chở người Anh và quân đội đi lại không ngớt…
– Cả tầu thuỷ lẫn quân đội đều không thể chống lại sức mạnh của Đức A-la và Đấng tiên tri…
– Cầu cho mọi việc xảy ra đúng như ông nói.
– Mày hãy nói xem chúng mày khử thằng ấy như thế nào? Tên Bê-đu-in chột bèn chỉ vào bạn hắn.
– A-bu An-ga – hắn nói, – còn hỏi hắn xem ở gần đây có người nào canh gác nữa không, và khi hắn trả lời rằng không, anh ấy bèn thọc cho hắn một nhát dao vào dưới cổ, bất ngờ đến nỗi hắn không kêu được một tiếng nào. Chúng tôi quẳng hắn xuống một khe sâu, lấy đá và gai góc phủ lên trên. Ở làng người ta sẽ nghĩ rằng hắn bỏ trốn theo đức Ma-hơ-đi, vì hắn kể với chúng tôi là chuyện ấy xảy ra luôn.
– Cầu Thượng đế ban phước lành cho những ai bỏ trốn cũng như đã ban phước cho chúng mày vậy!
– I-đrix đáp.
– Chính thế. Người đã ban phước lành. – A-bu An-ga đáp. – Bởi thế giờ đây, chúng ta đã biết được rằng cần phải đi cách xa sông ba ngày đường; ngoài ra chúng ta còn kiếm thêm được khẩu súng mà chúng ta đang thiếu cùng với một con lạc đà nữa.
– Các bình hãy còn đầy nước, – tên chột nói, – còn trong bao đầy kê, chỉ có thuốc súng là chúng tôi tìm được quá ít.
– Kha-mix có mang theo vài trăm viên đạn cho khẩu súng của thằng bé da trắng, khẩu súng mà chúng ta không biết bắn. Nhưng thuốc súng thì bao giờ cũng giống nhau và có thể dùng được cho súng của ta.
Tuy nói thế, nhưng I-đrix lại suy nghĩ, và một sự lo lắng nặng nề hiện trên nét mặt đen sẫm của hắn, vì hắn hiểu rằng, khi một xác người đã nằm xuống sau lưng bọn hắn, thì giờ đây nếu bọn hắn rơi vào tay chính phủ Ai Cập, cả sự bảo đảm của Xtas cũng không còn đủ để bảo vệ chúng thoát khỏi toà án và hình phạt nữa.
Tim đập dồn dập, Xtas lắng nghe rất chăm chú. Trong câu chuyện này, em thấy có những điều an ủi, đó là việc cuộc truy đuổi đã được tổ chức, giải thưởng đã được hứa hẹn, và tù trưởng của các bộ lạc dọc sông đã nhận được lệnh phải giữ lại các đoàn người đi về phía Nam. Cả cái tin về những chiếc tàu thuỷ chở đầy quân đội Anh chạy ngược sông cũng khiến em vui mừng. Các tín đồ của Ma-hơ-đi có thể đánh nhau với quân đội Ai Cập, thậm chí có thể thắng quân đội này, nhưng với người Anh thì lại là chuyện khác, và Xtas không lúc nào nghi ngờ rằng, trận đánh đầu tiên sẽ kết thúc bằng việc tiêu diệt tan tành những đám người hoang dã ấy.
Vì vậy, với niềm cổ vũ trong lòng, em tự nhủ: “Dù cho bọn chúng có mang được chúng ta tới chỗ Ma-hơ-đi chăng nữa, thì rất có thể trước khi chúng kịp mang đến nơi, đã không còn tồn tại cả bản thân Ma-hơ-đi lẫn bọn tín đồ của y”. Song niềm cổ vũ này bị sững lại bởi ý nghĩ rằng, nếu vậy, còn hàng tuần lễ đi đường đang chờ đợi các em, mà chuyện đó thế nào rồi cũng sẽ khiến Nen kiệt sức, bởi trong suốt thời gian đó, các em sẽ phải đi cùng với những kẻ khốn nạn, những tên sát nhân này.Nghĩ đến người Ả Rập trẻ tuổi bị tên Bê-đu-in giết hại như giết một con cừu, Xtas thấy vừa tiếc thương vừa sợ hãi. Cậu bé định sẽ không nói cho Nen biết chuyện đó để khỏi làm cô kinh sợ và buồn thêm, nỗi buồn bắt đầu từ khi ảo ảnh về ốc đảo Phai-um và thành phố Mê-đi-nét biến mất. Trước khi đến khe núi, cậu bé thấy rõ nước mắt đã ứa đầy trong mắt cô bé, vì vậy, sau khi đã nghe được hết những điều muốn biết qua câu chuyện của bọn Bê-đu-in, cậu giả vờ tỉnh giấc và bỏ đi đến với Nen.
Nen đang ngồi một góc bên cạnh bà Đi-na và vừa thút thít khóc vừa ăn chà là. Nhìn thấy Xtas, cô bé chợt nhớ lại rằng, cách đây chưa lâu Xtas đã thừa nhận rằng hành động của cô xứng đáng với người ít nhất đã mười ba tuổi, nên không muốn tỏ ra mình còn bé bỏng, cô cố lấy hết sức cắn chặt hạt chà là để ngăn cơn thổn thức.
– Nen! – Cậu nói. – Mê-đi-nét vừa rồi chỉ là ảo ảnh, nhưng anh vừa biết chắc rằng mọi người đang đuổi theo chúng ta, em đừng lo và đừng khóc làm gì.
Nghe thấy thế, cô bé ngước đôi đồng tử đẫm lệ lên nhìn Xtas và trả lời bằng giọng đứt đoạn:
– Không, anh Xtas à… em không khóc đâu.. có điều mắt em nó… ra mồ hôi đấy thôi…
Nhưng chính lúc ấy cằm cô bé run lên, từ hàng lông mi khép kín ứa ra hai giọt lệ to tướng, và cô bé oà lên khóc nức nở.
Song, vừa xấu hổ vì những giọt nước mắt ấy, lại vừa lo Xtas sẽ mắng, cô bé giấu đầu vào ngực Xtas, làm ướt đẫm áo em.
Xtas gắng an ủi cô bé:
– Nen, đừng có làm vòi phun nước như thế. Em có thấy bọn chúng cướp khẩu súng và con lạc đà cái của một người Ả Rập nào đó không? Em có biết điều đó có nghĩa là gì không? Điều đó có nghĩa là trên sa mạc hiện đang đầy những lính canh. Bọn vô lại này có thể bắt được lính canh một lần, nhưng tới lần thứ hai thì chính chúng sẽ bị người ta tóm cổ. Có biết bao nhiêu tàu thuỷ đang quần đảo trên sông Nin… Chứ sao nữa! Chúng ta sẽ trở về, Nen, chúng ta nhất định sẽ trở về, mà bằng tàu thuỷ cơ! Em đừng sợ Nen ạ…
Có thể em còn tiếp tục an ủi cô bé như thế, nếu như em không chú ý đến một thanh âm kì lạ vọng vào từ phía ngoài, nơi các gò cát mà trận bão vừa rồi dồn thành đống dưới lòng khe cạn.
Âm thanh đó giống tiếng sáo vậy, âm thanh mỏng mảnh như tiếng kim khí. Xtas ngừng nói và bắt đầu lắng tai nghe. Lát sau những thanh âm mỏng manh và ai oán ấy lại cất lên từ nhiều phía cùng một lúc. Cậu bé thoáng nghĩ rằng có thể đó là những lính canh Ả Rập đã vây kín khe núi, dùng còi để gọi nhau. Tim em đập dồn.
Em ngó một lần, hai lần sang bọn Xu-đan, hi vọng sẽ nhìn thấy sự kinh hoàng trên nét mặt chúng. Nhưng không I-đrix, Ghe-bơ-rơ và hai tên Bê-đu-in đang bình thản nhá bánh khô, chỉ riêng mình Kha-mix là có vẻ hơi ngạc nhiên. Những thanh âm ấy vẫn tiếp tục ngân vang. Một lát sau, I-đrix đứng dậy, nhìn ra ngoài hang, rồi quay vào dừng lại bên cạnh bọn trẻ và nói:
– Cát bắt đầu hát đấy.
Xtas thú vị đến nỗi quên biến đi ý định hoàn toàn không thèm nói chuyện với I-đrix, bật hỏi:
– Cát à? Thế là thế nào?
– Chuyện thường ấy mà, và điều đó có nghĩa là lâu nữa mới có mưa. Nhưng chẳng lo nắng đâu, vì từ đây tới At-xu-an chúng ta chỉ toàn đi ban đêm thôi.
Và không thể biết thêm được điều gì nữa ở hắn. Xtas và Nen lắng nghe hồi lâu những thanh âm lạ lùng này, chúng kéo dài mãi cho tới khi mặt trời hạ thấp về đằng Tây. Rồi đêm buông xuống và cả đoàn lại tiếp tục lên đường.
— —— —.
1 Người báo giờ cho tín đồ đạo Hồi cầu nguyện.