Vào chiều tối ngày Chủ nhật, như thường lệ, quả chuông nhỏ bắt đầu ngân lên những tiếng rầu rĩ trong màn sương mỏng tựa như một bông hoa hồng dại nhợt nhạt. Bà Marston đã lê bước từ cửa phòng riêng tới cửa nhà thờ, vừa đi vừa hát ra những tiếng thở dài vì giấc ngủ của mình bị quấy rầy, đồng thời sai Martha nhóm lửa lò sưởi trong phòng khách. Edward đã cầm bài thuyết giáo của chàng đi ra phía sau nhà, nơi ít có những bia mộ hơn và chàng có thể vừa đi vừa đọc sách. Hazel chạy lên phòng riêng, mặc chiếc váy trắng, chiếc váy mà theo bà Marston là “quá đồng bóng” để mặc đi lễ nhà thờ. Nàng nghiêng người ra ngoài cửa sổ, nhìn lên ngọn đồi màu tím phía xa xa. Rồi nàng ngắt vài bông hồng trà mọc quanh cửa sổ. Chúng có màu kem đậm pha sắc hồng. Nàng cài những bông hoa lên ngực áo, chúng hợp với khuôn mặt ửng hồng của nàng. Nàng trở nên dễ thương nhất theo cách riêng của nàng; điều đó làm tăng hết mức sức hấp dẫn của nàng đối với hai người đàn ông. Nàng đội chiếc mũ màu trắng rộng vành lên đầu, và rón rén đi xuống nhà, lẻn ra ngoài theo lối cửa bếp trong khi Martha đang ở phòng khác. Nàng đóng cửa lại như một cuộc đời đã biến mất. Nàng không biết tại sao nàng lại cảm thấy phấn khích trước một điều gì đó rất quan trọng sắp xảy ra, một điều gì đó đang lơ lửng trên đầu, trong cuộc hẹn của nàng với Reddin.
Trong lúc chạy lên đồi nàng không gặp một ai, bởi vì những người đi lễ đều đã ở trong nhà thờ. Hàng rào phủ kín hoa bồ câu thiên sứ và hoa đậu tằm tím biếc. Khi đặt chân đến Rừng Của Thợ Săn nàng cảm thấy sợ; khu rừng quá rộng, quá sâu và âm u, cây cối tạo ra những âm thanh buồn bã, đung đưa trong sự phóng túng khổ ải. Ở những chỗ tối, đám lan dạ hương rụng nhưng chưa tàn hẳn, tạo ra một thảm hoa màu tím, trang nghiêm như một tấm vải phủ quan tài. Hoa thiên thảo ánh lên trắng lóa bên lối mòn, vây bủa quanh nàng bằng hương thơm của chúng. Lác đác vài ba bông hồng dại nở sớm, trĩu xuống vì vẻ đẹp của chính mình, với sắc trắng đỏ hiếm thấy, quá mỏng manh để đối mặt với cơn dông bão đang nhẩn nha hình thành ở phía chân trời xa xa. Nàng vội vã bước đi, rời con đường mòn, rón rén dưới tấm váy xòe rộng của đám sồi và bước trên những thân cây thông nằm sõng soài trên mặt đất, rỉ ra dòng nhựa trông tựa như dòng máu đen của những con vật đẹp đẽ, bị đánh gục, đang hấp hối. Nàng bắt đầu trèo lên, bám lấy những cây tần bì màu xám óng ánh. Bãi dương xỉ diều hâu, cao đến thắt lưng, giống như những chiếc vòng nhỏ ở đỉnh rừng, nơi những bông hoa cỏ chét màu vàng nhỏ xíu tạo thành một tấm thảm và những bông phiền lộ màu vàng che khuất tầm nhìn của đôi mắt hào hức của nàng.
Hazel đi đến đỉnh đồi nơi những cây táo gai gầy nhẳng với những cụm hoa tàn được nhuộm sắc phớt hồng, tựa như màu của những con ngựa béo tốt đang gặm cỏ ở xa xa bên dưới cùng những cái bóng của chính chúng, những chuyển động mau lẹ lướt nhanh cùng bóng, và những ngọn đồi đứng im dõi nhìn. Cái bóng của toàn bộ sự sống cũng luẩn quẩn quanh đây – thờ ơ, câm lặng, nhưng rốt cuộc vẫn chiến thắng và lấn át tất thảy. Khi Hazel ngồi đó cái bóng của chính nàng nằm ở phía sau nàng, và dần dần trở lên lớn hơn cả nàng khi mặt trời lặn xuống thấp hơn.
Tiếng be be, tiếng bò rống và tiếng quạ kêu vọng tới chỗ nàng; một con ngựa cất lên tiếng hí đầy vẻ hiếu chiến của giống đực. Từ xa xa vọng tới giọng hát ầm ĩ, không mấy mượt mà của một người đàn ông. Anh ta hát, không phải bằng sự sùng bái, không phải vì kí ức, vì âm nhạc hay tình yêu, mà vì chính lý do người ta hát vang trong nhà thờ – vì nhu cầu cấp bách của việc cần làm là tiêu hao bớt sinh lực dồi dào. Giọng anh ta trải ra dưới bầu trời tím biếc như thể anh ta là người đàn ông đầu tiên xuất hiện từ thế giới mông muội, tìm kiếm bạn tình trong một thế giới nơi mà anh coi là thái ấp, một thế giới làm lộ ra người bạn tình khi nàng chạy trốn qua cánh cửa của buổi sáng, cánh cửa của buổi tối, cánh cửa cuộn những tấm rèm hư ảo của chúng lại khi nàng đi qua. Người đàn ông đó chính là Reddin và tiếng hát của gã vang lên khi gã bước chân ra khỏi nhà, như các bậc tổ tiên của gã đã đi, đi để thực hiện ý nguyện của gã và đè bẹp ý nguyện của người khác. Gã thậm chí không tự thừa nhận với chính mình lý do gã đi. Cũng giống như nhiều người khác, suy nghĩ của gã về tình dục thiếu lành mạnh đến nỗi gã coi bất cứ sự thành thực nào trong chuyện đó đều không hợp khuôn phép. Tình dục đối với những người như gã là một thứ khiến đôi tai con người ta đỏ ửng lên. Những người chuyên gây giống ngựa như gã bước vào vương quốc của thiên đường đâu có dễ dàng gì. Ý nghĩa to lớn của sự gặp gỡ giữa hai giới chẳng là gì đối với những người như gã. Họ nhìn nhận nó chẳng hơn gì một sự kích thích cảm giác ngon miệng. Vậy nên Sally Haggard thường được tiêu hầu hết số tiền kiếm được từ những con ngựa đực gây giống của Reddin, những con ngựa được coi là “Niềm tự hào của Udern”.
Tới Rừng Của Thợ Săn gã cho ngựa chạy nước kiệu, hòng dập tắt giọng nói bên trong gã, cái giọng đang nói những điều mà gã không muốn nghe, về tình yêu, sự tế nhị và khiêm nhường của tình yêu, về việc những thứ đó không làm giảm đi nét quyến rũ của đàn ông – sự mãnh liệt tích cực của tình cảm say đắm – như thế nào mà ngược lại còn khiến họ trở nên huy hoàng. Có điều gì đó trong tình cảm của gã dành cho Hazel trả lời giọng nói đó, và nó làm gã lo lắng. Do di truyền và cũng do sự dưỡng dục, gã ghét bỏ và nghi ngờ tất thảy những gì có hơi hướng cảm xúc hoặc lý tưởng, coi tất cả những gì thuộc về tinh thần là tầm thường. Bởi vậy gã càng hát to hơn khi nhìn thấy chiếc váy trắng của Hazel bay phấp phới trên đỉnh đồi, để dập tắt hẳn cái giọng nói kiên định đang muốn cho hắn biết rằng tình yêu xuất phát từ cả hai phía là lý do duy nhất, là sự dâng hiến duy nhất của tình cảm say đắm ở đàn ông và đàn bà. Tiếng vó ngựa vang lên thình thịch như nhịp đập của trái tim sung sức.
Hazel đứng dậy. Bỗng nhiên nàng cảm thấy sợ nơi này, sợ hơn cả trước đây nàng từng sợ đàn chó ma, đối tượng mà buổi chiều nàng đã quên bẵng mất.
Nhưng trước khi nàng có thể quay gót rời khỏi đó, Reddin đã hét tên nàng và xuất hiện trên con đường dành cho ngựa chạy. Hazel lưỡng lự, xoay người như kim của chiếc compa, rồi cuối cùng nàng đứng yên.
“Ông muốn gì ở tôi, ông Reddin?”
“Em không biết sao?”
“Nếu biết tôi đã chẳng hỏi ông.”
“Đàn ông nói chung muốn gì ở đàn bà nhỉ?”
“Tôi không phải là đàn bà. Tôi không muốn là đàn bà. Nhưng tôi vẫn muốn biết ông muốn gì ở tôi?”
Gã cho tay vào túi áo và lấy ra một gói nhỏ.
“Đấy! Đừng có nói rằng chỉ mình em là cho đi thôi,” gã nói.
Nàng mở cái gói ra. Trong đó có hai chiếc vòng đeo tay nặng trịch kiểu cổ. Mỗi chiếc gắn một viên hồng ngọc lớn như hai con mắt nhìn không chớp từ cái đế bằng vàng đã bạc màu.
“Ôi! Chúng giống như những giọt máu!” Hazel nói. “Giống như máu khi cha tôi giết lợn. Ông ấy là người độc ác, cha tôi ấy. Tôi rất cảm ơn ông, ông Reddin ạ, nhưng tôi không muốn nhận chúng. Tôi không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy máu.”
“Ngốc thật!” Reddin nói. “Chúng đắt giá lắm đấy.”
Gã chộp lấy cổ tay nàng và đeo vào mỗi cổ tay một chiếc vòng. Nàng giằng tay, nhưng không thể thoát ra được cũng không thể tháo được móc khóa.
Nàng òa khóc, khóc to và dễ dàng, như nàng vẫn thường khóc. Mọi cảm xúc của nàng dâng lên, rõ rệt và dữ dội. Vì từ bé không được dạy cách ứng xử tinh tế và lịch sự, nàng bắt đầu rủa xả.
“Quỷ tha ma bắt cái bàn tay thô kệch và những cái vòng đỏ như máu của ông đi!” Nàng gào lên. “Tháo chúng ra đi! Nếu ông không tháo chúng ra tôi sẽ không ở lại đâu!”
Reddin bật cười, và mắt gã bắt đầu lóe sáng; không gì có thể hợp với tâm trạng của gã đến thế.
“Em phải đeo chúng,” gã nói, “để cho mọi người thấy em là của tôi.”
“Tôi không phải là của ông!”
“Em là của tôi.”
“Tôi sẽ không bao giờ là của ông!”
“Có đấy, bây giờ em sẽ là của tôi.”
Nàng gào lên với gã như một con mèo hoang bé nhỏ, giật những chiếc vòng ra như một con mèo giật sợi dây quàng quanh cổ nó. Gã lại cười.
Gã biết quanh đấy không có ai, bởi vì mọi người từ các trang trại và ở dưới chân đồi đã đi lễ nhà thờ cả rồi.
“Nghe này, Hazel,” gã nói, nghe không có vẻ thô lỗ lắm, “Em phải đầu hàng thôi, hiểu không?”
“Tôi không hiểu.”
“Em phải đến sống với tôi ở Undern. Em có thể mặc những chiếc váy đẹp đẽ đó.”
“Tôi lạnh,” Hazel nói. “Mặt trời sắp lặn rồi; tốt nhất tôi nên về nhà thôi.”
“Vậy thì đi nào. Lên ngựa đi. Chúng ta sẽ về Undern ngay bây giờ. Em sẽ ăn tối và…”
“Tại sao tôi lại muốn lang thang đến Undern khi mà tôi sống ở Núi Nhỏ chứ?”
“Em sẽ sớm bị đẩy đến đó thôi,” gã nói, với vẻ từng trải thô thiển của hạng người như gã, “Giờ em thích tôi hơn cái tay mục sư ẻo lả đó rồi.”
Nàng lắc đầu.
“Dù sao chăng nữa tôi cũng là một người đàn ông.”
Nàng nhìn gã và thừa nhận gã nói đúng. Nhưng nàng không muốn gã; nàng muốn tự do và muốn có thời gian để tìm hiểu xem nàng thích Edward nhiều đến mức nào.
“Chào ông,” nàng nói. “Tôi về đây.”
Nàng chạy xuống đồi, chạy vào rừng cây.
Reddin buộc dây cương vào một gốc cây và đuổi theo nàng. Gã bắt được nàng và ném nàng vào một bãi dương xỉ, rồi bỗng nhiên dường như đối với nàng toàn thế giới, cả khu rừng, bản thân nàng, đều là Reddin. Gã là bầu trời của nàng, là tấm áo choàng của nàng. Sự vắng lặng căng thẳng của nơi đó đè lên nàng.
Ở Núi Nhỏ Của Chúa Edward đang thuyết giáo về sức mạnh của việc cầu nguyện – làm sao chàng có thể viện đến việc cầu nguyện như một hàng rào để ngăn không cho những điều tai hại xảy đến với những người thân yêu của mình được cơ chứ.
Chiếc đồng hồ ở Alderslea điểm tám giờ bằng tiếng chuông nghèn nghẹn. Những tiếng chuông ấy dội vào óc Hazel như thiêu đốt. Bầy chim choi choi bay lượn thành vòng tròn, cất lên những tiếng kêu buồn bã tựa như linh hồn của những sinh vật đông hơn gấp nhiều lần.
Edward là một giấc mơ; Núi Nhỏ Của Chúa là một câu chuyện cổ tích – một cái gì đó bị lãng quên, bị sương mù che khuất.
Trời sẩm tối, và những con chim bắt đầu rít lên trong sương. Giọng nói từ các trang trại vọng tới. Mọi người đang từ nhà thờ trở về. Hazel cảm thấy mình bị vầy vò, bị bầm giập, bi cướp đoạt.
“Hazel, đứng dậy đi!” Reddin nói, giờ gã đang rất muốn ăn tối và không còn muốn Hazel nữa. “Đứng dậy, phủi bụi trên váy áo và về nhà nào.” Gã cảm thấy tiếc cho nàng.
Nàng không nói gì, không lưỡng lự. Nàng cảm thấy từ trong bản năng rằng giờ nàng đã thuộc về Reddin, mặc dầu về mặt tinh thần nàng vẫn thuộc về Edward. Nàng nhìn Reddin bằng cái nhìn thụ động, hoài nghi; buổi chiều tối vừa mới trôi qua đã trở thành hư ảo đối với nàng.
Vậy là họ nhìn nhau đầy nghi hoặc, giống như hai con vật ở trong cùng một cái bẫy. Cả hai đều cảm thấy như thể mình bị làm cho mắc kẹt bởi một thứ gì đó rất lớn và không thể sờ thấy được. Reddin sững sờ. Lần đầu tiên trong đời gã cảm nhận được tình cảm say đắm nồng nàn thay vì lòng ham muốn nhục dục đơn thuần. Những ý kiến đối nghịch xuất hiện trong gã trên đường gã đến đây một lần nữa lại lên tiếng.
Nhìn Hazel bằng ánh mắt đờ đẫn, gã cảm thấy mắt mình nhức nhối, cổ họng tắc nghẹn.
“Ông bị làm sao thế, ông khó thở à?” nàng hỏi.
Gã không trả lời.
“Mắt ông có nước mắt kìa.”
Reddin giơ bàn tay lên.
“Hãy nói xem ông bị làm sao, được không?”
Gã lắc đầu.
“Tại sao ông lại không nói, người… tại sao không nói chứ?”
Nàng chưa bao giờ gọi Reddin là “người yêu dấu.”
Nhưng gã không thể hoặc không muốn nói.
Mắt Hazel cũng đỏ hoe vì những giọt lệ buồn. Giờ thì nàng khóc vì cảm thông với một nỗi đau mà nàng không thể hiểu được.
Vậy là họ ngồi bên dưới những cành cây tăm tối, khẽ lay động trong sự đe dọa của màn đêm đang buông, khóc như những đứa trẻ. Họ ngồi co rúm người lại như thể có một bàn tay đang vung lên chực tát họ. Việc họ đã làm là sai; việc họ đã làm là không thể tránh khỏi. Hai cây thông trụi lá oằn mình bởi những cơn gió mạnh cứ tiếp tục rên rỉ, thân co vào thân, gây thương tích cho nhau mỗi khi chúng vật vã. Trong sự kiêu kỳ thờ ơ của những sườn dốc mờ tối, những vòm cây bí ẩn, những đại lộ dẫn đến hư vô, hai hiện thân của cuộc đời hỗn loạn ngồi náu mình ở đó, cảm nhận nỗi buồn, sự tàn nhẫn, nỗi kinh hoàng và ghê tởm một lát để rồi lại quay trở lại với cuộc đời.
Điềm báo của sự quay trở lại đó – những điềm báo xảy ra sau cái giờ của lạc thú tột đỉnh như những con quạ chạy theo lưỡi cày – giờ đây cứ ám ảnh họ, mặc dù họ không tìm được lời nào để diễn tả những gì họ cảm thấy, chỉ biết rõ cảm giác về sức ép của màn đêm. Màn đêm với sức ép của nó đang lom khom tiến lại gần họ hơn, tối tăm và dửng dưng, nhưng màn đêm biết rõ họ đang ở dưới tán cây mờ tối này. Dường như một đấng cao nghiêm nào đó đang lắng nghe, và không chỉ lắng nghe, mà còn áp đặt một mục đích được ngụy trang của mình theo cái cách không cần nỗ lực nhưng lại là cách không thể tránh khỏi. Hazel và Reddin – gã chẳng hơn gì nàng – dường như bị tước mất nhân dạng, giống như ông đồng bà cốt bị thôi miên. Con người cứng rắn và khỏe khoắn của gã mang cái vẻ đáng thương của một kẻ đần độc trước sức mạnh tiên tri này.
Cuối cùng, khi thôi không thở ngắc ngứ nữa và đã len lén lau giọt nước mắt lăn xuống mà mình, gã rất tức giận vì đã để Hazel thấy được nỗi nhục nhã của gã. Hắn nghĩ rằng nàng khóc thì chẳng sao. Đàn bà thường hay khóc. Gã chẳng phân biệt được khi nào nàng khóc vì đau khổ và khi nào nàng khóc vì cảm thông.
“Em không cần phải nhìn tôi chằm chằm như thế,” gã sẵng giọng. “Nếu tôi bị cảm lạnh, thì không có lý do gì mà phải nhìn chằm chằm tôi cả.”
“Ông nói như thế để làm…”
“Đừng nói nữa!”
Họ vượt qua một trảng rừng đầy những tiếng răng rắc đến sởn gai ốc như tiếng của những bàn chân đang rón rén bước đi trong im lặng – vô số những tiếng động nhỏ của rừng, vỏ cây rơi, cành con kêu tách tách, gió lùa trong đám lá già, tiếng xào xạc khe khẽ của cây. Họ đi qua nơi nàng từng nói chuyện với Edward khi nàng đi bóc vỏ cây. Mấy cây gỗ thông nằm trêm mặt đất ánh lên trắng nõn như bờ vai nàng lộ ra qua lớp váy bị rách. Nàng nhớ đến vẻ mặt của Edward và lại bắt đầu khóc.
“Lại chuyện gì nữa đây?” gã hỏi.
“Trước đây, trước khi những bông hoa chuông chết, tôi đã ở chỗ này cùng với… Ed’ard.”
“Tại sao em lại nói tên của gã đàn ông ấy theo cách đó hả? Cái tên đó không hay hơn những cái tên khác đâu.”
Nàng không đáp, và họ lại lặng lẽ đi đến cây táo gai đang bị hành hạ, nơi Reddin buộc con ngựa có bờm đen và tấm lưng mượt điểm lốm đốm những bông hoa rụng màu nhợt nhạt.
Reddin nhắc nàng lên yên ngựa.
Nàng dựa vào người gã, im lặng, thụ động trong khi gã điều khiển ngựa đi xuống dốc bằng một tay còn tay kia ôm quanh người nàng.
Một vì sao ánh lên qua rừng cây, nhưng đó không phải một vì sao thân thiện. Nó trông giống con mắt nhìn chòng chọc hơn là một giọt lệ.
Khi những vì sao khác xuất hiện như cả một đội quân trước tiếng kèn xuất trận. chúng trông thật xa cách và lạnh lẽo, và chúng trôi trên bầu trời trong sự khinh bỉ đầy mỉa mai.
Reddin thúc ngựa chạy nước đại. Gã muốn tạo ra sự chuyển động thật dữ dội để dẹp yên cảm giác hối hận mà tiếng khóc thầm của Hazel làm dấy lên trong gã.
Nỗi đau khổ âm thầm dâng lên trong nàng, cùng cảm giác cô đơn buồn bã và nỗi khiếp sợ trước tương lai. Gã cố an ủi nàng.
“Đừng nói gì cả!” nàng vừa khóc vừa nói. “Ông không biết nói những lời an ủi như Ed’ard đâu!”
“Em muốn tôi nói gì?”
“Tôi không biết. Tôi muốn gặp Cáo Nhỏ.”
“Sáng mai tôi sẽ đi mang nó tới cho em.”
“Không, ông không được làm thế. Cáo Nhỏ ở chỗ Ed’ard được an toàn. Hãy để nó ở đó. Tôi cũng muốn ở lại với Ed’ard.”
“Ai đêm hôm còn đến than vãn thế nhỉ?” Giọng của Vessons vang lên khi họ đến gần cửa dẫn vào hành lang. “Mình cứ nghĩ đó là hồn ma đau khổ của một cô gái mất trí đó – cô ta cứ than ‘Mất! Mất rồi!’ ở bãi trồng cây lấy củi của Undern.”