Buổi sáng tháng Năm trang nghiêm, được tô điểm bằng những viên kim cương, tràn ngập sự trang trọng mà cái đẹp hoàn hảo khoác lên mình, ló ra trong màn sương tía, gây hổ thẹn cho ngôi nhà tồi tàn, nơi Hazel đang mặc vào người bộ trang phục cô dâu. Căn nhà dường như chìm khuất trong lớp bọt mùa xuân đến nỗi khó mà nhận ra được. Đám tử đinh hương già cỗi vây quanh ngôi nhà, gật gật cái đầu đội mũ miện nhỏ bé của chúng về phía cái ống khói duy nhất. Mùi hương của chúng lấn át tất cả những mùi hương khác tựa như một cá tính mạnh, ta không có sự lựa chọn nào khác hơn là nghĩ về loài tử đinh hương. Hai cây kim tước, thân lớn và nhiều chạc, sờ sẩm mái nhà bằng những cành cây thấp và những chùm hoa vàng buông rủ. Những cành ở phía trên vươn cao, vươn xa về phía bầu trời xanh.
Cây táo gai cạnh cổng, nữ hoàng của tháng Năm, biết rõ thời kỳ viên mãn của nó, phô ra đầy những đài hoa trong như pha lê, óng ánh như những giọt mưa giữa vòm lá xanh tươi. Từ mọi cây lê trổ hoa trắng xóa, những cánh hoa rơi xuống và từ mỗi cây táo vỏ hồng phát ra tiếng vo ve của bầy ong.
Abel dậy rất sớm, bởi vì lão nghĩ lão nên làm một vòng hoa xinh xắn cho Hazel, và trong những việc như thế lão là một nghệ sĩ. Hoa linh lan đã chúm chím; đêm qua lão đã tưới cho chúng một chút nước ấm, và bây giờ lão ngồi dưới tán cây dẻ ngựa kết vòng hoa. Bóng lá dẻ ngựa tạo thành những vệt lăn tăn như gợn sóng phủ trên người lão, và lão thường ngẩng lên nhìn cái ngọn trắng xóa của những cái cây đang ra hoa với con mắt của một người có của, bởi lũ ong của lão đang làm việc ở trên đó với sự chăm chỉ cực độ.
Lão đang buồn rầu và khổ sở, bởi lão nghĩ về cái cộng đồng ong mà Hazel đáng lẽ đã mang về cho lão. Lão tự an ủi mình bằng ý nghĩ rằng nuôi nàng lão sẽ dành dụm được chút ít. Chưa bao giờ lão chợt cảm thấy tiếc vì mất nàng; quả thực, có rất ít lý do để lão phải cảm thấy thế. Cha con lão mỗi người sống một cuộc đời riêng, đơn độc và tự đáp ứng; họ hoàn toàn không phải là những người đồng hành thích hợp của nhau.
Lão kết những bông hoa linh lan ướt nhoẹt, mềm rũ vì bị tưới nước ấm bằng đoạn dây lấy ra từ một chiếc khung dùng để làm vòng hoa tang.
Vậy là Hazel đã đeo chiếc vòng hoa tang làm cô dâu trong ngày cưới của nàng.
Nàng tỉnh dậy, cảm thấy rất mệt sau cơn khủng hoàng ngày hôm qua, nhưng nàng vui. Nàng và Cáo Nhỏ, cùng con mèo chột mắt, con thỏ, con chim két của nàng, sắp chuyển tới một nơi không còn những mối lo phiền, đến với sự bình yên mà tỉnh yêu của Edward mang lại trên Núi Nhỏ Của Chúa.
Những khó khăn của cuộc sống mới hoàn toàn bị lãng quên. Chỉ có niềm vui của nó là hiển hiện. Bà Marston dường như cứ mỉm cười và mỉm cười mãi trong sự trìu mến vĩnh hằng, còn khuôn mặt bì bì của Martha thì toát lên vẻ cởi mở dễ gần. Những cơn gió ồn ào đã tạm lắng và mỗi cơn gió đều mang đến món quà của hương thơm, nhè nhẹ thổi quanh ngôi nhà của Edward. Sương giá, nàng nghĩ, sẽ không đến Núi Nhỏ Của Chúa như đến với Callow lạnh lẽo.
Nàng không nhìn thấy đôi vai phủ đầy sương muối của Reddin, cũng không nhìn thấy những giọt sương lạnh lẽo trên bia mộ.
Nàng hát bằng giọng hát ngọt ngào thánh thót của một con chim oanh trong lúc mặc váy áo. Nàng chưa bao giờ nhìn thấy những trang phục như thế này; nàng hầu như không biết phải mặc như thế nào. Nàng chải tóc cho tới khi tóc nàng óng mượt như một bông loa kèn, và kết thành bím lớn quấn quanh mái đầu nhỏ xinh của nàng. Khi mặc chiếc váy muslin trắng muốt vào người, nàng thở thật sâu, ngắm mình trong chiếc gương nhỏ.
“Mình giống như một bức tranh!” nàng há hốc miệng vì kinh ngạc. Quanh cái cổ thanh mảnh rám nắng của nàng là một sợi dây chuyền vàng với mặt dây chuyền topa, hợp với màu mắt nàng.
Khi nàng bước ra tựa như một bông hoa bách hợp trên mặt đất, Abel loạng choạng lùi lại, phần vì sự đùa giỡn thô kệch, phần vì kinh ngạc. Lão cũng rất ấn tượng trước thực tế rằng lão đã tự mình chuẩn bị bữa sáng, và sau đó dùng giấy ráp kỳ tay cho tới khi hai bàn tay lão đau nhức. Hazel, đăng quang trên một chiếc ghế gãy, thắt cho Cáo Nhỏ một chiếc đai đeo cổ kết bằng những bông hoa lưu ly màu xanh dương.
Cáo Nhỏ, trong bộ dạng cực kỳ đĩnh đạc, ngồi chồm hỗm, dụi cằm vào những bông hoa. Rõ ràng nó hài lòng với vai trò mới của mình; nó có thể gắn bó với nhà thờ suốt đời. Con mèo chột nằm bên cạnh nó, được đeo một dải ruy băng xanh, ra sức phát ra những tiếng rừ rừ nghe như tiếng một chiếc kèn túi đã bị vỡ vì tuổi trẻ sôi nổi của nó.
“Ừ! Mày rừ rừ hay lắm!” Hazel nói. “Mày sẽ được ngồi trên tấm nệm bên cạnh lò sưởi cho đến cuối đời, còn Cáo Nhỏ sẽ có một cái chậu mới tinh!”
Không có nhiều cô dâu nghĩ ít cho bản thân mình và nghĩ nhiều cho những đối tượng nhỏ bé phụ thuộc vào mình như Hazel đã nghĩ sáng nay. Bữa sáng mang không khí thân mật bởi vì Abel đã mở miệng nói vài câu. Chốc chốc lão lại nhìn Hazel và nói, “Ôi chao!” Hazel cười khanh khách vui sướng. Khi nàng đứng ở cổng đợi xe ngựa của hàng xóm đến đón, trông nàng cũng đầy hứa hẹn như cái cây táo gai đang đơm nụ ở phía trên đầu nàng.
Nàng không nghĩ nhiều về Edward, ngoại trừ ý nghĩ về sự che chở của chàng. Khuôn mặt Reddin, bị chiếm lĩnh bởi nỗi đau mãnh liệt và đầy bí ẩn; cảm giác về cánh tay của Reddin khi họ khiêu vũ; bàn tay gã, ấm nóng và rắn chắc, đặt trên tay nàng – những ý nghĩ và cảm giác đó chiếm cứ ý nghĩ của nàng. Nàng cố dẹp bỏ chúng, ý thức được rằng chúng không thích hợp khi nàng là cô dâu của Edward.
Cuối cùng xe ngựa cũng xuất hiện, chạy lên đồi với cái kiểu tròng trành đặc trưng của những chiếc xe chở hàng. Con ngựa nhỏ được người ta đeo cho mỗi bên tai vòng bông cúc vạn thọ còn chiếc roi ngựa thì được điểm thêm vài bông tử đinh hương. Người ta đưa những con vật lên xe – con mèo chột kêu meo meo trong rổ, con thỏ ở trong chuồng, con chim ở trong chiếc lồng bằng gỗ, còn Cáo Nhỏ ngồi phía trước Hazel. Cây đàn hạc được đưa lên xe sau cùng. Họ khởi hành giữa tiếng reo hò của những đứa trẻ hàng xóm, và nhẩn nha tiến theo con đường đồi giữa mùi thơm thoang thoảng của nhựa thông tỏa từ những trảng thông rụng lá.
Con ngựa nhỏ có bộ lông màu kem đi khập khà khập khiễng khiến chiếc xe cứ lắc lư một cách dị thường và nàng bị giày vò bởi cảm giác thèm muốn dành cho mấy bông cúc vạn thọ treo lủng là lủng lẳng gần ngay mũi nàng đến nỗi nàng ngoẹo đầu trong tư thế kỷ cục để cố chạm vào chúng. Gió thở dài giữa những tán thông cao vút, và lại một lần nữa, trong cái ngày hoan hỉ này, những cây thông cúi đầu một cách chăm chú về phía Hazel. Trong những trảng rừng mấy chòm dạ lan hương lan rộng chẳng bao lâu nữa sẽ nhợt nhạt đi và rơi vào cái chết không đau đớn, may mắn biết rõ nghệ thuật chết cũng như nghệ thuật sống, giống như số ít những sinh vật có tri giác, dù chết vẫn giữ được phẩm cách của mình.
Khi họ lái xe qua mỏ đá, nơi những cái bóng bí ẩn hiện ra, Hazel bỗng nhiên run rẩy.
“Sao mày sợ như nhìn thấy Thần Chết thế,” Abel hỏi.
“Ôi, đừng nói thế! Nói như thế trong ngày cưới của con là không may đâu,” nàng thốt lên. Khi xe chạy lên đồi nàng rướn người về phía trước, như thể nàng đang phải đấu tranh với nỗi kinh hoàng.
Khi đoàn đưa dâu lạ lùng ấy dừng lại trước cổng nhà chú rể, Abel vung cái roi ngựa nặng trĩu những bông tử đinh hương lên và phun ra những lời nói dí dỏm, tinh vi nhưng khó hiểu của lão, Edward từ trong nhà vội vã bước ra. Ánh mắt chàng đậu lại ở Hazel, ánh mắt sống động và đầy âu yếm khiến Abel ngây người, bỏ dở một câu bông đùa.
“Hazel yêu quý,” Edward đứng bên chiếc xe, ngước lên nói, “chào mừng em về nhà, cầu Chúa che chở cho em!”
“Cậu không thể nói hay hơn được sao,” Abel nói. “’Azel của chúng ta hôm nay trông không hấp dẫn sao? Không phải hôm nay nó diện khủng khiếp sao?”
Edward không để ý đến lời nói của lão. Chàng đang mải ngắm Hazel, tìm kiếm một cách đầy khát khao dấu hiệu của cảm xúc say đắm nồng nàn tràn ngập giống như cảm giác mà chàng đang trải nghiệm. Nhưng chàng chỉ thấy sự thích thú rất đỗi trẻ thơ, lòng biết ơn, niềm yêu mến, và cái bóng lờ mờ của điều mà chàng không thể giải thích được, và là điều mà từ đó chàng bắt đầu hy vọng nhiều.
Nếu sự phát hiện đó xảy ra trong căn phòng tĩnh lặng ở trên gác thì chàng đã đi đến một quyết định trái ngược hoàn toàn; nếu như ngày hôm đó chàng nói cho Hazel biết tình yêu của chàng có nghĩa gì, thì trước sự mỉa mai của tất cả mọi điều, nàng đã yêu chàng và dành cho chàng thứ tình cảm nồng nàn tự nhiên tiềm ẩn trong con người nàng.
Nhưng chàng đã lựa chọn cái cách không vị kỷ kia.
“Ôi,” chàng nói với vẻ hoạt bát, “chúng ta nên đưa Hazel cùng những con vật bé nhỏ này xuống trước chứ nhỉ?”
Bà Marston xuất hiện.
“Ôi, ông sắp đi biểu diễn sao, ông Woodus?” bà hỏi Abel. “Giá mà ông ở lại chơi đàn được thì hay quá.”
“Vâng, bà ạ. Tôi đến để chơi đàn đây. Tôi không đi biểu diễn ở đâu đâu. Tôi đến đám cưới để chén căng bụng đây.”
Rất bối rối bà Marston hỏi rằng họ mang những con vật kia tới nhà bà để làm gì.
“Mẹ ạ, con nghĩ, họ mang chúng tới để dành cho mẹ đấy.” Edward mỉm cười.
Bà nhìn săm soi Cáo Nhỏ, con vật tràn đầy sinh khí sau chuyến đi bằng xe ngựa; con chim, bù xù và ủ rủ; con thỏ, với một bên tai lộn đằng trong ra ngoài, trông chẳng đạo mạo chút nào. Bà còn nghe thấy cả tiếng mèo kêu meo meo nữa.
“Mẹ không muốn có những con vật này, con ạ,” bà nói, giọng quả quyết.
“Bà đang bắt đầu có một gia đình mèo đấy thưa bà,” Abel nói.
Bà Marston không tìm được lời nào để diễn tả cảm xúc của mình.
Nhưng trong khi Edward và Abel đưa những con vật đó ra khỏi xe, bà nói với Martha:
“Đám cưới bây giờ không giống đám cưới ngày xưa nữa rồi, Martha ạ.”
“Cô dâu đến nhà chú rể,” Martha, người luôn đọc tin về các đám cưới trong vùng, nói, “cùng với một con mèo chột; một con thỏ ngu ngốc; một con chim ốm; và một con cáo hôi rình!”
Bà Marston thả lỏng vẻ trang nghiêm của mình đến mức khẽ bật cười. Bà quyết định năm tới sẽ tăng tiền công cho Martha.