Trái Tim Em Thuộc Về Đất

Chương 14



Thời điểm trao giải thưởng đã đến, và cô em nhà Clomber đại diện cho hai chị em nhà họ, cố thuyết phục Reddin bước lên bục nhận giải, tức một chiếc xe tải có bố trí những chiếc ghế ngồi. Ông James đã an tọa ở trên đó, và người thư ký đang tính tiền giải thưởng. Những người chiến thắng đang đứng ở bên dưới, trong đó có lão Vessons nổi bật trong chiếc áo gi lê màu đỏ chóe. Cô Clomber cảm thấy mình trông rất dễ coi. Cô mặc một chiếc váy may bằng vải tuýt để mọi người thấy rằng đối với cô đây không phải là một dịp đặc biệt như mấy cô gái quê.

“Không. Tôi sẽ ở dưới này thôi,” Reddin nói, đáp lại lại nhìn đăm đăm đầy mời mọc của cô ta bằng cái nhìn trừng trừng đầy dửng dưng.

“Là đại diện cuối cùng của một gia đình lâu đời…”

“Ôi, một gia đình chết tiệt thì có,” gã nói giọng cáu kỉnh vì đã để mất dấu Hazel.

Khi cô Clomber vẫn cố nài nỉ, gã liền dập tắt cuộc tranh cãi.

“Trong dòng tộc của tôi gia đình trẻ nhiều hơn gia đình lâu đời.”

Cô ta đỏ mặt một cách không thích hợp và vội vàng trèo lên xe tải.

Reddin đi tìm Hazel, trong khi ông James bắt đầu đọc tên những người đoạt giải.

“Ông Thomas. Ông James. Ông Marston. Ông James…”

Ông trao một đống tiền xu cho cô Clomber, người đại diện cho ban tổ chức với những lời nhận xét ngớ ngẩn thường thấy. Khi giành được giải thưởng ông ta nhận lại tiền từ cô Clomber với động tác cúi chào, ngả mũ. Khi tên của chính ông được lên nhiều hơn mức bình thường, ông bắt đầu trở nên ngượng ngập. Ông nhìn quanh cả dãy những khuôn mặt, và hiểu vẻ nặng nề kia có ý nghĩa là ý thức bị áp chế.

Có lẽ cũng nên hiểu đó là một sự chế nhạo chăng? Vậy nên mũ của ông ngả ra với một động tác vung tay khoa trương, và ông nói một cách khôi hài khi lĩnh đống tiền xu tiếp theo, “Táo ướp, ông James. Tôi sẽ đút tiền vào túi mình!”

Khi cách nói hài hước đó nhàm dần, ông phải dùng đến sự thật không thể bắt bẻ. “Công bằng và thẳng thắn! Người giỏi nhất đã chiến thắng!” Cách này kéo dài được một lúc, nhưng không giúp ngăn được chuỗi, “Củ cải Thụy Điển, ông James. Củ cải to, ông James. Lê om, ông James.” Ông bắt đầu hoảng. Động tác cúi mình ngả mũ của ông trở nên qua loa đại khái. Ông đút tiền vào túi một cách lén lút và đọc tên mình bằng giọng lí nhí đầy vẻ có lỗi. Nhưng cách đó vẫn không ổn! Ông phải lấy lại can đảm. Ông cố làm ra vẻ can đảm.

“Ông Vessons. Ông James.”

Lão Vessons đứng bất động trong tầm với của cô Clomber. Khi nhận giải thưởng – lão đã đoạt giải được ba lần rồi và không ai khác trong vùng buồn gửi pho mát đi dự hội chợ nữa – lão đưa tay ra giống như một phần của chiếc compa, và chẳng thèm hạ cố cúi mình hay mỉm cười. Lão không thích cô Clomber bởi vì lão biết cô ta muốn trở thành bà chủ của Undern. Ông James tiếp tục giả vờ can đảm.

“Việc gì phải quan tâm mọi người nghĩ gì chứ? Trời ơi! Cả thế giới có thể thấy mình nhận giải thưởng mà.”

Rồi ông ta bắt gặp ánh mắt mỉa mai của Abel, và tất cả sự can đảm vừa mới được dựng lên lại vỡ vụn. Ông ta níu lấy thái độ ban đầu của mình – tháo vát và thạo việc – và lại bắt đầu lại từ đầu, cố nuốt giải thưởng mà không nhìn về phía Abel, với ý thức dâng cao rằng túi mình sắp đầy tiền.

Khi ông ta xướng lên, “Anh đào ngâm. Bà Marston,” và Edward bước lên nhận tiền thưởng, Reddin chen tới chỗ Hazel, hỏi:

“Mấy giờ anh ta rời khỏi đây?”

“Tôi không biết.”

“Đừng có quên đấy.”

“Ông Reddin, tôi phải đi! Tại sao ông không để tôi đi?”

Nhưng Reddin, phát hiện ra cô Clomber đang nhìn mình, liền lẩn đi chỗ khác.

Ông James đã đọc đến cuối danh sách những người đoạt giải. Ông ta đọc to tên của Abel, và tên của ông già lòng khòng với mái tóc màu xám rối bù và là một người nuôi ong có tiếng. Ông James nhìn Abel như muốn nói, “Ông đã có được giải thưởng rồi nhé! Thấy chưa! Cuộc chơi này rất công bằng nhé.”

“Cảm ơn cô,” Abel nói với cô Clomber, sau đó nói với James bằng giọng mỉa mai, “Ông không nuôi ong, phải không nhỉ, ông James?”

Những ngọn đồi phía trên khu đất diễn ra hội chợ lờ mờ hiện ra trong buổi chạng vạng. Chúng mang màu sắc lạnh lẽo và đáng sợ, chẳng phải tím sẫm, không phải màu đen cũng chẳng phải màu xám, mà là sự pha trộn của tất cả mấy thứ sắc màu ảm đạm đó. Đường bệ, thê lương, đầy hăm dọa, chúng chi phối sự sống ở phía dưới như chủng tộc chi phối các cá nhân. Hazel ngước lên nhìn chúng. Nàng đứng trong dáng vẻ của một người đang lắng nghe bởi vì trong đầu nàng vang lên một giọng nói mà trước đó nàng chưa hề nghe thấy, một giọng nói vang sâu không thể lay chuyển thúc giục nàng làm cái điều mà nàng không biết cụ thể là gì. Nàng nhìn lên ngọn đồi hình tròn được rừng cây bao phủ che khuất Núi Nhỏ Của Chúa – ngọn đồi rất cao, rất lạnh đối với một con người bé bỏng khốn khổ. Nàng cảm thấy cuộc sống ở đó quá đứng đắn, quá lịch sự. Nghĩ về nó nàng bỗng cảm thấy nhớ sự bụi bặm và nhớ Callow.

Nàng nghĩ về Undern, ngôi nhà nằm núp mình dưới ngọn đồi của nó như một con cóc. Nàng nhớ đến những căn phòng đầy tiếng vọng và tiếng sột soạt của váy áo vọng dọc các hành lang khi nàng mặc chiếc váy màu xanh vào người. Undern khiến nàng nhớ hơn là ngôi nhà của chàng mục sư.

Edward đã ra về. Nàng đã nói với chàng rằng nàng muốn ở lại với cha, và Edward nghĩ nàng là một đứa con gái giàu tình cảm nên đã đồng ý, dù buồn bã.

Giờ nàng đang đợi Reddin. Buổi khiêu vũ chưa bắt đầu, mặc dù lều khiêu vũ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Ánh sáng màu vàng hắt ra từ mọi kẽ hở trên tấm vải bạt, và trong bóng tối Hazel cảm thấy rất cô đơn; bởi ánh sáng ban ngày dường như là quyền lực tự nhiên của nàng. Khi nàng đứng đó, thật nhỏ bé và mỏng manh, nàng trông như đang co ro. Bao giờ cũng vậy, khi đứng dưới một tán cây hay một nơi trú mưa, nàng đều có cái dáng vẻ này, dáng vẻ của một kẻ lánh nạn, lén lút và sợ hãi. Khi nàng chạy dường như nàng là một kẻ đang bỏ trốn, bỏ trốn trong cái thế giới không nơi nương náu, không chỗ trú chân.

Cô Clomber đột nhiên xuất hiện khiến nàng giật mình.

“Tôi cảnh báo cô!” cô Clomber nói bằng giọng thiếu thân thiện vốn có. “Tôi đã nhìn thấy cô và Reddin cặp kè với nhau hai lần. Tôi chỉ muốn nói bằng tinh thần của một người có đạo và cũng là tinh thần của cánh con gái với nhau,” cô ta hạ giọng thầm thì, “rằng anh ta không phải là một người đàn ông tử tế.”

“Ồ,” Hazel nói, thở phào nhẹ nhõm giữa cảm giác nhút nhát và bị áp chế trước cảnh núi đồi, “hay đấy!”

Cô Clomber, cảm thấy bị xúc phạm và tức giận, liền bỏ đi.

Hazel một lần nữa bị bỏ lại với những ngọn đồi. Sự lầm lì của mùa đông vẫn bao phủ lên chúng, và trên bầu trời phía xa là sự xa lánh đầy hoài nghi đến cùng sương giá sau hoàng hôn.

Nàng thôi không nhìn chúng nữa mà nhìn căn lều ngập tràn ánh sáng. Vùng ánh sáng trông giống như một con vật có vẻ ngoài rực rỡ đang bị cầm tù. Abel đã tạm ngừng cuộc tranh luận tưởng chừng như bất tận với ông già có mái tóc bù xù, và giờ đây đang bắt đầu gảy đàn ở bên trong.

Thanh niên nam nữ theo tiếng nhạc kéo tới căn lều tựa như một đám ruồi kéo nhau đến vây quanh cây liễu gai nở hoa. Họ bước vào trong, như các vị thần bước vào chốn thiên đường. Tấm vải bạt bắt đầu rung và phồng lên trong luồng gió của màn khiêu vũ. Hazel cảm thấy rằng không có nàng đời vẫn vui – nàng bước ra khỏi bóng tối. Đôi chân nàng bắt đầu nhún nhảy.

“Mình sẽ vào trong đó!” nàng nói một cách bướng bỉnh. “Tại sao lại không chứ?”

Nhưng nàng vừa mới vén cửa lều thì chợt nghe thấy giọng Reddin vang lên ngay sau lưng mình.

“Hazel, tại sao em lại chạy trốn?”

“Tôi không biết.”

“Tại sao em không nói cho tôi biết tên của em? Tôi đã phi ngựa đi tìm em khắp vùng này.”

“Phải! Phải! Đúng thế đấy! Tôi đã nhìn thấy ông.”

Reddin không thốt lên lời.

“Tôi và cha tôi đi ra ngoài và ông xuất hiện. Tôi nghĩ đó là lần ở quán Kẻ Đi Săn Độc Ác.”

“Cảm ơn. Em không có sự lựa chọn nào khác, tôi nghĩ vậy.”

“Không phải thế.”

“Chúng ta đang lãng phí thời gian đấy. Chuyện tay mục sư kia là thế nào?”

“Tôi đã nói với ông rồi còn gì.”

“Nhưng chuyện đó không có thật. Chuyện của em và tay mục sư!”

Gã cười. Hazel nhìn gã bằng ánh mắt khinh ghét.

“Khi ông cười như thế, trông ông giống một con chó săn,” nàng nói, “mà tôi thì không thích lũ chó săn tí nào.”

Gã thôi cười ngay lập tức.

Tiếng đàn hạc của Abel vọng tới chỗ họ, và tiếng những bước chân đang khiêu vũ nghe như tiếng giậm chân của đàn cừu, đã trở nên rất rõ khi ngay cả người rụt rè nhất cũng đã bị cuốn vào cuộc vui say sưa.

Một cơn mưa dông, có hình thù tựa như một cái cột, chầm chậm tiến dọc thung lũng, đi men theo chân những ngọn đồi. Nó giống như một vị thần mặc áo xám đang khoanh tay trước ngực, đầu tách xa khỏi bầu trời. Khi cơn dông từ từ kéo tới chỗ hai người đang đứng như một đôi tình nhân mà lại chẳng phải tình nhân, và khi nó táp vào mắt họ, có thể nó chính là số phận.

“Hazel, em không hiểu rằng tôi yêu em sao?”

“Tại sao ông lại yêu tôi chứ?” Giọng nói của nàng nghe như đang than vãn, và những giọt mưa lăn xuống má nàng như những giọt nước mắt. “Có ông rồi lại có Ed’ard. Ôi, tại sao các người lại thế chứ?”

Reddin nhìn nàng sửng sốt. Một người phụ nữ không thích một người đàn ông yêu mình. Điều đó thật lạ lùng. Gã đứng sừng sững dưới bầu trời đang tối sầm lại, cái đầu to đẹp đẽ của gã hơi cúi xuống phía nàng.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ,” gã nói giọng chán nản – “tôi chưa bao giờ nghĩ, khi mà tôi đã sống bốn mươi năm trời mà không cần đàn bà” (“mà không cần tình yêu,” gã thầm đính chính), “rằng giờ đây tôi lại yêu như thế này.”

Gã nhìn Hazel bằng ánh mắt trách móc; rồi gã ngẩng lên nhìn bóng đêm đang kéo tới tựa như một con sư tử nhìn chằm chằm vào đêm tối khi nghe thấy tiếng sấm rền.

“Ông bốn mươi tuổi ư?” Giọng Hazel thể hiện sự ngạc nhiên tột độ. “Trời! Già thế!”

“Không già lắm đâu,” gã nói, giọng van vỉ và khiêm nhường đối với chính gã.

Nàng bật cười.

“Tay mục sư đó, tôi nghĩ anh ta còn trẻ, đúng không?” Giọng gã nghe có vẻ nuối tiếc.

“Anh ấy xứng đôi vừa lứa với tôi.”

Nỗi tức giận của Reddin bùng lên.

“Tôi sẽ cho em thấy tôi đã già hay chưa! Tôi sẽ cho em thấy ai là người tình tuyệt vời nhất, tôi hay thằng ranh ngốc nghếch đó!”

“Bỏ tay ra, ông Reddin!”

Nhưng lời nói của nàng chìm trong tiếng gió cô đơn đang bắt đầu thổi vù vù qua căn lều ngập tràn ánh sáng.

“Đó,” Reddin nói, hài lòng về những nụ hôn của gã. “Bây giờ hãy vào trong lều khiêu vũ đi, và em sẽ thấy một thằng cha bốn mươi tuổi có thể làm em mệt nhoài được hay không. Sau đó chúng ta sẽ giải quyết mớ bòng bong tay mục sư kia gây ra.”

Gã vén cửa lều lên, và họ bước vào bên trong, lập tức bị cuốn hút bởi cuộc sống của những vòng quay chầm chậm vui nhộn.

Hazel vui vì được nhảy với gã hoặc với bất cứ ai, miễn là nàng được nhảy. Reddin ngẩng cao đầu, bởi vì đêm nay gã là một người tình, và gã chưa bao giờ kiêu hãnh như thế trong bất cứ cuộc tình nào gã đã trải qua.

Gã vừa giận Hazel vừa bị nàng mê hoặc, và hai cảm xúc đó xảy ra cùng lúc khiến gã chếnh choáng.

Khi Hazel khiêu vũ nàng là một đóa hoa rung rinh trong gió nhẹ, một cây dương mảnh dẻ khẽ đung đưa trong bình minh, một cây sồi non thuận theo ý muốn của gió.

Abel ngắm nàng đầy tự hào. Suy cho cùng thì con gái lão đã mang lại danh tiếng cho lão. Điều đó thật đáng ngạc nhiên.

“Chơi nhạc vì đôi chân của con Hazel nhà mình cũng bõ. Những người khác chỉ giậm chân thôi,” lão nghĩ. “Gã đàn ông nào đang cặp kè với nó thế nhỉ? Mình phải để mắt trông chừng mới được. Mình đã nhận lời với nhà kia rồi.”

“Ông phải giữ lời đấy,” Hazel bỗng nói với Reddin.

“Gì cơ?”

“Ông đã nói sẽ làm tôi mệt nhoài.”

“Vậy thì đi ra ngoài, tôi sẽ mời em một tách trà.”

Gã đưa tách trà cho nàng và ngồi xuống bên nàng trên hòm đựng cam.

“Hãy nhìn tôi,” gã nói, “hãy nói thật lòng đi, em sẽ lấy tôi chứ?”

Gã ngạc nhiên về chính bản thân mình.

Andrew Vessons, người đã rón rén bám theo họ từ trong lều, xòe hai tay ra, nhìn lên trời với vẻ thất vọng cực độ, và càng thất vọng hơn bởi vì lão không thể nói ra. Lão chán nản quay trở vào trong lều, nơi lão đứng chắp tay sau lưng, hơi ngả người về phía trước, miệng nở nụ cười giễu cợt, nhìn cảnh khiêu vũ, một dạng tôn sùng nhục dục, điều mà đối với lão không chỉ ngớ ngẩn và đáng khinh mà còn đáng ghê tởm. Chốc chốc lão lại lắc đầu, đi ra cửa lều xem ông chủ của lão quay trở vào hay chưa, rồi lại lắc đầu. Một người bạn đi tới.

“Tại sao ông ấy lại làm hỏng cuộc đua?” ông ta hỏi.

“Tại sao,” Vessons hỏi, đưa mắt nhìn ra xa xăm, “Chúa Trời lại tạo ra thế giới để cho đàn bà tham gia vào nhỉ?”

Tình hình ở bên ngoài đã phát triển vượt ra ngoài ý muốn của lão mà lão không hay biết.

“Cứ tiếp tục như thế để làm gì, ông Reddin? Tôi đã nói với ông rằng tôi đã hứa hôn với Ed’ard rồi còn gì.”

“Nhưng em cũng thích tôi đúng không? Thích hơn tay mục sư kia chứ?”

“Tôi không biết.”

“Hãy đi với tôi. Tôi thề sẽ chơi đẹp.”

“Tôi đã thề rồi!” nàng kêu lên. “Tôi đã thề trước Núi Nhỏ rồi, và lời thề đó không thể bị phá vỡ.”

“Em đã thề gì thế?”

“Thề sẽ cưới người đầu tiên cầu hôn tôi. Người đó là Ed’ard. Nếu tôi phá vỡ lời thề, thì khi tôi chết, linh hồn lạnh lẽo của tôi sẽ phải lang thang và sẽ chẳng bao giờ được an nghỉ, sẽ khóc than khắp núi cùng non trong đêm tối, và Ed’ard sẽ nghĩ đó là gió.”

“Nếu em bỏ tay mục sư đó, anh ta sẽ sớm vượt qua được chuyện ấy thôi; nếu em bỏ tôi, tôi sẽ không thể vượt qua được. Anh ta có bao giờ theo đuổi rượu và đàn bà đâu.”

Đó là một lời cầu xin khẩn thiết đối với một người tình.

“Cô Clomber nói rằng ông không phải là một người đàn ông tử tế.”

“Ồ, tôi đã bị bôi nhọ! Nhưng nghe này. Nếu tay mục sư ấy mất em, anh ta sẽ chao đảo đôi chút; nhưng nếu tôi mất em, thì sẽ có chuyện khủng khiếp xảy ra. Anh ta đã hôn em chưa?”

“Nhiều lần rồi.”

“Tôi không tin!”

“’Azel!” cha nàng gọi.

“Em sẽ không đi chứ?”

“Tôi phải đi. Đó là cha tôi.”

“Vậy tôi sẽ không gặp lại em nữa – cho tới khi em cưới ư? Ôi, hãy lấy tôi, Hazel! Hãy kết hôn với tôi!”

Giọng gã run rẩy. Nàng bắt đầu khóc trước nỗi đau khổ bí ẩn hiển hiện trên khuôn mặt gã, – nỗi đâu khổ phần nào cấu thành từ nỗi tức giận điên cuồng, và vì lẽ đó càng trở nên đáng thương hơn, Abel đi tới.

“Hình như đây là đám tang,” lão nói, giơ chiếc đèn lồng lên soi mặt từng người.

“Tôi muốn cưới con gái ông.”

Abel cười rống lên.

“Lại một thằng cha nữa ư? Người đầu tiên là một linh mục và người tiếp theo là một điền chủ!”

“Một nông dân.”

“Không chừng người tiếp theo lại là một ông vua trên ngai vàng. Trời, con kia! Mày giống như bia và mật ngọt vậy.”

“Ông vẫn chưa trả lời tôi,” Reddin nói.

“Nó đã quyết định rồi.”

“Gì cơ?”

“Đã quyết định rồi. Đã hứa hôn. Đã có nơi có chốn.”

“Cô ấy có quyền thay đổi quyết định.”

“Ô hay! Chúng tôi đã nhận lời với nhà họ rồi. Tại sao phải thay đổi chứ, họ đã mua sắm quần áo, nhà mục sư ấy, và đã sắm sửa cả giường tủ và bánh trái rồi!”

“Nếu cô ấy đến với tôi, ông sẽ được nhận một ngân phiếu trị giá năm mươi bảng, và đó là tất cả những gì tôi có,” Reddin nói một cách thật thà.

“Tôi đã nói với ông rồi, thưa ông, nó đã có nơi có chốn,” Abel nhắc lại. “Chúng tôi đã nhận lời với nhà họ rồi!”

Một ý nghĩ lóe lên trong đầu lão, với năm mươi bảng, khu vườn ở Callow sẽ đầy kín những hòm ong.

“Ông chủ,” lão nói như sắp khóc, “ông đừng có mà dụ dỗ tôi! Ôi trời ơi! Với số tiền đó tôi có thể mua gỗ, mua sơn trắng, ong chúa từ những nơi khác!” Lão làm một cử chỉ thể hiện nỗi thất vọng và mặt lão nhăn lại.

“Ông có thể có một chiếc đàn hạc mới nếu ông muốn,” Reddin gợi ý.

Abel nuốt nước miếng.

“Thỏa thuận là thỏa thuận!” lão nhắc lại. “Và tôi đã nhận lời với ông mục sư rồi.” Lão quay đi.

“Azel,” lão ngoái lại nói, “mày không được phép đi với người đàn ông này. Đã nhiều lần,” lão nói thêm, quay đầu lại ủ rũ nhìn nàng, “mày làm trái lời tao rồi đấy.”

Với cái nhìn lâu đầy khẩn nài lão xốc lại cây đàn trên lưng và bước đi một cách khó nhọc.

Hazel theo cha. Nhưng Reddin đã bước lên chặn nàng lại.

“Hazel, nghe này! Em nói em không thích làm tổn thương. Em đang làm tổn thương tôi đấy!”

Nhìn khuôn mặt bơ phờ của gã, nàng biết những gì gã nói là sự thật.

Nàng dùng tay áo lau nước mắt.

“Đó đâu phải là lỗi của tôi. Tôi luôn làm tổn thương các thứ. Tôi không thể đặt chân vào vườn hay nấu chín một cái bắp cải mà không giết chết nhiều con ruồi bé nhỏ và nhiều thứ khác nữa. Và khi lấy mật ong, chúng tôi luôn làm đau những con ong. Tôi buộc phải làm tổn thương ông hoặc làm tổn thương Ed’ard, mà tôi thì không thể làm ổn thương Ed’ard được; anh ấy coi trọng tôi. Phải tận mắt thấy Ed’ard đặt những bông hoa anh thảo vào phòng tôi đêm qua ông mới hiểu được; đêm qua tôi đã ngủ tại nhà của mục sư đấy.”

Reddin nhăn nhó như thể đang phải chịu cảm giác đau đớn về thể xác.

“Và anh ấy còn mua tất cho tôi, những đôi tất mỏng, và cả một chiếc váy lót dài màu xanh da trời.”

Reddin đưa mắt nhìn quanh. Nếu như lúc đó không có đông người đi lại thì gã đã chộp lấy nàng ngay lập tức và đưa nàng về thẳng Undern.

“Tôi không thể làm tổn thương Ed’ard! Anh ấy rất tốt. Cáo Nhỏ cũng thích anh ấy; nó chẳng bao giờ gầm gừ với anh ấy.”

“Có lẽ,” Reddin nói, giọng khàn khàn, “Cáo Nhỏ sẽ thích tôi nếu tôi cho nó mấy cục xương.”

“Nó sẽ không thích đâu! Người ông có máu.”

Nàng lạnh lùng bước đi khi nhớ lại chi tiết đó, chi tiết mà trước đó đã bị xóa nhòa bởi sự đau khổ của Reddin.

“Người ông dính máu của nhiều con cáo nhỏ,” nàng nói và giọng của nàng tác động lên gã như làn mưa đá lạnh buốt – “bọn cáo nhỏ chết rất nhanh và dễ dàng dưới họng súng. Và ông đã đứng nhìn nhiều con cáo nhỏ bị băm sống.”

“Tôi sẽ từ bỏ việc đó nếu em bỏ tay mục sư.”

“Tôi ngạc nhiên là ban đêm ông không thấy chúng nhìn ông trong bóng tối bằng những con mắt màu vàng như những bông mao lương, và không thấy chúng đang hấp hối. Tôi ngạc nhiên là ông không thấy tiếng kêu khóc của chúng.”

Lý lẽ của gã không có tác dụng gì nữa, gã biết điều đó, nhưng vẫn tiếp tục van xin.

“Không. Nếu tôi không thề trước Núi Nhỏ thì tôi cũng sẽ không đến với ông đâu,” nàng nói. “Người ông có máu.”

Đúng lúc đó một người hàng xóm đánh xe qua và ngỏ ý cho Hazel đi nhờ. Nàng sắp kết hôn với một mục sư nên giờ đây nàng đã trở thành người được mọi người biết đến. Hazel leo lên xe rời khỏi đó, và khoảng khắc bi thương của Reddin lụi đi tựa như đám cháy lớn lụi thành tro tàn.

Gã về nhà trong tâm trạng nặng nề. Trên đường về gã đi qua nhà của mục sư của Edward và mẹ chàng đang ngủ ngon lành. Sự yên ả ngây thơ của tình yêu không vị kỷ bao bọc Edward, bởi chàng cảm thấy mình có thể làm cho Hazel hạnh phúc. Đêm đó, khi chìm vào giấc ngủ chàng đã nghĩ:

“Nàng sinh ra để làm vợ của một mục sư.”

Dựa người vào bức tường thấp, Reddin nhìn đăm đăm những bia mộ và ngôi nhà yên ắng dát ánh trăng bạc, lòng thầm nghĩ:

“Nàng sinh ra để dành cho ta.”

Cả hai người đàn ông đều nhìn nhận nàng là con người mà họ muốn nàng trở thành, chứ không phải là con người như nàng vốn có.

Những ý nghĩ trong lòng khiến khuôn mặt Reddin trở nên u tối khi gã đứng đó hết giờ này đến giờ khác trong cái lạnh của đêm tháng Năm. Khi gã đứng dựa người vào tường, sương muối phủ trắng đôi vai rộng của gã, và dưới ánh trăng, sương giá đậu trên những sợi tóc trắng ở hai bên thái dương của gã ánh lên trong đêm đen như giễu cợt thứ tình cảm nồng nàn của tuổi trẻ đang chiếm lĩnh gã.

Núi Nhỏ Của Chúa nhún vai trong giấc ngủ; những cánh rừng nằm úp mình trong đêm như những con thú bị đánh; những chiếc lá nhỏ mỏng manh rũ xuống trong sương giá.

Reddin vẫn đứng đó, rùng mình vì lạnh, chìm trong dòng suy nghĩ ủ ê.

Tận đến khi bình minh, tựa như một con dao, rạch góc trời phía Đông ứa máu, gã mới nhúc nhích.

Gã thở dài. “Quá muộn rồi!” gã nói.

Rồi gã bật cười cay đắng. “Bị đánh bại bởi một tay mục sư!”

Nỗi tức giận điên cuồng dâng trào trong gã. Gã nhặt một hòn đá, nhấc nó lên bằng cả hai tay và ném thẳng vào ngôi nhà. Hòn đá làm vỡ cửa kính phòng bếp. Nhưng trước khi Edward đi ra cửa sổ phòng chàng thì Reddin đã kịp biến mất trên đồi.

“Con à,” bà Marston nói giọng run rẩy, “mẹ luôn sợ những tai họa từ cuộc hôn nhân lạ lùng này.”

“Làm sao Hazel lại liên quan đến chuyện đó được, hả mẹ?”

“Con ạ, mẹ nghĩ đó là một dấu hiệu của Chúa. Vào sáng ngày diễn ra đám cưới của con! Kính vỡ! Đúng, đó là một dấu hiệu Chúa gửi đến chúng ta. Mẹ ước gì dấu hiệu đó không quá bạo lực như thế. Nhưng, tất nhiên, chỉ có Chúa mới biết rõ nhất.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.