Độc giả thân mến!
Thật không bình thường khi tác giả xen vào giữa chừng thế này, nhưng đến đây tôi thấy có điều cần phải nói.
Tất cả thông tin cần thiết để giải quyết bí ẩn giờ đã nằm trong tay các
bạn, và trên thực tế, gợi ý quan trọng cũng đã được cung cấp. Tôi thắc
mắc không biết các bạn có nhận thấy nó không? Nỗi sợ lớn nhất của tôi là có thể tôi đã tiết lộ với các bạn quá nhiều manh mối! Nhưng vì không
khí của trò chơi, và cũng muốn hỗ trợ phần nào cho các bạn, nên tôi mạnh dạn làm như vậy.
Để tôi thách đấu nhé: Tôi thách các bạn giải quyết được bí ẩn trước khi đến các chương cuối cùng!
Chúc các bạn may mắn.
Lời của Muathienkieu
Bạn đọc thân mến,
Mưa đang rất là tò mò đoán xem không biết có bạn nào từng đọc vụ con rắn
uống sữa của Sherlock chưa? Và đã có bạn nào đã đoán ra bí ẩn phía sau
vụ án của Tokyo Hoàng Đạo Án chưa?
Nếu chưa thì cùng mình theo dõi diễn biến phía sau nhé.
Còn bạn nào tò mò về vụ án của Sherlock thì hãy tìm đọc phần 13 – tập 1: Dải băng lốm đốm để biết thêm chi tiết nhé.
Mình xin trích một đoạn chính trong tập để bạn hiểu hơn:
“Toà nhà được xây bằng đá xám; phần giữa cao, còn hai chái xây cong. Mấy
khung cửa sổ ở một bên chái đã vỡ, nên phải bít lại bằng những thành gỗ. Ngói trên mát sút lở nhiều chỗ. Một cảnh tường đổ nát phơi bày trước
mắt chúng tôi. Phần giữa nhà khá hơn ít nhiều ; nhưng hiện đại hơn cả
vẫn là khối bên phải. Những tấm rèm trên mấy khung cửa sổ và làn khói
bay lên từ mấy cái lò sưởi cho thấy cả gia đình hiện sống tại phần này.
Holmes đi đi lại trên bãi cỏ, chăm chú ngắm nhìn phía ngoài mấy khung
cửa sổ.
– Tôi đoán cửa sổ này là cửa phòng ngủ trước đây cô sử dụng;
cái chính giữa là phòng của chị cô, còn cái kế cận với toà nhà chính là
phòng của bác sĩ Roylott, đúng không, thưa cô?
– Vâng, đúng rồi. Nhưng tôi hiện phải ngủ tại căn giữa.
– Chỉ tạm thời trong lúc sửa chữa thôi, nếu tôi không lầm. à luôn tiện
cũng xin hỏi: hình như chẳng việc gì phải sửa chữa gấp như vậy thì phải. Vì tôi thấy bức tường ở đầu nhà còn chắc lắm mà.
– Đúng vậy. Tôi tin chắc đó chỉ là cái cớ để bắt tôi phải chuyển phòng thôi.
– à! Có thể đúng thế thật. Nay, mặt trong cái chái hẹp này có một dãy
hành lang mà cả ba phòng ngủ đều ăn thông ra, phải không? Bên phía đó
chắc cũng phải có cửa sổ chứ?
Vâng, nhưng nhỏ lắm. Nhỏ đến nỗi không một ai có thể chui qua được.
– Vậy là từ mặt đó, không một ai có thể lọt vào phòng hai chị em cô, nếu
đêm nào các cô cũng khoá chặt cửa. Bây giờ, cô làm ơn vào phòng cô và
đóng chặt mấy cánh cửa chắn lại nhé.
Cô Stoner làm theo lời Holmes, và anh cố tìm mọi cách thử mở cánh cửa chắn, nhưng vô hiệu.
Hừm! – anh nói – Giả thuyết đầu của tôi như vậy là đã bị loại bỏ. Không một
ai có thể chiu qua ngả này, nếu cửa chắn đã bị cài chặt. Được rồi, bây
giờ thì ta thử vào phía trong, xem có phát hiện được gì mới không.
Một cánh cửa nhỏ bên hông dẫn vào hành lang mà cửa của ba phòng ngủ đều ăn
thông ra. chúng tôi vào căn phòng thứ nhì, hiện là phòng ngủ của cô
Stoner và cũng là nơi chị cô đã gặp tai hoạ. Đó là một căn phòng nhỏ, đủ tiện nghi, trần thấp và có một lò sưởi lớn. Một cái tủ gỗ nâu đựng quần áo, có ngăn kéo, kê ở một góc phòng; còn góc kia là một cái gường trắng hẹp và một cái bàn con đặt bên trái cửa sổ. Hết thảy những thứ vừa kể
cùng hai chiếc ghế dựa là toàn bộ đồ đạc trong phòng, nếu không kể tới
tấm thảm trải giữa sàn. Holmes đặt vào góc phòng một chiếc ghế, ngồi
xuống im lặng nhìn quanh toàn bộ căn phòng, không bỏ sót một chi tiết
nào.
Sợi dây kéo chuông này ăn thông vào đâu?- mãi sau, anh mới lên
tiếng, tay chỉ vào một sợi dây giật chuông cỡ lớn buông thõng xuống sát
đầu giường.
– Nối với phòng người quản gia.
– Trông có vẻ mới hơn mọi thứ vật dụng trong phòng.
– Vâng. Vì mới được lắp cách đây vài năm.
– Chắc chị cô đòi mắc?
– Không tôi chẳng bao giờ thấy chị tôi giật chuông cả. chúng tôi toàn tự tay làm lấy mọi việc, vì nhà không nuôi người hầu.
– Xin lỗi cô mấy phút nhé, tôi muốn xem kỹ thêm sàn căn phòng một chút.
Anh bò tới bò lui, xem xét cẩn thận từng đường rãnh những tấm ván lát sàn.
Cuối cùng, anh đến cạnh giừơng ngủ, nhìn chằm hằm một lúc, rồi lại đưa
mắt nhìn bức tường từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên. Đoạn, anh
cầm lấy dây chuông giật mạnh một cái.
– Sao không nghe chuông reo gì
cả? Thậm chí nó cũng chẳng được nối vào sợi dây thép kéo chuông. Lạ
thật! Cô nhìn kìa, sợi dây thậm chí chỉ buộc vào một cái móc sắt nằm
ngay phía trên cửa thông gió.
– Thật vô lý quá! Vậy mà lâu nay tôi chẳng để ý.
– Rất kỳ lạ! Holmes vừa lẩm bẩm, vừa giật sợi dây. Căn phòng này có một
vài điểm rất kỳ quặc. Chẳng hạn, gã thợ xây hẳn phải điên rồi lắm mới
trổ cửa thông hơi sang phòng bên cạnh; lẽ ra hắn có thể trổ ra ngoài;
cũng chỉ mất chừng ấy công thôi.
– Cái này cũng mới làm gần đây – cô tiểu thư nói
– Chắc làm cùng lúc với sợi dây kéo chuông – Holmes nhận xét.
– Vâng dạo đó có một số thay đổi nhỏ trong nhà.
– Cô Stoner, cô vui lòng cho chúng tôi sang phòng ông bác sĩ xem qua một chút.
Phòng bác sĩ Roylott rộng hơn phòng hai cô con riêng của bà vợ trước, nhưng
đồ đạc bài trí rất đơn sơ. Chỉ có một cái giừơng, một giá sách nhỏ bằng
gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một giá sách nhỏ bằng gỗ, một cái
ghế bành kê cạnh giường, một cái ghế xếp đặt sát tường, một cái bàn tròn và một tủ sắt lớn. Holmes thong thả đi quanh phòng, xem hết sức kỹ
lưỡng từng món đồ đá.
– Tủ này đựng gì? Holmes vừa hỏi gõ vào chiếc tủ sắt.
– Giấy tờ làm ăn của bố dượng tôi.
– ồ, thế ra cô đã có dịp nhìn vào bên trong?
– Chỉ một lần duy nhất, cách đây vài năm. Tôi nhớ là trong tủ đầy ắp giấy tờ.
– Ông ta có nuôi gì trong đó không? Như mèo chẳng hạn.
– Không, ông hỏi gì lạ thế!
– Thề thì cô nhìn đây! – Anh cầm lên một cái đĩa lót tách nhỏ, đựng sữa, đặt trên nóc tủ.
– Không, chúng tôi không nuôi mèo. Nhưng có một con báo bờm và một con khỉ đầu chó.
à, vâng. Dĩ nhiên! Báo bờm chẳng qua chỉ là một con mèo lớn xác thôi.
Nhưng tôi nghĩ rằng đĩa sữa nhỏ này e khó lòng chu cấp đủ cho con vật
đó. Còn một điểm nữa tôi muốn làm sáng tỏ – Anh lấy kính lúp ra soi lên
mặt chiếc ghế gỗ, xem xét mặt ghế hết sức kỹ lưỡng.
– Cảm ơn cô. Thế là rõ rồi, anh vừa nói vừa đứng dậy, cất chiếc kính lúp vào túi. Chà! Món này lý thú đây!
Vật khiến anh chú ý là chiếc roi nhỏ, treo trên góc giường. Tuy nhiên,
chiếc roi ấy bị uốn cong ở đầu mút, rồi thắt lại thành một vòng tròn.
– Watson, anh nghĩ gì về món này?
– Đó chí là một cái roi cũng bình thường thôi. Có điều tôi không hiểu tại sao lại thắt vòng ở đầu mút.
– Chẳng bình thường lắm đâu, anh không thấy sao? Tôi nghĩ tôi xem xét
xong rồi đấy, cô Stoner ạ. Điều hết sức hệ trọng là từ bây giờ, cô nhất
nhất phải làm đúng những điều tôi khuyên. Vụ này nghiêm trọng lắm, ta
không được chần chừ một phút nào nữa. Tính mạng của cô tuỳ thuộc cô đấy.
– Tôi xin phó thác hết cho ông.
– Trước hết, đêm nay cả hai chúng tôi phải ở lại trong phòng cô.Cả tôi lẫn cô Stoner đều kinh ngạc trố mắt nhìn anh.
– Vâng, phải như thế mới được. Để tôi cắt nghĩa. Chắc ở đằng kia là cái quán trọ của vùng này?
– Vâng, đó là quán trọ Crown Inn.
– Rất tốt. Từ đó nhìn sang có thể thấy được cửa sổ căn phòng cô không?
– Thấy được chứ.
– Khi nào bố dượng cô về, cô không được ra khỏi phòng, lấy cớ là cô bị
nhức đầu. Bao giờ nghe thấy lão sửa soạn đi ngủ, thì cô hãy mở ngay cửa
sổ, đặt lên bậu một ngọn đèn để báo hiệu cho chúng tôi . Xong xuôi, cô
mang hết những gì mình cần sang bên phòng cũ của cô. Tôi tin chắc rằng,
tuy đang sửa chữa, cô vẫn có thể nghỉ tạm một đêm bên đó.
– Vâng, chuyện đó chẳng có gì khó.
– Phần còn lại cô cứ để mặc chúng tôi lo liệu.
– Nhưng các ông sẽ làm gì
– chúng tôi sẽ ngồi bên căn phòng mới của cô để tìm cho ra nguyên nhân của những tiếng động đã quấy rầy cô.
– Ông Holmes, tôi tin rằng ông đã đi đến được một kết luận – cô Stoner vừa nói vừa đặt tay lên ống tay áo của bạn tôi.
– Có lẽ cô đúng.
– Vậy xin ông cho tôi biết tại sao chị tôi chết.
– Trước lúc cho cô biết, tôi muốn có những bằng chứng hiển nhiên hơn.
– ít nhất ông cũng có thể cho tôi biết là tôi đoán định như vậy có đúng không: chị tôi chết vì nỗi hoảng sợ quá đột ngột?
– ồ không, tôi không cho là vậy. Tôi nghĩ là có một nguyên nhân cụ thể
hơn nhiều . Còn bây giờ, chúng ta phải tạm biệt nhau, vì nếu bác sĩ
Roylott quay về mà bắt gặp chúng tôi ở đây, thì chuyển đi này coi như
uổng công. Tạm biệt cô, cô hãy can đảm lên nhé! Nếu cô làm đúng những gì tôi dặn, cô có thể tin rằng chúng tôi sẽ sớm loại bỏ những hiểm hoạ
đang rình rạp cô.
Sherlok Holmes và tôi thuê một phòng ngủ và một
phòng khách tại quán trọ Crown Inn. Cả hai đều nằm ở tầng trên cùng, nên chúng tôi có thể nhìn rõ dãy nhà đang được sử dụng trong trang trại
Stoke Moran. Vào lúc nhá nhem tối, chúng tôi thấy chiếc xe ngựa chở bác
sĩ Grimesby Roylott chạy ngang qua cửa sổ phòng trọ. Vóc người lão trông càng cao lớn bên cạnh cậu xà ích bé nhỏ. Đến cổng, cậu đánh xe loay
hoay một lúc mới mở được hai cánh cổng sắt nạng, và chúng tôi nghe được
cái giọng khàn của bác sĩ Roylott gầm lên, trong khi lão giận dữ khua
hai nắm đấm trước mũi cậu xà ích. Cỗ xe chạy qua cổng và chỉ một lát
sau, chúng tôi đã thấy giữa lùm cây loé lên một ánh đèn mới thắp trong
một phòng khách tại nhà lão.
– Watson ạ, quả tình tôi chưa dám chắc
đêm nay có nên đưa anh đi cùng hay không – Holmes nói khi chúng tôi đang ngồi bên nhau trong bóng tối – Tình hình chắc sẽ nguy hiểm lắm!
– Tôi có thể giúp ích cho anh chút nào không?
– Có anh đi cùng là rất quí.
– Vậy thì tôi nhất định sẽ đi cùng anh.
– Cám ơn, anh tốt quá.
– Anh có nói đến nguy hiểm. Chắc chắn là anh đã phát hiện được nhiều điều trong những căn phòng đó hơn tôi.
– Không, tôi nghĩ rằng tôi chỉ rút ra được nhiều kết luận hơn anh thôi.
Tôi cho rằng anh cũng đã trông thấy những gì tôi trông thấy.
– Tôi chẳng phát hiện được gì đáng chú ý, ngoại trừ sợi dây giật chuông. Tôi không hình dung nổi sợi dây đó được dùng làm gì.
– Anh cũng nhìn thấy cả cái lỗ thông gió chứ?
– Có. Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng có gì kỳ lạ là có một lối hở nhỏ giữa hai phòng. Nó nhỏ tới mức một con chuột nhắt cũng khó chui quá.
– Tôi biết trước thế nào chúng ta cũng phát hiện được cái lỗ thông gió đó ngay từ khi chưa đến Stoke Moran.
– Thế thì hơi quá đây, anh Holmes thân mến ạ.
– ồ, đúng thế. Anh không nhớ là cô Stoner cho biết chị cô ấy có lần ngửi
thấy mùi khói xì gà của lão bác sĩ Roylott hay sao? Điều đó cho thấy
ngay rằng giữa hai căn phòng tất phải có một lối thông sang nhau. Có
điều cái lối thông đó phải rất nhỏ, nếu không thì viên dự thẩm đã nhận
thấy. Tôi rút ra kết luận: đó chỉ là một cái lỗ thông gió.
– Nhưng cãi lỗ đó thì phỏng có hại gì?
– ồ, ít ra cũng có sự trùngkhớp đáng lưu ý giữa các sự việc: người ta trổ một cái lỗ cửa thông gió ngay phía trên đầu giường, người ta treo một
sợi dây giật chuông lên, thế là cô gái ngủ trên cái giường kia chết. Anh không thấy sự trùng khớp đó là kỳ lạ?
– Tôi vẫn chưa thấy những cái đó có gì dính dáng với nhau.
– Thế anh không thấy có gì kỳ lạ nơi chiếc giường ngủ kia sao?
– Không.
– Chân giường được gắn chặt vào sàn nhà. Đã bao giờ anh thấy một kiểu kê giường như thế chưa?
– Có lẽ chưa bao giờ.
– Cô gái không thể di chuyển được cái giường. Nó luôn được đặt cố định
bên dưới lỗ thông gió và sợi dây thừng. Chúng ta có thể gọi đó chỉ là
sợi thừng , vì người ta treo nó lên không phải để giật chuông.
– Anh
Holmes- tôi reo lên – Bây giờ như tôi đã hiểu được lờ mờ những gì anh
muốn nói. Vậy là chúng ta đã có mặt vừa kịp thời để chặn đứng một tội ác khủng khiếp.
– Phải, cũng khá khủng khiếp . Nhưng chúng ta sẽ còn
phải nếm đủ mùi khủng khiếp chừng nào đêm nay còn chưa trôi qua. Cho
nên, ta hãy bình tâm thưởng thức những tẩu thuốc này và nghĩ tới một cái gì đó vui hơn trong vài tiếng đồng hồ,
Khoảng chín giờ tối, ánh đèn
giữa các lùm cây vụt tắt, cả trang trại bỗng chìm vào bóng tối. Hai
tiếng đồng hồ nữa chậm chạp trôi qua, rồi thình lình một ánh đèn đơn độc đã loé sáng phía trước.
– Đó là ám hiệu của chúng ta -Holmes nói, rồi đứng bật dậy – ánh đèn phát ra từ cánh cửa sổ ở giữa.
Lát sau, chúng tôi đã xuống đường. Trời tối, gió lạnh quạt vào mặt. ánh đèn vàng ệch đằng trước soi đường cho chúng tôi trong đêm tối. Chúng tôi
lách qua giữa những gốc cây, đến chỗ bãi cỏ, rồi băng qua nó. Khi chúng
tôi sắp trèo qua cửa sổ, thì từ trong những bụi rậm gần đó bỗng lao tới
một quái vật tựa như một đứa bé dị dạng. Nó gieo mình xuống đất, trụ lại trên bốn cẳng chân co quắp, rồi lao qua bãi cỏ, mất hút vàp bóng đêm.
– Trời ơi! – tôi rỉ tai Holmes – Anh có trông thấy gì không?
Trong khoảng một phút đồng hồ Holmes cũng hoảng sợ như tôi. Rồi anh cười khẽ và thì thầm vào tai tôi:
– Một cơ ngơi thật khả ái. Con khỉ đầu chó đó.
Tôi đã quên khuấy mất lũ ”gia súc“ kỳ quặc của lão bác sĩ hiểm độc. Thú
thực, tôi cảm thấy nhẹ cả người, khi noi gương Holmes, cởi giày và trèo
qua cửa sổ vào phòng. Bạn tôi khẽ đóng cánh cửa chắn lại, đặt ngọn đèn
lên bàn, rồi đảo mắt nhìn quanh phòng. Mọi thứ vẫn y nguyên như hồi
chiều. Rồi anh rón rén tiến lại gần tôi, rỉ tai tôi, giọng khẽ đến mức
khó lòng nghe rõ được từng lời:
– Chỉ một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể khiến những dự tính của chúng ta tiêu ma.
Tôi gật đầu để cho Holmes biết là tôi đã nghe thấy.
– Chúng ta phải tắt đèn ngay. Lão có thể phát hiện được ánh sáng qua lỗ cửa thông gió trên kia.
Tôi lại gật.
– Nhớ đừng ngủ gật nhé. Mạng sống của anh đang tuỳ thuộc vào đó. Chuẩn bị khẩu súng để khi cần, ta có thể ra tay. Tôi sẽ ngồi ở mép giừơng; còn
anh, hãy ngồi tạm xuống chiếc ghế kia.
Tôi lấy khẩu súng ngắn ra, đặt lên góc bàn.
Holmes có mang theo một cây gậy dài, mảnh. Anh đặt nó lên mặt giừơng, sát bên
tầm tay. Cạnh đó, anh đặt một bao diêm và một cây nến; xong xuôi, anh
tắt đèn, và chúng tôi ngồi im trong bóng tối.
Chắc chẳng bao giờ tôi
quên được cái đêm mất ngủ khủng khiếp đó! Tôi không thể nghe được một âm thanh nào, thậm chí cả tiếng thở. Tôi biết bạn tôi đang ngồi cách mình
mấy bước, mắt mở trừng trừng và cũng đang trong trại thái thần kinh cẳng thẳng như tôi. Cánh cửa chắn ngăn hết mọi thứ ánh sáng, chúng tôi ngồi
trong bóng tôi dày đặc. Bên ngoài chốc chốc lại vọng vào tiếng chim ăn
đêm; và có một lần vang lên một tiếng hú dài tựa tiếng mèo kêu: hẳn là
con báo bờm đã được thả. Từ xa vẳng lại tiếng chuông nhà thờ điểm giờ:
cứ mười lăm phút lại buông một tiếng trầm trầm. Ôi, những khoảng thời
gian mười lăm phút đó sao mà dài thế! Đồng hồ điểm mười hai giờ, một
giờ, hai giờ, rồi ba giờ.. ., và chúng tôi vẫn im lặng ngồi đợi xem điều gì sẽ xảy ra.
Bỗng một ánh lửa loé lên từ bên kia lỗ cửa thông gió,
rồi vụt biến mất ngay. Sau đó mùi dầu cháy và mùi sắt nung khé tlẹt bay
sang. Ai đó ở phòng bên đã châm đèn. Tôi nghe một tiếng di động rất khẽ, rồi tất cả lại chìm vào im lặng, tuy mùi khét mỗi lúc một nồng nặc.
Suốt nửa giờ tôi căng tai nghe ngóng. Rồi thình lình tôi nghe một tiếng
động khác, rất khẽ, tựa như tiếng luồng hơi nước thoát ra từ một ấm đun
nước. Đúng vào lúc tôi nghe thấy âm thanh đó, thì Holmes đứng bật dậy,
đánh diêm và giận dữ vụt cây gậy tới tấp vào sợi dây giật chuông.
– Anh có thấy nó không, Watson? – anh rít lên – Anh có thấy nó không?
Nhưng tôi chẳng thấy gì cả. Vào lúc Holmes đánh diêm, tôi nghe thấy có tiếng
huýt sáo khẽ, nhưng rõ.Tuy vậy, ánh lửa ở đầu que diêm đột ngột loé sáng đập vào cặp mắt mệt mỏi của tôi, khiến tôi không thể nói đích xác bạn
tôi đang đạp tới tấp vào cái gì. Tuy vậy, tôi có thể thấy rõ mặt anh tái nhợt như một xác chết và đầy kinh hãi. Anh ngừng tay, ngước nhìn chằm
chằm vào lỗ cửa thông gió, rồi giữa cảnh im ắng của đêm khuya bỗng vang
lên một tiếng rú kinh hoàng mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng rú mỗi lúc một to hơn, một tiếng rú khàn khàn, chứa đầy đau đớn, sợ hãi và phẫn nộ. Tôi đứng nhìn trừng trừng vào Holmes, còn anh thì nhìn tôi,
cho tới lúc những tiếng vọng cuối cùng của tiếng rú kia chìm vào cảnh im ắng của đêm khuya như ban nãy.
– Thế nghĩa là thế nào? – tôi thở dốc.
– Thế nghĩa là mọi chuyện đã kết thúc, – Holmes đáp – và xét cho cùng,
kết thúc như thế là hay hơn cả. Anh cầm súng lên, chúng ta sẽ vào phòng
bác sĩ Roylott.
Vẻ mặt trang nghiêm, anh châm đèn lên và bước ra hành lang. Tôi đi ngang anh sáng phòng bên. Anh gõ cửa hai lần, nhưng bên
trong không có tiếng đáp. Anh vặn quả đấm, rồi đi vào phòng. Tôi vào
theo, súng lăm lăm trong tay.
Một cảnh tường kỳ lạ đập vào mắt chúng
tôi. Trên bàn đặt một ngọn đèn, hắt ánh sáng chói gắt lên chiếc tủ sát
với cánh cửa đang hé mở. Ngồi trên chiếc ghế gỗ kê cạnh đó là bác sĩ
Grimesby Roylott mình choàng chiếc áo chùng màu xám; và vắt ngang trên
đùi lão là chiếc roi mà chúng tôi đã để ý tới hồi chiều. Cằm lão ta hếch lên, còn đôi mắt thì nhìn trừng trừng vào một góc trần nhà: một cái
nhìn bất động trông rất khủng khiếp. Quanh đầu lão quấn một dải băng màu vàng kỳ dị, điểm những đốm màu nâu sẫm. Khi chúng tôi bước vào, lão vẫn ngồi im lặng và bất động.
Dải băng! Dải băng lốm đốm! Holmes khẽ thốt lên.
Tôi bước tới một bước. Ngay trong khoảnh khắc đó, dải băng bắt đầu chuyển
động. Từ đám tóc của bác sĩ Roylott ngóc lên một cái đầu có cạnh và cái
cổ ngẳng của một con rắn gớm ghiếc.
– Đó là giống rắn độc đầm lầy! –
Holmes kêu lên – Độc hơn bất cứ giống nào ở ấn Độ. Lão ta chết mười giây sau khi bị rắn cắn. Anh hãy nhốt ngay con rắc độc kia vào tủ sắt đã,
rồi đưa cô Stoner đến một nơi an toàn; xong đi báo cảnh sát địa phương.
Anh vừa nói, vừa rút vội cây roi trên đùi viên bác sĩ. Anh tròng đầu roi vào cổ rắn, thắt lại, rồi nhốt rắn vào tủ, đóng lại.
Đó là sự kiện đích thực về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott ở Stoke
Moran. Trên đường về vào sáng hôm sau, Holmes nói thêm cho tôi rõ những
việc còn lại mà tôi chưa biết về vụ này.
– Ban đầu, tôi đã kết luận
hoàn toàn sai – anh nói. Điều đó cho thấy, Watson thân mến, sẽ nguy hiểm biết chừng nào khi lý giải mà chưa có đủ thông tin. Không còn nghi ngờ
gì nữa, chính việc cô gái tội nghiệp nọ đã dùng dải băng đễ diễn tả
những gì cô trông thấy nhờ ánh sáng của que diêm và cả sự có mặt của đám Di gan trong trang trại – hai thứ đó đã gợi ra trong đầu tôi một ý nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nhưng tôi đã gạt bỏ ngay giả thuyết đó khi hiểu rõ
rằng không thể có một hiểm hoạ nào đe doạ cô ấy từ phía cửa sổ và cửa ra vào. ý nghĩ của tôi nhanh chóng đổ dồn vào cái lỗ thông gió và sợi dây
giật chuông thõng xuống đầu giường, như tôi đã có lưu ý với anh.Tôi còn
phát hiện thêm được rằng sợi dây nọ chỉ là đồ giả và chiếc giường ngủ bị gắn chặt vào gỗ lát sàn. những chi tiết đó khiến tôi nghĩ ngay; sợi dây kia chỉ là một thức cầu nối, giúp cho một vật đi từ lỗ thông gío xuống
giường ngủ. Tôi đoán đó phải là một con rắn, vì biết lão bác sĩ có nhận
một số giống vật từ ấn Độ gửi sang.Tôi cảm thấy hình như mình đã lần ra
đầu mối. Rồi tôi nghĩ tới tiếng huýt sáo. Dĩ nhiên lão phải gọi con rắn
kia về trước khi trời sáng, để khỏi bị nạn nhân phát hiện. Lão đã luyện
cho nó chắc là bằng đĩa sữa mà chúng ta đã thấy, khi nghe tiếng huýt sáo mà lão gọi. Lão chỉ cho nó leo qua lỗ thông gió vào thời điểm thích
hợp, và biết rằng nó sẽ theo sợi dây mà bò xuống đầu giừơng. Con rắn có
thể cắn người ngủ trên giừơng, mà cũng có thể không. Đêm đêm, cô gái có
thể thoát chết trong vòng một tuần nhưng sớm muộn gì rồi cũng bị nó cắn.
Tôi đã đi đến những kết luận đó trước khi đặt chân vào phòng lão. Khi quan
sát mặt ghế, tôi thấy lão hay đứng lên đó. Lão nhất thiết phải làm vậy,
vì không thể nào với tay tới lỗ cửa thông gió sát trên trần nhà. Cái tủ
sắt, đĩa sữa và ngọn roi đã đủ để xua tan những ngờ vực còn lảng vảng
trong trí tôi. Tiếng động mạnh do một vật bằng kim loại phát ra, mà cô
Stoner nghe được, rõ ràng do ông bố dượng gây ra: lão cần đóng mạnh cánh cửa sắt để nhốt con vật nuôi đáng sợ đó. Sau khi đã đi đến những kết
luận đó, tôi liền tiến hành việc chứng minh, nhưng anh đã thấy đó. Khi
nghe được những tiếng động rất khẽ mà tôi nghĩ chính anh cũng nghe rõ,
tôi lập tức thắp đèn lên và tấn công con vật“.
– kết quả là anh đã đuổi nó bò trở lại lỗ thông gió.
Và cũng chính bằng cách đó, tôi đã xua nó về lại với ông chủ đang ngồi ở
phòng bên. Bị đánh tới tấp, con rắn trúng gậy mấy lần, nó nổi giận và
tấn vào kẻ đầu tiên mà nó chạm trán trên đường về. Và chính vì vậy,
không còn ngờ vực gì nữa, tôi gián tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott. Nhưng chắc là việc đó chẳng đè nặng lên lương
tâm tôi lắm đâu.”