Titanic - Trong Vũ Trụ

Chương 28



ĐẠI DƯƠNG

HAI MƯƠI TÁM

Một ngôi sao chổi vệt vòng cung lên trời và tan thành nhiều mảng sáng lấp lánh. Emma hít sâu kinh ngạc, cảm nhận mùi gió trên vịnh Galveston. Mọi việc khi trở về dường như đều mới mẻ và lạ lẫm với cô. Đây là bức tranh toàn cảnh trọn vẹn của bầu trời. Sàn thuyền lắc lư dưới lưng cô. Tiếng nước ì oạp vỗ vào mạn thuyền Sanneke. Đã lâu lắm rồi cô không được tận hưởng điều đơn giản trên trái đất, vì vậy khi gió nhẹ mơn man trên mặt, cô cảm thấy đó là điều thật quý giá. Trong suốt những tháng bị cách ly trên Trạm vũ trụ, cô đã nhìn xuống trái đất, thấy nhớ nhà, thèm được ngửi mùi cỏ, vị mặn của biển trong không khí, hơi ấm của đất dưới chân. Cô đã nghĩ khi mình trở về nhà, nếu được trở về lần nữa, mình sẽ không bỏ nó nữa.

Giờ cô đã ở đây, tận hưởng cảnh đẹp và mùi vị của trái đất. Nhưng cô vẫn không thể ngăn mình tiếc nuối nhìn những vì sao.

– Em có bao giờ ước được quay lại đó không? – Jack nói khẽ đến nỗi những lời của anh như tan trong gió. Anh nằm cạnh cô trên boong tàu Sanneke, tay anh nắm chặt tay cô. Anh cũng nhìn lên bầu trời.

– Em có bao giờ nghĩ “nếu họ cho mình một cơ hội lên đó lần nữa, mình sẽ nắm lấy nó” không?

– Ngày nào em cũng nghĩ vậy. – cô lẩm bẩm. – Anh thấy có lạ không? Khi lên đó, chúng ta chỉ nói về việc trở về. Và giờ khi đã trở về, chúng ta luôn nghĩ về việc được lên đó lần nữa. – cô lướt các ngón tay trên trái dương, ở đó những sợi tóc ngắn hơn đang mọc trở lại và có màu bạc kỳ lạ. Cô vẫn cảm thấy một vết sẹo ở chỗ dao mổ của Jack đã cắt qua da và cân bọc sọ. Nó sẽ mãi nhắc nhở cô về việc cô đã được cứu sống trên trạm như thế nào. Đó cũng là một nỗi sợ lâu dài ăn sâu vào da thịt cô. Nhưng cô vẫn nhìn lên trời, cô lại thấy thèm được bay lên đó.

– Em nghĩ em sẽ luôn hy vọng có một cơ hội nữa. – cô nói. – Như những người thủy thủ vẫn muốn trở lại biển, cho dù chuyến đi khủng khiếp đến mức nào. Hay thậm chí họ còn âu yếm hôn đất khi cập bến. Họ vẫn nhớ biển và muốn quay lại.

Nhưng cô sẽ không bao giờ quay trở lại vũ trụ. Cô như một thủy thủ bị giữ chặt chân trên đất liền, xung quanh cô là biển cả, đày đọa và cấm đoán cô. Nó sẽ mãi tuột khỏi tầm tay cô vì Chimera.

Mặc dù các bác sĩ ở Houston và Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm không phát hiện thấy bất cứ dấu hiệu nhiễm bệnh nào trong cơ thể cô nhưng họ không chắc Chimera đã bị tiêu diệt hoàn toàn chưa. Có thể nó đang ngủ đông và sống ký sinh trong cơ thể cô. Không ai ở NASA đoán được sẽ có chuyện gì khi cô được bay lên vũ trụ.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www. gacsach. com. – gác nhỏ cho người yêu sách]

Vì vậy cô sẽ không bao giờ được quay lại. Giờ cô đã là cái bóng của một phi hành gia, không hy vọng được thêm một nhiệm vụ bay nào. Cô để mặc những người khác theo đuổi giấc mơ của họ. Một phi hành đoàn mới đã được đưa lên trạm để hoàn tất việc sửa chữa và tiếp tục dọn dẹp ô nhiễm sinh học mà cô và Jack đã làm. Tháng sau, các mảnh cuối cùng của tấm năng lượng mặt trời bị vỡ sẽ được đưa lên tàu Columbia. Trạm vũ trụ quốc tế sẽ không chết. Đã có quá nhiều người chết để biến Trạm vũ trụ thành sự thật, việc bỏ trạm lúc này nghĩa là đã có những người hy sinh vô ích.

Một ngôi sao chổi khác vụt qua, rồi lao xuống như một hòn than trước khi vụt tắt. Cả hai đều chờ và hy vọng có một ngôi sao chổi khác. Những người khác nhìn thấy sao chổi có thể nghĩ chúng là điềm gở, hay các thiên thần từ trên trời rơi xuống, hay coi đó là cơ hội ước một điều gì đó. Emma nhìn nhận chúng theo đúng bản chất của chúng: đó là các mảnh vụn trong vũ trụ, những người thích ngao du bất trị muốn trốn khỏi vòng tay lạnh lẽo và tối tăm của vũ trụ. Dù chỉ là đá và băng nhưng chúng vẫn không kém phần kỳ diệu.

Khi cô nghiêng đầu nhìn bầu trời, chiếc thuyền Sanneke chòng chành vì một cơn sóng lớn. Cô có ảo giác những ngôi sao đang lao về phía mình và cô đang lao vút đi qua không gian và thời gian. Cô nhắm mắt. Đột nhiên tim cô đập mạnh vì sợ hãi. Cô thấy mồ hôi lạnh trên má.

Jack nắm lấy bàn tay run rẩy của cô.

– Có chuyện gì vậy? Em lạnh à?

– Không, không phải lạnh. – cô nuốt khan. – Em bỗng thấy một việc khủng khiếp.

– Gì vậy?

– Nếu Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đúng rằng Chimera đến trái đất trên mảnh thiên thạch thì điều đó chứng tỏ có sự sống ở đó.

– Đúng vậy. Nó đã chứng minh điều đó.

– Nếu có sinh vật thông minh thì sao?

– Chimera quá nhỏ, quá nguyên thủy. Nó không có trí khôn.

– Nhưng nếu có ai đó đưa nó đến đấy có trí khôn thì sao? – cô thì thầm.

Jack nằm im bên cô.

– Một cuộc xâm chiếm thuộc địa. – Anh khẽ nói.

Như những hạt cát bay theo gió. Chimera hạ cánh ở bất cứ đâu, trên bất cứ hành tinh nào, trong bất kỳ hệ mặt trời nào thì nó sẽ gây bệnh cho các sinh vật gốc và lấy ADN vào nhiễm sắc thể của nó. Nó sẽ không cần hàng triệu năm để thích nghi với nơi ở mới của nó. Nó có thể lấy các mã gen mới từ các động vật sống ở đó để thành công cụ tồn tại.

Và một khi đã ổn định, một khi đã trở thành sinh vật thống trị trên hành tinh mới thì sao? Bước tiếp theo của nó là gì. Cô không biết. Cô nghĩ câu trả lời chắc chắn nằm trong các đoạn trong nhiễm sắc thể của Chimera mà họ vẫn chưa xác định được. Chức năng của các đoạn ADN tiếp theo vẫn còn là bí ẩn với họ.

Một ngôi sao băng khác lại vụt qua bầu trời. Nó cho thấy vũ trụ luôn vận động và biến đổi thất thường. Và trái đất là người du lịch duy nhất qua vũ trụ bao la.

– Chúng ta phải sẵn sàng. – cô nói. – Trước khi sinh vật Chimera tiếp theo đến.

Jack ngồi dậy nhìn đồng hồ.

– Trời sắp lạnh, ta về nhà thôi! Gordon sẽ nổi điên nếu chúng ta vắng mặt tại cuộc họp báo ngày mai.

– Em chưa bao giờ thấy ông ấy nổi giận.

– Em không hiểu ông ấy bằng anh. – Jack bắt đầu kéo mạnh dây neo. Buồm chính căng lên, thổi phồng trong gió. – Ông ấy đã yêu em đấy, em biết không?

– Gordie á? – cô cười. – Em không thể tưởng tượng nổi.

– Và em biết anh không thể tưởng tượng nổi việc gì không? – Anh nói khẽ rồi kéo cô lại gần anh trong buồng lái. – Rằng lại có người đàn ông nào mà không yêu em.

Gió bỗng nổi lên, buồm căng, thuyền Sanneke lao về trước, xẻ dọc làn nước trên vịnh Galveston.

– Sẵn sàng lên đường! – Jack hét. Anh lái tàu đi trong gió, quay mũi về phía tây. Họ không chỉ được các vì sao dẫn đường mà còn có ánh sáng trên bờ.

Ánh sáng từ ngôi nhà của họ.

TỪ VIẾT TẮT

NASA có một tên không chính thức là “Hãng chuyên nói tắt quốc gia”. Việc đó có nguyên nhân của nó. Những cuộc nói chuyện giữa các nhân viên ở NASA thường pha trộn những từ nói tắt, chữ viết tắt đó được sử dụng nhiều đến nỗi có thể bạn nghĩ họ đang nói một thứ tiếng lạ. Dưới đây, tôi xin giải nghĩa vài từ viết tắt và thuật ngữ được sử dụng nhiều lần trong truyện Gravity.

AFB: Lực lượng Không quân.

ALSP: Bộ dụng cụ hỗ trợ cấp cứu, đây là hộp dụng cụ y tế trên tàu để cung cấp các phương tiện cấp cứu trợ tim cao cấp.

APU: Bộ nguồn chính.

ASCR: Đảm bảo đưa phi hành đoàn trở về an toàn, đây là chế độ sử dụng phần mềm điều khiển trên Trạm vũ trụ quốc tế giúp hỗ trợ việc tách và phóng phương tiện di dời khẩn cấp.

ATO: Đốt nhiên liệu để vào quỹ đạo, đây là chế độ cho phép tàu đạt được một tốc độ nhất định nào đó trước khi quay trở về trái đất.

CAPCOM: Chỉ huy liên lạc với tàu.

CCPK: Bộ dụng cụ bảo vệ chống ô nhiễm cho phi hành đoàn.

CCTV: Truyền hình khép kín.

CRT: Ống tia cac-tốt.

CRV: Phương tiện di dời khẩn cấp, đây là thuyền cứu hộ của tàu.

C/W: Chú ý và cảnh báo.

DAP: Phi công lái tự động kỹ thuật số.

ECLSS: Hệ thống hỗ trợ sự sống và kiểm soát môi trường

ECS: Hệ thống kiểm soát môi trường.

EKG: Điện tâm đồ.

EKV: Vũ khí hủy diệt tầm xa, một loại tên lửa được thiết kế để phá hủy các vật thể trước khi chúng xâm nhập khí quyển trái đất.

EMU: Phương tiện di chuyển phụ, một loại quần áo đi bộ ngoài vũ trụ của Mỹ.

EPS: Hệ thống điện.

ESA: Hãng hàng không vũ trụ Châu Âu.

EVA: Hoạt động đi bộ ngoài không gian.

FAA: Cơ quan hàng không liên bang.

Falcon: Giám đốc điều hành bay chịu trách nhiệm về việc quản lý hệ thống điện và tấm năng lượng mặt trời trên Trạm vũ trụ quốc tế.

FCR: Phòng điều hành bay.

FDO: Nhân viên phụ trách động lực học trên chuyến bay.

FGB: (Các chữ viết tắt của tiếng Nga). Gian hàng chức năng, một trong các khoang trên Trạm vũ trụ quốc tế, nó cũng được gọi là Zarya.

Flight: Giám đốc điều hành chuyến bay.

GC: Trung tâm điều khiển trên mặt đất.

GDO: Nhân viên hướng dẫn.

GNC: Hướng dẫn, Chỉ đường và Điều khiển.

GOES: Vệ tinh môi trường hoạt động trên toàn quốc, đây là một vệ tinh dự báo thời tiết.

GPC: Máy tính dành cho các mục đích sử dụng thông thường.

Hab: Khoang sinh hoạt.

HCG: Hooc-môn kích dục ở người, một loại hooc-môn được sản sinh trong quá trình thai nghén.

HEPA filter: Bộ lọc khí đặc biệt hiệu quả cao.

ISS: Trạm vũ trụ quốc tế.

IVA: Hoạt động đi lại bên trong, đây là việc đi lại trong phương tiện hay con tàu đã được nén khí.

JPL: Phòng thí nghiệm lực đẩy máy bay.

JSC: Trung tâm vũ trụ Johnson.

KSC: Trung tâm vũ trụ Kennedy.

Ku-band: Hệ thống liên lạc phụ sử dụng tần số sóng thấp.

LCC: Trung tâm điều khiển việc phóng tàu.

LEO: Quỹ đạo trái đất tầm thấp, đây là quỹ đạo cách trái đất vài trăm dặm.

LES: Bộ quần áo mặc khi phóng tàu và về trái đất, đây là bộ quần áo màu da cam sáng được các phi hành gia mặc để cất cánh hay khi sắp về trái đất. Đây là một bộ quần áo được nén khí, có thể cách nhiệt và chống lại lực hút trái đất.

LOS: Mất tín hiệu.

MCC: Trung tâm điều hành nhiệm vụ bay.

ME: Các động cơ chính.

MECO: Tắt động cơ chính.

MMACS: Kỹ sư bảo trì, bộ phận cơ khí và hệ thống của phi hành đoàn.

MMT: Đội quản lý nhiệm vụ.

MMU: Bộ phận dữ liệu tổng hợp.

MOD: Giám đốc điều hành nhiệm vụ.

MSFC: Trung tâm vũ trụ Marshall.

NASA: Hãng hàng không vũ trụ quốc gia.

NASDA: Hãng hàng không vũ trụ Nhật Bản.

NOAA: Trung tâm khí tượng và đại dương quốc tế.

NORAD: Bộ tư lệnh phòng không Bắc Mỹ.

NSTS: Hệ thống vận chuyển hàng không quốc gia.

Odin: Giám đốc điều hành bay, chịu trách nhiệm về các dữ liệu và mạng máy tính trên Trạm vũ trụ quốc tế.

ODS: Hệ thống sát nhập tàu khi bay.

OMS: Hệ thống điều khiển tàu.

Orlan-M: Bộ quần áo đi bộ ngoài không gian của Nga.

ORU: Bộ phận thay thế khi đang bay quanh quỹ đạo.

Oso: Giám đốc điều hành bay chịu trách nhiệm về kỹ thuật, bảo trì và các khóa trên Trạm vũ trụ quốc tế.

PAO: Nhân viên quan hệ công chúng.

PFC: Phòng nói chuyện riêng của gia đình.

PI: Trưởng ban điều tra, đây là nhà khoa học làm việc trên mặt đất và chịu trách nhiệm về các thí nghiệm được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế.

PMC: Phòng họp y khoa riêng.

POCC: Trung tâm kiểm tra các chuyến hàng.

Psi: Pao trên một in-sơ.

PVM: Khoang điện có lớp chặn.

RCS: Hệ thống điều khiển phản xạ, một trong các hệ thống máy móc trên tàu con thoi được dùng khi bay trên quỹ đạo để điều khiển đường bay.

RLV: Phương tiện phóng tàu có thể tái sử dụng.

RPOP: Chương trình hoạt động lắp ghép ở tầm gần (đây là một loại phần mềm).

RSM: Khoang dịch vụ Nga.

RTLS: Trở về khu bệ phóng, một kiểu hủy phóng tàu. Nó yêu cầu tàu con thoi bay hạ thấp độ cao để xả nhiên liệu, rồi trở về khu hạ cánh gần khu phóng tàu.

SAFER: Cứu hộ phương tiện di dời khẩn cấp đơn giản hóa, một bộ dụng cụ trên tàu cho phép các phi hành gia có thể bay an toàn khi dây nối bị đứt.

Sim: Tình huống diễn tập.

SRB: Động cơ đẩy tên lửa.

STS: Hệ thống vận chuyển tàu con thoi.

Surgeon: Bác sĩ phụ trách suốt chuyến bay.

SVOR: Phòng điều hành đặc biệt, đây là phòng điều hành bay cho Trạm vũ trụ quốc tế.

TACAN: Định vị hàng không chiến lược.

TAEM: Quản lý năng lượng ở khu vực cuối.

TAL: Khu hạ cánh bên kia bờ Đại Tây Dương, đây là kiểu hủy phóng tàu và khi đó tàu con thoi hạ cánh ở khu bên kia bờ Đại Tây Dương.

TDRS: Vệ tinh truyền và dẫn dữ liệu.

Topo: Giám đốc điều hành bay điều khiển đường bay của Trạm vũ trụ.

TVIS: Hệ thống tách rung động.

UHF: Tần số sóng cao.

United Space Alliance (USA): Đây là một cam kết duy trì và thực hiện các hoạt động của NASA.

USAMRIID: Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm.

U. S. Space Command: Đây là bộ phận của Tổng tư lệnh thuộc Bộ Quốc phòng. Bộ phận này kiểm soát các vật thể nhân tạo bay quanh trái đất, hỗ trợ quân sự cũng như các hoạt động dân sự liên quan đến vũ trụ.

WET-F: Phương tiện huấn luyện trong môi trường không trọng lực.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.