Titanic - Trong Vũ Trụ

Chương 16



MƯỜI SÁU

Gordon Obie bước vào phòng họp có máy ghi hình đã được chuẩn bị cho cuộc chiến nảy lửa nhưng không nhân viên nào trong phòng họp phát hiện ra ông đang rất tức giận. Tất nhiên, Obie vẫn mang khuôn mặt tỉnh như không, ông không nói lời nào khi ngồi xuống cạnh bàn, cạnh nhân viên quan hệ công chúng Gretchen Liu đang khóc sưng cả mắt. Thậm chí họ không để ý thấy Gordon đã vào phòng.

Ở bàn cũng có nhân viên quản lý NASA Leroy Cornell, giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson Ken Blankenship và năm nhân viên cao cấp khác của NASA. Tất cả bọn họ đều buồn bã nhìn lên hai màn hình lớn. Ở màn hình đầu tiên là Đại tá Lawrence Harrison từ Viện Nghiên cứu y khoa quân đội Mỹ về các bệnh truyền nhiễm đang nói từ căn cứ quân sự tại Fort Detrick, bang Maryland. Trên màn hình thứ hai là một người đàn ông nghiêm trang, tóc đen, mặc thường phục, đó là “Jared Profitt thuộc Hội đồng Bảo an của Nhà Trắng”. Với cặp mắt buồn bã và nét mặt u sầu, thậm chí là khổ hạnh, trông ôn như một thầy tu thời trung cổ, không chịu chuyển sang thời đại mới của com-lê và ca vát.

Blankenship đang nói thẳng nhằm vào Đại tá Harrison.

– Lính của các vị không chỉ ngăn cản người của chúng tôi làm nhiệm vụ, họ còn đe dọa và chĩa súng vào người của chúng tôi. Một trong các bác sĩ của chúng tôi đã bị tấn công… bị đánh gục xuống đất bằng báng súng. Chúng tôi có hơn ba mươi nhân chứng.

– Bác sĩ McCallum đã phá vòng bảo vệ của cảnh sát chúng tôi. Anh ta đã không dừng lại theo lệnh. Chúng tôi thì có khu vực nóng cần bảo vệ.

– Vậy là bây giờ Quân đội Mỹ sẵn sàng tấn công, thậm chí là bắn thường dân sao?

– Ken, hãy nhìn nhận vấn đề này từ quan điểm của Viện Nghiên cứu y khoa quân đội Mỹ về các bệnh truyền nhiễm. – Cornell nói và bình tĩnh đặt tay lên vai Blankenship. Đó là cái đụng chạm kiểu ngoại giao, Gordon khinh miệt nghĩ. Cornell có thể là người phát ngôn của NASA ở Nhà Trắng và là tài sản quý nhất của họ khi đụng chạm đến vấn đề phỉnh phờ Nhà Trắng tài trợ cho họ. Nhưng nhiều người ở NASA chưa bao giờ thực sự tin tưởng ông ta. Họ không bao giờ tin tưởng một người có lối suy nghĩ của một chính trị gia hơn một kỹ sư. – Bảo vệ khu vực nóng là lý do chính đáng để sử dụng vũ lực. – Cornell tiếp tục. – Bác sĩ McCallum đã phá vòng an ninh.

– Và hậu quả có thể rất thảm khốc. – Harrison nói qua điện đàm. – Tình báo của chúng tôi đã báo cáo vi rút Marburg có thể đã bị cố ý đưa lên tàu vũ trụ. Marburg là loại vi rút có liên quan đến vi rút Ebola.

– Làm cách nào nó lên tàu được? – Blankenship nghi ngờ. – Mỗi mẻ thí nghiệm đều đã được kiểm tra. Mỗi động vật thí nghiệm đều được xác nhận còn khỏe mạnh. Chúng tôi không đưa lên đó nguy cơ sinh học.

– Đó là thông tin từ tình báo của các vị, tất nhiên rồi. Nhưng các vị nhận được các chuyến hàng chở vật thí nghiệm từ các nhà khoa học ở khắp nước Mỹ. Các vị có thể nhìn thấy các mẫu vật nhưng không thể kiểm tra từng vi khuẩn hay từng mẫu tế bào khi nó được mang đến để đưa lên vũ trụ. Để giữ cho các mẻ sinh học đó sống sót, các kiện hàng được đưa ngay lên tàu vũ trụ. Nếu một trong các mẫu thí nghiệm đó đã bị nhiễm bẩn thì sao? Các vị hãy xem xét thật dễ dàng khi thay thế một mẫu vật không có hại gì bằng các cơ thể nguy hiểm như Marburg.

– Vậy anh đang nói là có kẻ phá hoại ngầm trên Trạm vũ trụ à? – Blankenship tiếp tục chất vấn. – Đó là một hoạt động khủng bố sinh học ư?

– Đó chính là điều tôi đang nói. Hãy để tôi miêu tả chuyện gì sẽ xảy ra nếu các vị bị nhiễm loại vi rút này. Đầu tiên, cơ của các vị sẽ đau và các vị bị sốt. Cơn đau đó nặng và khó chịu đến nỗi các vị gần như không chịu được khi ai đó chạm vào. Một mũi tiêm vào trong cơ có thể khiến các vị hét lên đau đớn. Rồi mắt các vị biến thành màu đỏ. Bụng các vị bắt đầu đau và các vị nôn mửa liên tục. Các vị bắt đầu ho ra máu. Đầu tiên máu sẽ có màu đen do các quá trình tiêu hóa. Sau đó máu ra nhanh hơn và nó chuyển thành màu đỏ tươi, nó nhanh như khi người ta phun bằng máy bơm nước. Lá gan của các vị bắt đầu phình to và rạn nứt. Thận không hoạt động.

Các cơ quan nội tạng bị phá hủy, huyết áp bị phá vỡ. Và các vị sẽ chết. – Harrison dừng lại. – Đó là vấn đề có thể chúng ta đang đối mặt, thưa các vị!

– Điều này thật khốn nạn! – Gordon Obie bực dọc.

Mọi người ở bàn họp nhìn ông ngạc nhiên. Con Nhân sư đã lên tiếng. Rất hiếm khi Obie phát biểu trong các cuộc họp. Ông thường nói với giọng đều đều khi nói về các dữ liệu và thông tin, nó không hề có cảm xúc. Sự bùng nổ này khiến tất cả mọi người rất ngạc nhiên.

– Tôi có thể hỏi ai vừa lên tiếng không? – Đại tá Harrison nói.

– Tôi là Gordon Obie, giám đốc điều hành bay.

– Ồ, bố già của các phi hành gia.

– Ông có thể gọi tôi bằng cái tên đó.

– Vậy tại sao điều này lại khốn nạn?

– Tôi không tin đây là vi rút Marburg. Tôi không biết nó là gì nhưng tôi biết các vị không cho chúng tôi biết sự thật.

Mặt đại tá Harrison lạnh băng như một chiếc mặt nạ. Ông ta không nói gì.

Jared Profitt lên tiếng. Giọng ông ta đúng như Gordon đã nghĩ, nó rít lên qua kẽ răng. Ông ta không hung hăng như Harrison nhưng đó là người có vẻ thích lý sự và giải thích.

– Tôi hiểu cơn thịnh nộ của ông, thưa ông Obie. Có quá nhiều điều chúng tôi không thể cho các vị biết vì lý do an ninh. Nhưng Marburg không phải là thứ chúng tôi có thể khinh suất.

– Nếu các vị đã biết đó là vi rút Marburg thì tại sao các vị không cho các bác sĩ của chúng tôi tham gia vào việc khám nghiệm tử thi? Các vị sợ chúng tôi biết sự thật chăng?

– Gordon. – Cornell nói khẽ. – Tại sao chúng ta không thảo luận riêng vấn đề này?

Gordon phớt lờ ông ta và hướng về màn hình.

– Thực sự chúng ta đang nói về loại bệnh gì? Một bệnh truyền nhiễm ư? Một độc tố ư? Hay thứ gì đó đã được đưa lên tàu con thoi trong một chuyến hàng của quân đội, có thể lắm chứ?

Tất cả im lặng. Rồi Harrison nói.

– Đó chỉ là căn bệnh hoang tưởng của NASA! Tin tức tình báo của các vị phải chịu trách nhiệm về mọi rắc rối.

– Tại sao các vị không chịu để bác sĩ của chúng tôi tham gia vào việc khám nghiệm tử thi?

– Chúng ta đang nói về bác sĩ McCallum chăng? – Profitt hỏi.

– Đúng thế, bác sĩ McCallum đã được đào tạo trong các vụ tai hạn hàng không và lĩnh vực bệnh học. Anh ấy là bác sĩ trên chuyến bay và cũng từng là thành viên của phi hành đoàn. Việc các vị từ chối không để anh ấy hay bất kỳnhân viên y tế nào của chúng tôi giám sát việc khám nghiệm tử thi khiến tôi băn khoăn có phải các vị không muốn cho NASA thấy sự thật không?

Đại tá Harrison quay đi như thể đang nhìn ai khác trong phòng. Khi nhìn lại về phía máy quay, mặt ông ta đỏ lên vì tức giận.

– Điều này thật lố bịch! Người của các vị vừa đâm tàu con thoi! Các vị làm hỏng việc hạ cánh, giết chết phi hành đoàn của mình và rồi các vị giơ tay chỉ trích Quân đội Mỹchăng?

– Toàn bộ các phi hành gia kịch liệt phản đối việc này. – Gordon nói. – Chúng tôi muốn biết chuyện gì đã thực sự xảy ra với các đồng nghiệp của mình. Chúng tôi yêu cầu các vị cho một trong các bác sĩ của chúng tôi xem các thi thể.

Leroy Cornell lại cố can thiệp.

– Gordon, ông không thể đưa ra đòi hỏi vô lý như vậy. – ông ta nói khẽ. – Họ biết họ đang làm gì.

– Tôi cũng vậy!

– Tôi yêu cầu ông lui lại ngay bây giờ.

Gordon nhìn Cornell. Cornell là người đại diện cho NASA tại Nhà Trắng, là tiếng nói của NASA tại Quốc hội. Chống lại ông ta là chấm dứt sự nghiệp.

Nhưng Obie vẫn làm.

– Tôi nói cho các phi hành gia. – ông nói. – Cho ngườicủa tôi.

Ông quay về màn hình và nhìn thẳng vào khuôn mặt lạnh như băng của Đại tá Harrison.

– Và chúng tôi sẽ không ngại ngần gì công bố những quan tâm của chúng tôi với báo chí. Chúng tôi không coi động thái này là phơi bày các vấn đề tối mật của NASA ra ánh sáng. Thi thể của các phi hành gia luôn là một bí mật. Nhưng nếu bị ép buộc, chúng tôi sẽ yêu cầu điều tra công khai.

Gretchen Liu gục đầu xuống.

– Gordon. – cô thì thầm. – Ông đang làm cái quái gì vậy?

– Làm điều tôi phải làm.

Cả bàn im lặng trong một phút.

Rồi trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, Blankenship nói.

– Tôi đứng về phía các phi hành gia của chúng ta.

– Tôi cũng vậy. – một giọng khác lên tiếng.

– Tôi cũng thế.

– Và tôi nữa.

Gordon nhìn các đồng nghiệp quanh bàn. Hầu hết những người này là các kỹ sư và giám đốc điều hành và tên của họ hiếm khi xuất hiện trên báo chí. Có nhiều dịp họ xung đột với các phi hành gia, những người họ coi là các cậu bé biết bay với “cái tôi” to tướng. Các phi hành gia nhận hết vinh quang, còn những người đàn ông và phụ nữ này, những người làm công việc không được nhìn thấy và không ai biết đến để biến chuyến bay thành hiện thực, lại chính là trái tim và linh hồn của NASA. Giờ họ đang đoàn kết sau Gordon.

Leroy Cornell nghiêm mặt lại, người lãnh đạo bị chính đội quân của mình bỏ rơi. Ông là người đầy kiêu hãnh và đây là cú đấm công khai nực cười. Ông hắng giọng và từ từ xốc vai. Rồi ông nhìn thẳng vào màn hình của Đại tá Harrison và nói.

– Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc cũng ủng hộ các phi hành gia của chúng tôi. Tôi yêu cầu một trong các bác sĩ của chúng tôi phải được phép giám sát việc khám nghiệm tử thi.

Đại tá Harrison không nói gì. Jared Profitt mới là người đưa ra quyết định cuối cùng. – Jared Profitt rõ ràng là người chịu trách nhiệm. Ông ta quay sang nói với một người không có trên màn hình. Rồi ông nhìn máy quay và gật đầu.

Cả hai màn hình tắt phụt. Cuộc họp trên băng hình đã kết thúc.

– Ồ, chắc chắn ông đã đấm vào mũi quân đội Mỹ. – Gretchen nói. – Ông có thấy Harrison trông tức giận mức nào không?

Không, Gordon nghĩ và nhớ lại nét mặt của Đại tá Harrison ngay trước khi màn hình trống không. Không phải tôi nhìn thấy sự tức giận trên khuôn mặt ông ta. Đó là sự sợ hãi.

Các thi thể được đưa đến trụ sở của Viện Nghiên cứu y khoa quân đội Mỹ về các bệnh truyền nhiễm ở Fort Detrick, bang Maryland, như Jack đã nghĩ. Chúng đã được đưa đến nơi cách khu Cát Trắng chưa đầy sáu mươi dặm, tới một tòa nhà xây bằng các khối bê tông không có cửa sổ, như hàng chục các ngôi nhà không tên khác của chính phủ mọc lên ở thung lũng sa mạc khô cằn này. Nhưng tòa nhà này có một đặc điểm nổi bật: đó là một chuỗi các ống thông hơi nhô lên từ mái nhà. Các dây thép gai được ghép cẩn thận trên các hàng rào. Khi họ lái xe qua khu kiểm tra an ninh, Jack nghe thấy tiếng rù rì của các dây điện cao thế.

Ngay bên cạnh là người hộ tống có vũ trang, Jack đi đến lối vào phía trước. – Anh nhận ra đó là lối vào duy nhất. Trên cánh cửa có biểu tượng ớn lạnh quen thuộc: một bông hoa thể hiện nguy hiểm sinh học màu đỏ tươi. Căn cứ này đang làm cái quái gì ở nơi không ai biết này? Anh tự hỏi. Rồi anh nhìn đường chân trời không có gì nổi bật và câu hỏi của anh được trả lời. Tòa nhà này chính là chốn không ai biết.

Anh được hộ tống qua cửa, vào một dãy hành lang lạnh lẽo dấn sâu hơn vào lõi tòa nhà. Anh thấy đàn ông và phụ nữ mặc quân phục, những người khác mặt quần áo phòng thí nghiệm. Toàn bộ ánh sáng đều là nhân tạo, những khuôn mặt có vẻ hơi xanh xao và ốm yếu.

Các lính canh đứng chặn ở cửa có dòng chữ “Tủ khóa cho nam”.

– Vào đi. – người ta ra lệnh cho anh. – Hãy đi theo biển chỉ dẫn đến chữ cái. Rồi đi qua cánh cửa tiếp theo. Họ đang chờ anh.

Jack đi qua cửa. Bên trong là một tủ khóa, một chiếc xe để nhiều quần áo nhiều cỡ màu xanh lá cây kiểu bác sĩ phẫu thuật, một cái giá có mũ giấy và một chiếc gương. Một danh sách các chỉ dẫn được dán trên tường, bắt đầu là “ Cởi TOÀN BỘ quần áo đi đường, kể cả đồ lót”.

Anh cởi quần áo, để chúng trong ngăn kéo không được bảo vệ và mặc đồ tiệt trùng vào. Rồi anh đẩy cánh cửa tiếp theo, trên đó lại có biểu tượng nguy hiểm sinh học và vào phòng chiếu bằng tia cực tím. Ở đó anh dừng lại, không biết làm gì tiếp.

Một giọng trên điện đàm nói.

– Có một cái giá để tất bên cạnh anh. Chọn một đôi và đi qua cửa.

Anh làm theo.

Người phụ nữ mặc đồ tiệt trùng đang chờ anh ở phòng bên cạnh. Trông cô ta cục cằn, không tươi cười khi yêu cầu anh đeo găng tay tiệt trùng. Rồi cô ta giận dữ tháo băng dính và đóng kín cổ tay áo và gấu quần anh. Quân đội Mỹ đã nhún nhường để Jack đến đây nhưng họ không cho chuyến đi của anh được thoải mái. Cô ta đeo tai phôn lên đầu anh rồi đưa cho anh một chiếc mũ như của Snoopy. Nó như một chiếc mũ bơi để giữ cho tai phôn cố định.

– Giờ thì mặc quần áo vào. – cô ta nhặng lên.

Đã đến lúc mặc quần áo không gian. Bộ này màu xanh dương với đôi găng tay dính liền. Khi người trợ giúp khó tính chụp mũ trùm đầu lên đầu anh, Jack cảm thấy e sợ vô cớ về người phụ nữ này. Khi tức giận, cô ta có thể làm hỏng quá trình này và như vậy có thể anh không được bảo vệ an toàn khỏi sự nhiễm bẩn.

Cô ta đóng phần cúc trên ngực anh, nối anh với một cái ống trên tường. Anh cảm thấy một luồng khí thổi qua bộ quần áo. Đã quá muộn để lo lắng chuyện gì có thể xảy ra. Anh đã sẵn sàng đi vào khu vực nguy hiểm.

Người phụ nữ tháo ống cho anh và chỉ vào cánh cửa tiếp theo.

Anh đi qua và vào phòng cách ly. Cánh cửa đóng sầm sau lưng anh. Một người đàn ông mặc đồ vũ trụ đang đợi anh. Anh ta không nói gì nhưng ra hiệu cho Jack theo anh ta đến cánh cửa ở đằng xa.

Họ đi qua cánh cửa, qua một hành lang dài đến phòng khám nghiệm tử thi.

Trong phòng có một cái bàn bằng thép không gỉ với một thi thể trên đó vẫn bị khóa trong túi. Hai người đàn ông mặc đồ không gian đã đứng bên cạnh cái xác. Một trong số họ là bác sĩ Roman. Anh ta quay lại nhìn Jack.

– Đừng chạm vào bất cứ thứ gì! Đừng can thiệp! Anh chỉ đến đây để giám sát, thưa bác sĩ McCallum, và không can dự vào công việc của chúng tôi.

Một lời chào rất hay!

Người hộ tống mặc đồ không gian cắm một cái ống trên tường vào bộ đồ của Jack và một luồng khí lại thổi xì xì trong mũ của anh. Nếu không có tai nghe thì anh đã không nghe ba người kia nói gì.

Bác sĩ Roman và hai trợ lý mở cái túi.

Jack có cảm giác anh ngừng thở, cổ họng bị bóp nghẹt. Đó là thi thể của Jill Hewitt. Mũ bảo vệ của cô đã bị tháo nhưng cô vẫn mặc bộ đồ màu cam khi phóng tàu trên đó có thêu tên cô. Thậm chí nếu không có dấu hiệu nhận dạng đó, Jack vẫn biết đó là Jill vì mái tóc cô. Nó có màu hạt dẻ mềm mượt, được cắt ngắn và đã có những sợi tóc hoa râm. Khuôn mặt cô còn nguyên vẹn đáng ngạc nhiên. Mắt cô hơi mở. Cả hai màng cứng đều đỏ tươi.

Roman và các đồng nghiệp cởi bộ đồ vũ trụ và cởi đồ cho thi thể cô. Chất liệu quần áo đó có thể chống lửa nên rất khó cắt. Họ phải cởi chúng . Họ làm việc rất hiệu quả, những lời bình phẩm của họ như một điều tất nhiên và không có chút biểu hiện tình cảm nào. Khi họ cởi xong quần áo, trông cô như một con búp bê bị vỡ vụn. Cả hai tay đã biến dạng vì gãy nát và chỉ còn là một đống xương vỡ. Chân cô cũng gãy và ống quyển bị bẻ cong thành những góc kỳ dị. Đầu của hai xương sườn bị gãy đâm xuyên qua ngực cô. Các vết thâm đen còn để dấu của các dây an toàn ở ghế ngồi.

Jack lại thấy mình thở gấp, anh phải nén sự sợ hãi ngày càng tăng. Anh đã chứng kiến nhiều cuộc khám nghiệm tử thi, đã nhìn những cơ thể bị biến dạng khủng khiếp hơn nhiều. Anh đã thấy những chiếc máy bay bị đốt cháy không khác gì một thanh củi mục, các hộp sọ bị nổ tung do áp suất của não bị nung nóng. Anh đã thấy một thi thể mà mặt đã bị đánh bay khi đi vào chỗ máy quay ở đuôi máy bay trực thăng. Anh đã thấy xương sống của một phi công hàng hải gãy làm đôi và gập ngược về phía sau qua màn kính che ở buồng lái.

Điều này tệ hơn rất nhiều vì anh biết người đã chết. Anh nhớ khi cô còn là một phụ nữ còn sống, còn thở. Nỗi sợ của anh xen cả sự tức giận vì ba người kia nhìn thân thể trần truồng của Jill rất lạnh lùng. Cô chỉ là một tảng thịt trên bàn, không hơn không kém. Họ không để ý đến các vết thương của cô hay chân tay đã bị gãy nát. Nguyên nhân cái chết chỉ là mối quan tâm thứ yếu của họ. Họ quan tâm hơn đến kẻ không tặc sinh học đang ẩn trong cơ thể cô.

Roman bắt đầu tạo vết cắt hình chữ Y. Một tay anh cầm dao mổ, tay kia đã đeo găng tay lưới. Một đường rạch chạy từ vai phải chếch sang ngực đến mẩu ức. Một vết mổ thăm dò khác chạy từ vai trái và cắt vết mổ đầu tiên ở mẩu ức. Vết mổ tiếp tục xẻ xuống bụng, với một vết rách lởm chởm ở phần rốn và nó dừng lại ở phần mu. Anh ta cắt qua sườn, bỏ đi toàn bộ phần xương ức. Phần khung xương được nâng lên để lộ ổ bụng bên trong.

Nguyên nhân cái chết rất rõ ràng.

Khi một máy bay bị đâm hay một chiếc xe máy đâm vào tường, và một kẻ thất tình tự tử nhảy xuống từ tòa nhà mười tầng thì các quá trình giảm tốc tương tự sẽ xảy . Khi cơ thể di chuyển với tốc độ cao và bị dừng lại đột ngột. Riêng tác động của nó có thể làm gãy sườn và các mảnh xương sẽ găm sâu vào các cơ quan quan trọng. Nó có thể làm gãy đốt sống, làm đứt dây cột sống và đập hộp sọ vào bảng điều khiển hay các dụng cụ. Ngay cả khi phi công được buộc chặt và đội mũ bảo hiểm, thậm chí không bộ phận nào trong cơ thể họ va chạm vào máy bay thì chỉ riêng lực hãm lại có thể gây chết người bởi vì mặc dù cơ thể có thể bị buộc lại nhưng các cơ quan nội tạng thì không. Tim, phổi và cách mạch lớn bị treo lơ lửng trong ngực bởi các sợi mô. Khi cơ thể dừng lại đột ngột, tim tiếp tục lao về phía trước như một quả lắc. Nó di chuyển với một lực mạnh đến nỗi nó xé rách các mô và đập vỡ động mạch chủ.

Máu bị vỡ trong tâm thất và trong khoang màng phổi.

Ngực của Hewitt đã biến thành một bể máu.

Roman hút máu rồi cau mày nhìn quả tim và hai lá phổi.

– Tôi không thể thấy cô ấy bị chảy máu từ đâu. – Anh ta thông báo.

– Tại sao anh không lấy cả khối ? – trợ lý của anh ta gợi ý. – Chúng ta sẽ nhìn rõ hơn.

– Vết rách rất có thể ở động mạch chủ phía trước. – Jack thêm vào. – Trong sáu mươi lăm phần trăm các trường hợp thì nó sẽ nằm ở ngay trên van tâm thất.

Roman nhìn anh vẻ khó chịu. Cho đến lúc này anh ta đã cố lờ Jack đi, giờ anh ta khó chịu với lời xen vào của anh. Anh ta không nói gì, đặt dao mổ để tách các mạch máu lớn hơn.

– Tôi khuyên các vị nên kiểm tra tim trước. – Jack nói. – Trước khi mổ.

– Cô ta bị chảy máu sao và ở đâu không phải là điều tôi quan tâm nhất. – Roman bắt bẻ lại.

Họ không thực sự quan tâm cô đã chết vì lý do gì. Jack nghĩ. Tất cả những gì họ muốn biết là cái gì có thể đang phát triển nhân lên trong cơ thể cô.

Roman cắt qua khí quản, thực quản và các mạch lớn rồi bỏ hết tim phổi thành một khối. Hai lá phổi bị dính máu. Bị tai nạn hay bị nhiễm bệnh? Jack không biết. Tiếp theo Roman kiểm t các cơ quan nội tạng trong bụng. Các cơ quan nhỏ như hai lá phổi đều bị xuất huyết cơ. Anh ta cắt nó , đặt thành một cuộn ruột lấp lánh trong cái bát. Anh ta cắt bỏ phần bụng, tuyến tụy và gan. Tất cả bị cắt nhỏ và kiểm t bằng kính hiển vi. Toàn bộ các mô sẽ được cấy để tìm vi khuẩn và vi rút.

Giờ thi thể của Jill đã gần như mất hết các cơ quan nội tạng. Jill Hewitt, phi công hàng hải, một vận động viên kiêm ba môn, người say mê loại rượu Justerini & Brooks xứ Xcốt-len, các ván bài mạo hiểm và các bộ phim của Jim Carrey giờ chẳng là gì ngoài một cái vỏ trống không.

Roman đứng thẳng dậy và trông có vẻ nhẹ nhõm. Đến nay việc khám nghiệm tử thi không cho thấy điều gì kinh ngạc. Nếu có dấu hiệu tổng thể của vi rút Marburg thì Jack vẫn chưa thấy.

Roman đi vòng phía sau cái xác, đến phần đầu.

Đây là phần Jack lo sợ. Anh phải buộc mình nhìn Roman xẻ dọc thái dương, vết mổ của anh ta chạy ngang qua phần đỉnh đầu, từ tai này sang tai kia. Anh ta lật ngược thái dương về phía sau và lật nó úp lên mặt, một mớ tóc màu hạt dẻ rơi lả tả xuống cằm cô. Họ dùng một con dao nhỏ nạy vỡ hộp sọ. Không vết cắt, không vụn xương nào được cho phép trong việc khám nghiệm tử thi cấp độ bốn. Họ cạy phần đỉnh hộp sọ.

Một khối máu to bằng nắm tay phụt , bắn lên chiếc bàn mổ bằng thép không gỉ.

– Xuất huyết não lớn. – một trợ tá của Roman nói. – Do tai nạn va đập chăng?

– Tôi không nghĩ vậy. – Roman nói. – Anh đã thấy động mạch chủ. Cái chết đã gần như xảy ngay tức khắc khi chấn động xảy . Tôi không chắc tim cô ấy bơm đủ lâu để tạo nhiều máu chảy trông như vậy. – Anh ta nhẹ nhàng luồn bàn tay đeo găng vào hộp sọ, thăm dò bề mặt màu xám.

Một đám chất sền sệt phụt và bắn lên bàn.

Roman lùi lại kinh hãi.

– Cái quái gì vậy? – trợ lý của anh ta hỏi.

Roman không trả lời. Anh ta chỉ nhìn đám mô đó. Nó được bọc một lớp màu xanh dương pha xanh lá cây. Qua lớp màng lấp lánh bên ngoài, trông đám đó có vẻ không ổn định, đó là một đống thịt không có hình dạng. Anh ta định xé toang vỏ bên ngoài nhưng anh ta dừng lại và nhìn về phía Jack.

– Đó là một loại khối u. – Anh ta nói. – Hay một u nang. Điều đó lý giải cơn đau đầu mà cô ấy đã nói.

– Không. – Jack lên iếng. – Cơn đau đầu của cô ấy đến bất ngờ… chỉ trong vài giờ. Khối u phải mất vài tháng mới hình thành.

– Làm sao anh biết cô ấy đã giấu các triệu chứng của mình trong những tháng qua? – Roman vặn lại. – Cô ấy đã giữ bí mật để không bị loại khỏi phi hành đoàn.

Jack phải thừa nhận có khả năng đó. Các phi hành gia rất háo hức với các nhiệm vụ bay và họ có thể giấu bất cứ triệu chứng nào có thể khiến họ bị loại ra khỏi đoàn.

Roman nhìn trợ tá của anh ta đang đứng bên kia bàn. Người đó gật đầu, hất đám chất đó vào một cái túi đựng mẫu vật và mang khỏi phòng.

– Anh không định mổ xẻ nó chứ? – Jack hỏi.

– Nó cần được gói lại và nhuộm màu trước. Nếu tôi xẻ nó ra bây giờ, tôi sẽ phá vỡ cấu trúc tế bào.

– Nó có thể là gì khác không?

Không ai trả lời Jack. Anh chưa từng nhìn thấy thứ gì như vậy.

Roman tiếp tục kiểm t hộp sọ của Jill Hewitt. Rõ ràng, đám chất đó dù là gì đi chăng nữa đã làm tăng áp lực trong não cô, làm biến dạng các cấu trúc của nó. Nó đã ở đó bao lâu? Nhiều tháng hay nhiều năm rồi? Tại sao Jill có thể hoạt động bình thường không kém gì một phi công trong một phương tiện phức tạp như tàu con thoi? Tất cả những câu hỏi đó chạy nhanh qua tâm trí Jack khi anh nhìn Roman cắt bỏ não và để nó vào khay thép.

– Cô ấy đã gần bị nổ não. – Roman nhận định.

Không ngạc nhiên khi Jill đã bị mù. Không ngạc nhiên khi cô không thể hạ phanh hạ cánh xuống được. Cô đã bị vô thức, não cô đã bị ép lại như kem đánh răng khỏi hộp sọ.

Thi thể của Jill. – những gì còn lại. – được đưa vào một túi đựng xác mới và đưa khỏi phòng cùng các đồ chứa chất nguy hiểm sinh học có các cơ quan nội tạng của cô.

Thi thể thứ hai được đưa vào. Đó là Andy Mercer.

Một đôi găng tay mới được đeo chồng lên đôi găng tay trong bộ quần áo vũ trụ và với một con dao mổ mới, Roman bắt đầu tạo vết mổ chữ Y. Anh ta làm việc nhanh hơn như thể Jill Hewitt là bước khởi động và giờ anh ta mới gặp đúng đối tượng.

Mercer đã kêu là bị đau bụng và nôn mửa, Jack nhớ lại điều đó khi anh nhìn đao mổ của Roman rạch qua da và lớp mỡ dưới da. Mercer không kêu bị đau đầu như Jill nhưng anh bị sốt cao và ho một ít máu. Phổi của anh có biểu hiện của vi rút Marburg không?

Một lần nữa, vết cắt thăm dò của Roman lại cắt nhau ở dưới ức, anh ta rạch một đường sâu dưới bụng, đến xương mu. Anh ta lại cắt qua sườn, cắt bỏ phần xương hình tam giác bao phủ tim. Anh ta nâng xương ức lên.

Anh ta há hốc miệng, lẩy bẩy lùi lại và làm rơi dao mổ. Thứ đó vụt bàn mổ. Các trợ tá của anh ta đứng nhìn kinh hãi.

Trong lồng ngực của Mercer có một đống u màu xanh dương pha xanh lá cây, giống khối u trong đầu Jill Hewitt. Chúng tạo thành đám quanh tim của anh như những quả trứng nhỏ li ti trong suốt.

Roman đứng bất động, mắt nhìn chằm chằm vào cái xác bị phanh rộng. Rồi anh ta nhìn sang đống dịch nhầy có màng bao quanh. Nó căng phồng lên, đầy máu và phồng lên qua vết mổ ở bụng.

Roman lại gần cái xác, nhìn lớp màng bụng đang phình lên. Khi anh ta cắt qua thành bụng, dao mổ của anh ta đã khía vào mặt lớp màng đó. Một dòng chất dịch dính máu rỉ . Đầu tiên nó chỉ là vài giọt. Rồi sau đó, khi họ đang quan sát thì nó chảy ra như suối. Vết rạch đột ngột vỡ qua đường mổ thành một vết rất to và máu xối , mang theo các khối nhầy màu xanh dương và xanh lá cây dính máu.

Roman hét lên kinh hãi khi các khối đó phụt lên sàn, máu và nước nhầy bắn .

Một trong số họ bị trượt chân trên bê tông và ngã vào đôi ủng cao su của Jack. Anh cúi xuống, định chạm vào nó qua găng tay bảo vệ. Anh nhanh chóng nhảy về phía sau khi các phụ tá của Roman lôi anh tránh xa cái bàn.

– Đưa anh ta khỏi đây! – Roman lệnh. – Đưa anh ta khỏi phòng mau!

Hai người đẩy Jack về phía cửa. Anh chống lại, hất những bàn tay đeo găng đang túm lấy vai anh. Người đàn ông bị ngã về phía sau, đè lên một khay dụng cụ phẫu thuật và bò trên sàn, trượt trên đống chất nhầy và máu.

Người đàn ông thứ hai túm lấy ống thở của Jack ở chỗ nối và giữ chặt đầu nối.

– Tôi khuyên anh nên đi cùng chúng tôi, bác sĩ McCallum. – Anh ta nói. – Trong khi anh vẫn còn khí để thở.

– Bộ quần áo của tôi, lạy Chúa, nó bị rách! – người đàn ông ngã vào khay dụng cụ nói. Giờ anh ta đang mở mắt trừng trừng sợ hãi nhìn vết rách dài năm centimet trên cánh tay bộ quần áo vũ trụ. – cánh tay áo bị dính đầy chất nhờn từ máu của Mercer.

– Nó ướt lắm. Tôi cảm thấy điều đó. Cánh tay áo trong của tôi cũng ướt rồi.

– Đi đi! – Roman gầm lên. – Đi ngay bây giờ!

Người đàn ông đó cởi bộ quần áo vũ trụ và sợ hãi chạy ra khỏi phòng. Jack chạy theo anh ta đến cánh cửa khóa khí. Cả hai người đều chạy qua cánh cửa vào phòng tắm tiệt trùng. Nước phun từ các vòi nước trên đầu xối như mưa trên vai họ. Rồi sau đó đến nước tẩy uế, một dòng nước màu xanh lá cây đập ầm ầm vào mũ bảo vệ bằng nhựa của họ.

Cuối cùng khi nước ngừng chảy, họ bước qua cánh cửa tiếp theo và cởi bộ quần áo vũ trụ. Người đàn ông ngay lập tức tháo bộ quần áo ướt và đập cánh tay dưới cho nước chảy hết để giũ sạch bất cứ chất lỏng nào đã thấm vào qua cánh tay áo.

– Anh bị sứt da chỗ nào không? – Jack hỏi. – Các vết cắt hay xước móng có không?

– Tối qua tôi bị con mèo của con gái tôi cào.

Jack nhìn xuống cánh tay anh ta và thấy các vết cào, ba vết xước cắm sâu vào cánh tay. Đó cũng chính là cánh tay bị rách trên áo vũ trụ. Anh nhìn vào mắt anh ta và thấy sự sợ hãi.

– Giờ chuyện gì sẽ xảy ? – Jack lo lắng.

– Cách ly. Tôi sẽ bị khóa lại. Tệ thật.

– Tôi đã biết đó không phải là vi rút Marburg. – Jack nói.

Người đàn ông thở dài.

– Đúng vậy.

– Vậy nó là gì? Hãy cho tôi biết chúng ta đang đối mặt với cái gì?

Anh ta bám cả hai tay vào bồn nước, nhìn nước chảy xuống lỗ thông. Anh ta lẩm bẩm.

– Tôi không biết.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.