Mấy
ngày gần đây tâm trạng của Cẩm Thanh có lẽ cũng không tệ lắm, nên cuộc
sống của bản thượng thần cũng vô cùng dễ chịu. Ví dụ như lúc bản thượng
thần ở dưới tàng cây hóng gió, Cẩm Thanh sẽ lặng lẽ đưa đến một bình
trà, ngoài ra còn có một ít điểm tâm; lúc bản thượng thần ngủ gà ngủ
gật, Cẩm Thanh sẽ yên lặng ngồi cạnh tôi, thỉnh thoảng còn quạt cho tôi; ngay đến cả lúc bản thượng thần cùng anh ta ăn cơm, Cẩm Thanh cũng
thỉnh thoảng giúp đỡ người có thị lực không tốt là tôi, gắp đồ ăn đặt
vào bát cho tôi.
“Cẩm Thanh, nho trong vườn của chúng ta hôm nay
có thể hái ăn được rồi chứ? Hôm qua tôi ngồi dưới gốc nho hóng gió, mùi
nho thơm cứ quanh quẩn quanh mũi tôi thôi”.
Cẩm Thanh cười dịu dàng, chạm nhẹ vào mũi tôi, rồi viết vào tay tôi: “Chờ một lát, tôi đi hái”.
Tôi cầm lấy quạt hương bồ(33) trong tay anh ta, quạt mấy cái, nịnh nọt:
“Cẩm Thanh thật là lợi hại, nhanh đi nhanh về, nhớ chọn trái nào chín
hãy hái nhé”.
Bản thượng thần vô cùng vui mừng, có cảm giác như đứa con đã lớn biết thương yêu quan tâm đến mẹ.
Thấy Cẩm Thanh đi xa rồi, tôi mới lén lút lấy từ trong ngực ra một cái bình
sứ nhỏ, rồi lấy một viên thuốc bằng hạt gạo từ trong bình ra, đưa vào
miệng nuốt. Lắc lắc cái bình, số thuốc còn lại trong bình cũng không còn nhiều lắm.
Lúc tiễn Thái Thượng Lão Quân về, bản thượng thần và
Cẩm Thanh cùng nhau tiễn ông ấy ra đến cửa. Lúc tới cửa, Thái Thượng Lão Quân vỗ đùi, chán nản nói: “Xong rồi, tiểu tiên để quên phất trần ở
trong phòng rồi”. Nói xong thì quay lại đi vào trong phòng, mới đi được
hai bước, Thái Thượng Lão Quân không hiểu sao lại vấp ngã, bản thượng
thần và Cẩm Thanh hoảng hốt vội bước lên đỡ, Thái Thượng Lão Quân run
rẩy đứng lên, ôm lấy cổ chân, nói: “E là chân của tiểu tiên bị trật rồi, đi lại không tiện, có thể nhờ Cẩm Thanh mang phất trần tới đây giúp
tiểu tiên được không?”.
Tôi cau mày: “Bá Dương bị ngã, không ngại thì quay lại chỗ tôi nghỉ ngơi một lúc, chứ cứ để thế này quay về thì
chỉ làm cho chân bị thương nặng hơn mà thôi”.
Thái Thượng Lão Quân xoa xoa cổ chân, run giọng nói: “Chỗ này của Thượng thần không có thuốc, tiểu tiên vẫn nên trở về thì hơn”.
Tôi nghĩ ngợi, cảm thấy ông ấy nói như thế cũng không có gì là không đúng hết cả.
Cẩm Thanh buông tay đang đỡ Thái Thượng Lão Quân ra, sau đó lùi lại mấy
bước, cầm lấy một cành cây to, viết lên mặt đất: “Đại Bạch đừng nói nữa, nếu Thái Thượng Lão Quân muốn tôi đi lấy đồ, thì để tôi đi là được”.
Anh ta ném cành cây trong tay xuống đất, liếc nhìn Thái Thượng Lão Quân
một cái, rồi quay đầu đi mất.
Trên mặt đất có một dòng chữ lớn,
bản thượng thần có muốn giả vờ như không thấy cũng không xong. Anh ta đi vô cùng dứt khoát, để bản thượng thần ở lại đây dọn dẹp bãi chiến
trường cho anh ta!
Tôi xấu hổ cười với Thái Thượng Lão Quân, áy
náy nói: “Lão Quân đừng để ý, Cẩm Thanh vẫn luôn ở trong Si Mị Chung,
chưa từng tiếp xúc với người bên ngoài, cho nên tính tình thế đấy”.
Thái Thượng Lão Quân thở dài, lắc đầu: “Tiểu tiên sao lại để ý đến những
chuyện này đâu”. Dừng lại một chút, ông ấy lấy một cái bình sứ nhỏ từ
trong ngực ra đưa cho tôi, giọng nói mang theo mấy phần chần chừ, “Tiểu
thần thấy trong Si Mị Chung có nhiều độc trùng, Cẩm Thanh là do hồn
phách của Si Mị Chung biến thành, nên đương nhiên là không sợ những độc
trùng này, nhưng mà vết thương của Thượng thần còn chưa lành, vẫn nên
cẩn thận thì hơn. Trong này có một ít thuốc phòng côn trùng, Thượng thần nhớ ăn mỗi ngày”.
Tôi gật đầu, nói tiếng cảm ơn, tiếp nhận.
Thái Thượng Lão Quân lại nói: “Để tránh làm cho Cẩm Thanh lo lắng, tiểu tiên đề nghị Thượng thần lúc uống thuốc đừng để anh ta nhìn thấy”.
Bản thượng thần suy nghĩ, cảm thấy Thái Thượng Lão Quân nói có lý. Cẩm
Thanh còn nhỏ, chắc là chưa từng thấy qua những thứ này, vẫn nên không
có việc gì thì đừng dọa anh ta là hơn.
Uống thuốc xong, đang muốn nhắm mắt tĩnh dưỡng một chút, Cẩm Thanh đã mang nho được rửa sạch vào.
Chàng nhẹ nhàng đặt đĩa trái cây xuống mặt bàn, vỗ vỗ vào tay tôi, rồi
bóc vỏ một quả nho đưa tới tận miệng cho tôi. Thịt nho trong suốt, mọng
nước, ánh mặt trời chiếu vào, cũng khiến cho tôi cảm thấy chói mắt. Ngón tay đang cầm nho rất mềm mại, móng tay có dính chút nước nho trở nên
hồng hồng. Tôi chớp mắt. Cẩm Thanh cười với tôi, rồi lại giơ giơ quả nho trước mặt tôi.
Lông mi dài cong cong của chàng in bóng trên mặt, có chút gầy hơn so với trước đây, nhưng cũng may sắc mặt xem như là tốt.
Tôi cầm tay chàng, duỗi ngón tay cầm lấy quả nho ăn. Tay chàng rất lạnh,
còn không ấm bằng tay tôi. Lén thăm dò linh thai của chàng, thấy pháp
lực mỏng manh như có như không.
Cẩm Thanh thấy tôi ăn nho, ánh
mắt tỏ ra vui vẻ, sau đó lại tiếp tục bóc vỏ một quả nho khác cho tôi.
Tôi nhìn chàng chăm chú, nói một cách dịu dàng: “Cẩm Thanh vẫn luôn ở
trong Si Mị Chung bé nhỏ này, có từng nghĩ muốn đi ra ngoài một lần
không?”.
Bàn tay đang bóc vỏ nho của Cẩm Thanh không dừng lại, lắc đầu.
Tôi chớp mắt, thở dài: “Lúc còn nhỏ tôi ham chơi, không thích học tập. Phụ
thân thường dạy tôi, việc tu hành không thể chậm trễ dù chỉ một ngày, có ông ấy đốc thúc, tôi ít nhiều gì cũng coi như học được vài thứ. Sau đó
có lần phụ thân rời khỏi nhà mấy ngày, a nương thương tôi, không chịu
được tôi nhõng nhẽo quấn quýt, đối với chuyện tôi lười biếng không chịu
tu hành cũng nhắm một mắt mở một mắt, thư thái được mấy ngày thì cha tôi trở lại, dưới sự giám sát của cha, tôi lại phải tiếp tục chuỗi ngày tu
hành nhàm chán vô vị”.
Cẩm Thanh đặt những quả nho đã được bóc vỏ vào trong một cái chén, ngước mắt nhìn tôi, cười cười.
“Vốn cũng không có gì, nhưng vừa mới trải qua mấy ngày nhàn nhã, mấy ngày
sau đó khi bắt đầu tu hành trở lại quả thật là rất gian nan, sống một
ngày mà như một năm”. Tôi dừng lại một chút, cười nói, “Sau này vì cứu
Thái Ất, tôi lấy Tinh Nguyên Châu ra, tất cả pháp lực đột nhiên mất
sạch, quả thật là cảm thấy không dễ chịu”.
Cẩm Thanh ngước mắt nhìn tôi một lúc, rồi đưa tay vỗ vỗ vào mu bàn tay tôi.
Tôi cười: “Đây là Cẩm Thanh muốn an ủi tôi hay sao?”.
Chàng gật đầu, ngẫm nghĩ, rồi viết vào tay tôi: “Sau này quen thì sẽ thấy thoải mái thôi”.
Tôi chớp mắt, gật đầu: “Nếu như quen rồi mà thấy thoải mái, thì tôi cũng cảm thấy phần nào được an ủi”
Ánh mặt trời bên ngoài càng lúc càng gay gắt, tôi quay đầu nhìn về phía
ngoài cửa sổ, thản nhiên nói: “Tôi còn nhớ hình như không xa ở đằng kia
có mấy cây hoa phượng hoàng(34), bây giờ chắc là đang nở hoa rực rỡ rồi, Cẩm Thanh có thể hái giùm tôi một ít không”.
Cẩm Thanh vỗ vỗ vào tay tôi, đứng dậy đi ra ngoài.
Tôi dặn với theo: “Trong vườn có nhiều phấn của hoa phượng hoàng, nhưng mà
tôi cảm thấy màu đỏ vẫn thu hút hơn, Cẩm Thanh không ngại thì chỉ hái
những bông hoa đỏ thôi nhé”.
Bước chân của Cẩm Thanh hơi dừng lại, quay đầu cười với tôi một cách yêu chiều.
Tôi ngồi nguyên tại chỗ, lặng lẽ thở dài. Đôi khi mắt không thấy rõ, cũng
không phải là cái gì cũng không thấy rõ. Bây giờ đột nhiên có thể nhìn
thấy rõ ràng, tôi lại cảm thấy một số việc có chút mơ hồ. Hôm qua, Cẩm
Thanh cầm cây sáo hỏi tôi, có phải tôi đã sửa cây sáo hay không. Tôi lấy cây sáo từ trong ngực ra, cầm trong tay xoay xoay mấy vòng. Chuyện tôi
sửa cây sáo này không có người thứ hai biết, vết nối cũng không dễ thấy. Những chỗ khác đều trơn nhẵn, được ánh mặt trời chiếu vào, ngọc bích
trong suốt sáng long lanh, tỏa ra ánh sáng rực rỡ.
Nguyên liệu
làm nên nó quả thật là một khối ngọc tốt, mới làm ra được một cây sáo
ngọc tinh xảo như vậy, cũng chỉ có là gia đình đế vương ở nhân gian, mới có thể có được bảo vật cực phẩm như thế này.
Thuốc của Thái Thượng Lão Quân quả nhiên là thuốc tốt, mới được có mấy ngày, mà tôi đã có thể thấy rõ được cả cây sáo.
Mấy ngày nay Bích Hoa gầy đi rất nhiều, tóc cũng dài hơn trước đây, mỗi khi gió thổi qua khiến tôi cảm thấy bóng dáng chàng thật mảnh khảnh.
Ta đứng lên, bước ra ngoài.
Cây hoa phượng hoàng khá cao, Bích Hoa không có pháp thuật chỉ có thể chọn
những cành hoa ở dưới thấp mà hái, y phục chàng màu xanh lẫn trong một
khu vườn xanh xanh hồng hồng, dường như muốn hòa tan vào nhau.
Tôi lùi mấy bước về phía sau, quay sang hướng khác, hướng về một phía khác
của vườn hoa mà gọi lớn tiếng: “Cẩm Thanh, chàng ở đâu?”.
Phía
sau truyền đến tiếng bước chân vội vã, tôi quay đầu, nhìn thấy Bích Hoa
đang cầm mấy cành hoa phượng hoàng đứng sau lưng tôi, nhìn tôi một cách
lo lắng. Tôi che mũi, hắt hơi một cái thật to, nhịn xuống, rồi lại hắt
hơi lần nữa. Bích Hoa chân tay luống cuống lấy từ trong ngực ra một cái
khăn tay.
Tôi lùi về phía sau mấy bước, che mũi, nước mắt giàn
giụa. Hắt hơi mấy cái liền, rồi mới nói một cách ngắt quãng: “Ôi, Cẩm
Thanh chắc là không biết, tôi… Hắt xì… Tôi bị dị ứng với hoa phượng
hoàng, mỗi lần lại gần là lại bị như vậy, nên mới nhờ chàng đi hái, nếu
không… Hắt xì… Nếu không tôi đã tự đi hái rồi”.
Bích Hoa cười cười, lắc đầu.
Tôi nói: “Chàng mau đem hoa đi đi. Sau đó đi tắm, thay toàn bộ quần áo rồi qua tìm tôi”.
Bích Hoa cười cười, cong cả người lại.
Tôi xấu hổ: “Chuyện này có gì đáng cười đâu, đừng cười nữa”.
Bích Hoa gật đầu, rồi cầm hoa đi mất.
Tôi bỏ tay đang che mũi xuống, ngồi xổm xuống nhặt những cánh hoa phượng
hoàng rơi trên đất. Cỏ xanh một màu, những cánh hoa màu đỏ tươi rơi trên đó, nhìn như những vết máu rợn người.
—– o0o —–
Tôi kiễng chân, lặng lẽ đi về phía sau phòng, khẽ hé cửa hổ nhìn vào bên
trong phòng. Mái tóc đen dài của Bích Hoa nổi lên trên mặt nước, nhìn xa trông như một dòng suối đen tuyền. Trên ngực có một cái bớt màu đỏ,
nhìn trông giống như đóa hoa đào.Tôi nhẹ nhàng khép cửa sổ lại, quay lại phòng chính ngồi.
Vốn còn nghi ngờ chuyện cây sáo là do người
khác nói cho Bích Hoa nghe, bây giờ xem ra, đó là chuyện không có khả
năng. Trong ngực cảm thấy vô cùng khó chịu, giống như có một khối đá lớn đè lên vậy. Phụ thân nói rất đúng, tôi đúng là kẻ ngốc, một kẻ đại ngốc mà.
Tôi cười cười, có giọt lệ theo khóe mắt chảy xuống, trên thế gian này thế mà lại có người còn ngốc hơn cả tôi. Khổ sở tìm một người
trong mười năm, nghĩ ra biện pháp cực đoan đến như thế để giữ người ta
lại, lúc ngôi vị hoàng đế đã đến tay mà lại không đành lòng, thả người
ta ra, lại còn ngốc nghếch mà tặng người ta cả tính mạng của mình. Cuối
cùng cũng thành tiên, thấy người ta, lại không chịu nói ra, lén đứng ở
một bên để nhìn, ngốc nghếch mà lao lên nhận diệt thiên lôi thay cho
người ta, biến chính mình thành kẻ nửa sống nửa chết, cũng may là trời
cao thương tình, cuối cùng cũng chữa khỏi, thì lại mang Nguyên Đan của
mình tặng cho người ta, mà trước đó còn làm chuyện khiến cho người ta
hiểu lầm nghiêm trọng như vậy.
Có lẽ bên ngoài có gió thổi, mùi hương hoa thoang thoảng bay vào trong phòng.
Tôi còn nhớ có tiểu tiên phạm phải sai lầm lớn, bị lấy đi Nguyên Đan, khiến cho hồn phi phách tán, mà bây giờ tôi còn có thể thấy Bích Hoa, chắc là do có Si Mị Chung. Đang yên ổn lại không chịu làm Thượng tiên, cũng
không nên để bản thân rơi vào kết cục phải sống ký sinh trong Si Mị
Chung, thấy tôi, còn giả vờ câm điếc để giấu diếm thân phận, rốt cục là
chàng đang sợ cái gì. Quả nhiên chàng là kẻ vô cùng ngốc, vô cùng vô
cùng ngốc!
Rèm ở phòng chính bị một bàn tay vén lên, Bích Hoa đi
vào, ngồi xuốngbên cạnh tôi, nhìn thấy tôi khóc, đưa tay ra lau nước mắt cho tôi, nhìn tôi lo lắng, vội vã viết vào tay tôi: “Sao lại khóc?”.
Tôi hắng giọng, cười nói: “Đâu có, chỉ là vừa rồi hắt hơi nhiều quá nên nước mắt mới chảy ra thôi”.
Bích Hoa nhìn tôi cười.
Tôi đứng lên, chạy về phía phòng bếp: “Tôi nhớ hình như chàng thích uống
canh cá, tôi đi nấu một bát cho chàng”. Tôi còn nhớ trong bữa yến tiệc
hôm đó, Bích Hoa không hề động đến những đĩa thức ăn trước mặt, chỉ uống sạch sẽ món canh cá mà thôi. Đúng lúc ánh nắng bên ngoài rọi vào, chiếu lên người tạo cảm giác vô cùng ấm áp. Tôi cười. Sau này,cũng vẫn sẽ
tiếp tục cười.
NGOẠI TRUYỆN 3 – NỬA ĐÊM ĐẦU TRẦN ĐÓN GIÓ: Niễn Ngọc.
Gió đêm nay khá lớn, e là trời muốn mưa. Tôi còn nhớ tối hôm đó Tử Như đến thời tiết cũng như vậy. Đứa bé ấy lộ ra gương mặt trắng bệch, nước mắt lưng tròng, hai gò má vốn phúng phính lại hõm sâu vào, dưới ánh nến phần nào trở nên hung dữ.
Nàng mở to đôi mắt vô hồn nhìn tôi trừng trừng, chớp chớp mắt nhìn tôi, ngón tay gầy guộc tóm chặt lấy vạt áo tôi, đôi môi tái nhợt hé ra, dường như dùng hết tất cả sức lực trong người, cuối cùng cũng khàn giọng nói: “Sự phụ, Tử Như xin người”.
Tôi bình tĩnh nhìn nàng, hai tay giấu trong ống tay áo, không nói một câu nào.
Lúc Tử Như được tôi đem về mới chỉ là một con tiểu bạch hồ còn chưa biết nói, cả ngày chỉ quanh quẩn bên chân tôi, theo như sư đệ nói thì, nó không phải là một con hồ ly, mà phải là một con chó nhỏ mới đúng. Mỗi lúc như thế, tôi cuối cùng cũng ôm bóng dáng bé nhỏ ấy từ mặt đất lên, đặt trong tay đùa nghịch. Bạch hồ ly mở to đôi mắt tròn ngập nước nhìn tôi, thè lưỡi ra liếm vào mặt tôi.
Vốn tôi không thích những hành động như vậy, cứ có cảm giác mấy thứ như nước miếng đều là những thứ dơ bẩn một khi đã dính vào rồi thì rửa cũng không sạch được, nhưng cứ nhìn đôi đồng tử đen như mực của nàng, lòng tôi lại mềm nhũn, không nhịn được đưa tay vuốt đầu nàng. Lông của nàng vô cùng mượt mà, sờ vào khiến lòng bàn tay có cảm giác ngưa ngứa, mềm mại.
Đại khái là tôi rất cưng chiều nàng, cho nên, tuy rằng sau này nàng có biến hình thành người, nhưng mỗi khi thấy tôi vẫn thường thích biến trở về hình dáng hồ ly, sau đó lao vào ngực tôi để tôi ôm ấp. Theo như sư đệ nói, tôi đối với Tử Như không giống như sư phụ đối với đồ đệ, mà giống như là…
Tôi vẫn muốn hỏi sư đệ xem giống như cái gì, có điều mỗi lần anh ta nói xong tiếng cuối cùng, giọng nói vẫn luôn nhỏ đến mức không để cho người khác nghe thấy, hỏi dồn, sư đệ sẽ đẩy cửa sổ nhảy ra, người biến mất không để lại một cái bóng.
Sau đó Tử Như phạm sai lầm lớn, chọc giận khiến cho Bà La Già muốn giết nàng, nếu như không phải tôi ra mặt cứu nàng, sợ là nàng đã sớm chết ở trong Cung Tu La. Sau khi trở về Tử Như đã thay đổi nhiều, buồn bực không vui, cả ngày nhốt mình trong phòng, đến cả khi nhìn thấy sư phụ là tôi cũng không có phản ứng, cũng không thích biến thành hồ ly quanh quẩn quanh chân tôi. Tôi cảm thấy vô cùng cô đơn.
Tay áo bị kéo. Tử Như dùng hết sức lực ngẩng đầu lên, ngón tay đang nắm lấy tay áo của tôi trắng bệch: “Sư phụ!”.
Ánh mắt của nàng vẫn đen như vậy, tròn như vậy, làm cho tôi nhớ đến con hồ ly nhỏ vẫn thích quanh quẩn bên chân tôi. Cuối cùng, tôi chậm rãi gật đầu. Ánh mắt nàng sáng lấp lánh, cuối cùng nhắm lại, buông cánh tay đang nắm lấy áo của tôi xuống, vĩnh viễn ngủ say.
“Cốc cốc cốc”. Ngoài cửa có người gõ cửa, loáng thoáng có thể thấy có bóng dáng đang cúi khom người.
Tôi từ trong dòng suy tư lấy lại sự tỉnh táo, hướng ra ngoài cửa cao giọng hỏi: “Có chuyện gì?”.
Người hầu đứng ngoài cửa giọng nói mang theo mấy phần vội vã, mấy phần nghẹn ngào: “Cổ Vương xin nhanh theo tôi đi tiền điện, vừa rồi Ma Quân mới quay về, còn bị trọng thương”.
Tôi mở cửa: “Vậy đi thôi”.
Bước chân của người hầu dẫn đường rất gấp gáp, vậy xem ra Bà La Già bị thương không nhẹ. Nghe nói Bà La Già hôm nay muốn kết hôn cùng nữ nhân kia, sao lại ầm ĩ thành ra như vậy, làm sao có thể? Tôi mở miệng cười cười, hay là nữ nhân kia là một người đanh đá, lúc không vui đã đem trói ngài ấy vào cột đánh? Nhưng rõ ràng tôi vẫn còn nhớ ngày hôm đó, cô ấy xem như là một cô nương tính tình mềm mại dịu dàng. Nếu không cũng sẽ không dễ dàng tha thứ cho Tư Như như vậy. Tôi vỗ vỗ trán, lớn tuổi, suy nghĩ cứ tự nhiên nhảy ra như vậy, cả ngày nghĩ lung tung, không nghĩ chút gì về chính sự hết.
Tiền điện đèn đuốc sáng trưng, Bà La Già nằm ở trên giường nhỏ, có một đám người vây quanh. Trên ghế cao có một người đang ngồi, mặc áo choàng đen, vạt áo thêu hoa văn hình những đám mây bằng chỉ vàng, mái tóc dài đen như mực không buộc lại, buông xuống vai, rồi thả rơi trên mặt đất, trên trán có một viên bảo thạch màu lam, lóe ra ánh sáng nhàn nhạt.
Tôi quỳ gối trên mặt đất, trán chạm đất: “Tham kiến Ma Quân Thái Vu”.
Thái Vu phẩy tay bảo tôi đứng lên, rồi chỉ vào Bà La Già nói: “Xin Niễn Ngọc giúp Ngô xem qua cho nó”.
Đám người vây quanh giường tránh ra tạo thành khoảng trống, Bà La Già gương mặt trắng bệch lạnh lùng nằm trên giường, y phục trên người có chỗ cháy sém, vết máu trên khóe miệng còn chưa khô. Nhìn dáng vẻ như thế này, hình như là bị lửa làm tổn thương, có điều, thứ lửa có thể làm Ma Quân bị thương cũng không nhiều.
Tôi đưa tay đặt lên mạch của ngài ấy, mạch ngài ấy đập rất nhanh, nhanh đến không bình thường.
Bà La Già híp mắt nhìn tôi, nghiêm giọng nói: “Các ngươi lui xuống, bổn tọa muốn ở một mình với Cổ Vương một lúc”.
Đám người kia lặng lẽ lui xuống, tôi liếc trộm lên vị trí chính vị phía trên, không một bóng người. Bà La Già cố gắng ngồi thẳng dậy, dựa vào gối mềm ở phía sau, che miệng ho một tiếng, đôi mắt đen như mực nhìn thẳng vào tôi. Mặt tôi không đổi sắc, bình thản để yên cho ngài ấy nhìn. Một trận gió thổi vào, khiến ánh nến trong phòng nhảy nhót, phần lớn tắt mất, chỉ còn có mấy cái đèn nhỏ còn sáng, phòng đột nhiên tối đi nhiều. Sắc mặt ngài ấy trong ánh sáng nến lờ mờ không quá rõ ràng, nửa gương mặt ẩn trong bóng tối.
Sau một lúc lâu, Bà La Già cuối cùng cũng hoàn toàn nhắm hẳn mắt lại, chậm rãi hỏi: “Niễn Ngọc rời khỏi y cốc đã bao lâu rồi?”.
Tôi tính toán, nói: “Khoảng chừng cũng hơn sáu trăm vạn năm rồi. Thần còn nhớ lúc thần tới, cuộc chiến Tiên – Ma cũng mới bắt đầu”.
Bà La Già thở dài, giống như trầm tư, cúi đầu nói: “Lâu như vậy à”.
Tóc ngài ấy rối tung xõa trên vai, có vài sợi rơi xuống trước mặt, nhìn trông có vẻ hiu quạnh.
“Vừa rồi tôi nằm đây, trước mắt lại đột nhiên có rất nhiều hình ảnh lờ mờ hiện lên, không nhìn thấy rõ, nhưng lại cảm thấy rất quen thuộc, nơi này”, ngài ấy đưa tay đặt lên ngực, “Nơi này cũng không thoải mái, giống như bị cái gì đó ngăn chặn lại”.
Tôi hạ mi mắt, che lại lãnh ý trong mắt, dịu dàng an ủi: “E là Ma Quân thân thể bị thương nên sinh ra ảo giác, lúc bị thương, trong người không thoải mái cũng là bình thường”.
Bà La Già ngẩng đầu liếc nhìn tôi, rồi bỗng nhiên cười: “Nếu như Niễn Ngọc đã nói vậy thì bổn tọa cũng an tâm rồi, trên người chỉ có chút vết thương ngoài da, không đáng ngại, ông chỉ cần để lại ít thuốc bôi ngoài da là được rồi”.
Tôi khom người cúi chào, quay người lui ra. Gió bên ngoài càng lúc càng lớn, cát bụi bay đầy trời. Cổ trùng đã ở trong cơ thể Bà La Già gần sáu trăm vạn năm, tiếc là đã bị một phen lửa thiêu đốt cháy sạch mất rồi. Trí nhớ của Bà La Già cũng sắp trở lại rồi. Tôi chớp mắt, nhìn bầu trời đêm đen kịt trên đầu, cũng nên mau chóng quay về.
Mưa giông chớp giật trước bão.
Ngày ấy Tử Như kéo tay áo tôi, vùng vẫy: “Con yêu Bà La Già như thế, vậy mà chàng đến ngay cả nhìn con một lần cũng không bằng lòng, chỉ biết ngồi dưới tàng cây kia chăm chú nhìn bàn cờ, mỗi lần nhìn là cả một ngày”. Ánh mắt nàng lộ ra vẻ oán hận, “Sư phụ, con hận. Nữ nhân tên A Hoàn kia tốt lắm hay sao, vừa ngu xuẩn, vừa yếu đuối, làm sao có thể xứng đôi với Bà La Già được, tương lai làm sao đảm đương được trọng trách của Ma Hậu!”.
Tay nàng nhè nhẹ run rẩy, môi cũng run run theo, giọng nói thê lương: “Điều đáng hận nhất là cô ta chiếm được thứ mà người khác không chiếm được, nhưng lại cứ như vậy bỏ đi, nếu như cô ta biết bản thân mình phải ra đi, thì vì sao còn muốn cùng con tranh giành”. Giọng của Tử Như dần dần chậm lại, mang theo chút nghẹn ngào, “Thế nhưng, Bà La Già cả ngày đều nhớ đến cô ta”.
Tôi đưa tay sờ đầu nàng, nhớ lại dáng vẻ tiểu hồ ly đùa nghịch bên chân tôi, tiếc là bộ lông mềm mượt năm đó đã biến thành búi tóc phức tạp, phía trên cắm đầy châu hoa, khi ánh sáng chiếu vào, sáng lấp lánh, tuy nhìn thì đẹp đẽ, nhưng lại cảm thấy có phần lạnh lẽo.
Tử Như vươn cánh tay gầy guộc nắm chặt lấy cổ tay tôi không buông, ánh mắt sáng đến dọa người, rồi lại giống như một cái hang động đen không thấy đáy, hút người ta rơi vào sâu bên trong: “Tử Như cầu xin sư phụ giúp Tử Như, hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của Tử Như”. Giọng nói của nàng trong đêm đen như mực mang theo mấy phần lạnh giá, “Tử Như cầu xin sư phụ phong ấn lại tình yêu của Bà La Già đối với người ấy, vĩnh viễn phong ấn! Tốt nhất là làm cho chàng hoàn toàn quên đi sự tồn tại của người ấy”.
Tôi thản nhiên nói: “Cho dù là ngài ấy có quên, cũng sẽ không yêu con, con cần gì phải làm như thế”.
Gương mặt Tử Như lộ ra vẻ bi thương, rồi lại toát ra vẻ vui vẻ đến quỷ dị: “Không yêu cũng không sao, dù sao cô ta chiếm được rồi lại đánh mất, cũng còn không bằng con. Ha ha…”. Nàng thở hổn hển, tạm nghỉ một lúc, giọng nói mang theo mấy phần mềm mại, “Hơn nữa như thế, chàng cũng sẽ không phải khổ sở, cảm giác chờ đợi một người vĩnh viễn sẽ không xuất hiện, quả thật là… vô cùng tuyệt vọng, thời gian lâu, khụ khụ…”.
Tử Như ho ra máu, sắc mặt càng lúc càng trắng, gương mặt lộ vẻ chua xót: “Thời gian lâu, đại khái sẽ giống như con, như vậy thì phải làm sao”.
Nói qua nói lại, cuối cùng vẫn là vì Bà La Già. Tôi chớp chớp đôi mắt khô khốc, trong tâm đau đớn vô cùng.
Ngoài cửa sổ một tiếng sấm nổ vang, mưa rào rào đổ xuống. Bóng cây bị mưa rơi xuống không ngừng lay động, in lên cửa sổ, giống như những xúc tu.
Tôi cúi đầu cười hai tiếng, Niễn Ngọc à Niễn Ngọc, trong đêm khuya thanh tĩnh như thế này, ngươi nửa đêm để đầu trần đón gió mưa như vậy cho ai xem, đúng thật là khác người.
Nước mưa từ cửa sổ rơi vào trong phòng, làm ướt cái bàn đặt cạnh cửa sổ, cuối cùng tôi nhìn bầu trời tối đen ngoài kia, rồi đóng cửa.