HAI NGÀY SAU, tôi cảm thấy hơi choáng ngợp bởi những cảnh vật và âm thanh của New York. Tôi đã đi bộ qua nhiều dãy phố đến nỗi chân tôi đau nhức, và tôi đã nhìn thấy những điều thú vị đến kinh ngạc. Chẳng hạn như ở Bloomingdale, người ta có một nhà máy sản xuất sôcôla! Và có cả một quận chẳng có gì nhưng lại đầy rẫy những cửa hiệu giày!
Tôi vẫn cố rủ Luke cùng đi ngắm tất cả những khung cảnh kỳ diệu này nhưng anh chỉ tham dự hết cuộc họp này đến cuộc họp khác. Anh gặp khoảng hai mươi người mỗi ngày – ra sức thuyết phục những khách hàng tiềm năng và móc nối với những người làm truyền hình, và thậm chí còn đi tìm bằng mặt bằng mở văn phòng ở khu tài chính. Anh nói trong bữa sáng hôm qua rằng anh cần nhanh chóng bắt tay vào công việc và gặt hái được những thành công ban đầu ngay khi vừa đến. Tôi định nói đùa một chút về việc “Hãy bẻ gãy một chân đi!” (*)… nhưng rồi tôi quyết định không nói nữa. Thời gian này Luke đang nghĩ mọi việc hơi nghiêm túc một chút.
Cùng với việc gây dựng công ty mới, sáng nào anh cũng nhận được những báo cáo tường tận từ Alicia ở London – cô ta không ngừng gởi fax cho anh ấy phê chuẩn và gửi những e-mail dài không cần thiết. Tôi biết cô ta chỉ làm vậy để phô trương tài năng với Luke – và điều thực sự khó chịu là nó có tác động. Chẳng hạn như việc, hai khách hàng gọi điện than phiền vài chuyện, nhưng khi anh ấy gọi cho Alicia, cô ta đã nhanh chóng hành động và giải quyết xong. Rồi thì tôi phải nghe đến 15 phút về việc cô ta giỏi giang ra sao, cô ta đang làm tốt công việc như thế nào – và tôi cứ gật đầu mãi như thể hoàn toàn tán thành. Nhưng tôi vẫn không thể chịu được cô ta. Một sáng nọ, cô ta gọi điện khi Luke đã ra ngoài, và khi tôi cầm máy lên, cô ta nói, “Rất xin lỗi vì làm phiền đến giấc ngủ tuyệt vời của chị!” với cái giọng đầy kẻ cả, và cúp máy trước khi tôi kịp nghĩ ra câu trả đòn hay.
Tuy nhiên, đừng lo. Điều tích cực là Luke và tôi đã thu xếp được một chuyến đi dạo trong Central Park – dù chỉ là 5 phút. Và một chiều nọ, Luke đưa tôi đến phà Staten Island, nơi này thật kỳ diệu – trừ cái lúc tôi làm rơi chiếc mũ lưỡi chai bóng chày mới của mình xuống biển.
Rõ ràng tôi không cố ý hét to như vậy. Và tôi cũng không cố ý để người phụ nữ lớn tuổi ấy nghe nhầm mà nghĩ tôi bị mât “con mèo” – chắc chắn tôi cũng không muốn bà ấy khăng khăng đòi con tàu dừng lại. Chuyện này gây ra chút ồn ào lộn xộn, thực sự hơi đáng xấu hổ. Tuy nhiên, đừng lo – như Luke nói, ít nhất thì tất cả các du khách mang theo máy quay kia cũng có cái gì đó để quay phim.
Nhưng bây giờ đang là sáng thứ Tư. Những ngày nghỉ đã trôi qua – và tôi có một linh cảm mơ hồ về nỗi sợ hãi chết người. Hôm nay là cuộc hẹn đầu tiên của tôi với hai người rất quan trọng bên truyền hình đến từ đài HLBC. Tôi thực sự rất sợ.
Luke đã đi ăn sáng từ sớm gặp gỡ Michael và công ty săn đầu người hàng đầu nào đó chuyên tìm kiếm người tài trong lĩnh vực PR. Công ty này sẽ cung cấp nhân viên cho anh ấy, vì thế tôi bị bỏ lại một mình trên giường, nhâm nhi cà phê và nhấm nháp cái bánh sừng bò, tự nhủ với mình đừng lo lắng. Bí quyết là đừng hốt hoảng, hãy luôn bình tĩnh và tự tin. Luke cứ cam đoan mãi với tôi rằng đây chỉ là một cuộc gặp mặt, không phải cuộc phỏng vấn, chỉ đơn giản là sự ra mắt. Anh ấy gọi nó là bữa trưa “để-làm-quen-với-em.”
Nhưng ở một khía cạnh nào đó, ăn trưa còn đáng sợ hơn phỏng vấn. Điều gì xảy ra nếu bạn làm rơi cái gì đó? Điều gì xảy ra nếu tôi không boa cho đúng người. Điều gì xảy ra nếu tôi không thể nghĩ ra cái gì đó để nói mà ngồi đó trong sự im lặng ngượng ngùng?
Tôi dành cả buổi sáng trong phòng, cố gắng đọc Wall Street Journal và xem CNN – nhưng việc đó thậm chí còn làm tôi sợ hơn. Ý tôi là, mấy người dẫn chương trình truyền hình Mỹ này tài tình không chê vào đâu được. Họ không bao giờ nói nhịu, không bao giờ bông đùa, và họ biết mọi thứ. Chẳng hạn như ai là tham tán thương mại của I rắc và những ảnh hưởng của việc trái đất nóng dần lên đối với Pê ru. Và tôi ở đây, nghĩ rằng tôi có thể làm được cái mà họ làm.
Vấn đề khác của tôi là nhiều năm nay tôi chưa từng tham gia một cuộc phỏng vấn hẳn hoi nào cả. Chương trình Morning Coffee chưa bao giờ buồn phỏng vấn tôi, tôi chỉ việc cứ thế mà làm thôi. Còn công việc cũ của tôi ở chuyên mục Successful Saving, tôi chỉ có một buổi tán gẫu thân mật với Philip, tổng biên tập, vốn đã biết tôi từ các buổi họp báo trước đó. Vì vậy ý nghĩ phải gây được sự chú ý của hai nhân vật lạ hoắc chưa hề gặp nào đó là điều thật đáng sợ.
“Hãy cứ là chính em,” Luke luôn nói vậy. Nhưng thành thực mà nói, đó là một ý nghĩ thật nực cười. Ai cũng biết, cốt lõi của việc phỏng vấn không phải là để thể hiện bạn là ai mà giả vờ bạn là bất kỳ kiểu người nào người ta yêu câu cho công việc đó. Đó là lý do tại sao người ta gọi nó là “kỹ xảo phỏng vấn.”
Bộ trang phục tôi sẽ mặc phỏng vấn là cái áo vest đen tuyệt đẹp mua ở Whistles, với cái chân váy khá ngắn được khâu bằng một đường chỉ đỏ nhã nhặn. Tôi kết hợp chúng với một đôi giày cao gót và một cái quần tất mỏng đắt tiền. (Hay còn gọi nó là “bít tất dài” vì từ bây giờ tôi phải gọi như vậy. Nhưng thành thực mà nói, nghe cứ như trong kịch Shakespeare hay gì đó.) Khi tôi đến nhà hàng đã hẹn, nhìn mình trong cánh cửa kính, tôi hoàn toàn bị ấn tượng. Nhưng cùng lúc đó, một nửa trong tôi muốn bỏ chạy, từ bỏ ý định, và mua cho mình một đôi giày thật đẹp để an ủi.
Dù sao tôi cũng không thể làm vậy. Tôi phải vượt qua chuyện này. Lý do bụng tôi cảm thấy trống rỗng và tay tôi ướt đẫm mồ hôi là vì việc này thực sự quan trọng đối với tôi. Tôi không thể tự nhủ rằng mình không quan tâm và nó không quan trọng, giống như cái cách tôi vẫn làm với hầu hết mọi chuyện. Bởi vì chuyện này thật sự quan trọng. Nếu tôi không cố gắng kiếm được một công việc ở New York thì tôi sẽ không thể sống ở đây. Nếu tôi phá hỏng cuộc phỏng vấn và lan truyền khắp nơi, rằng tôi không còn hy vọng – thì mọi chuyện đều kết thúc. Ôi Chúa ơi. Chúa ơi…
OK, bình tĩnh nào, tôi tự trấn an mình. Tôi có thể làm việc này. Tôi có thể làm được. Và sau đó, tôi sẽ tự chiêu đãi mình một bữa nho nhỏ. Cái trang web Kẹo ngọt Mỗi ngày gửi mail cho tôi sáng nay, và rõ ràng là siêu thị lớn bán đồ trang điểm ở SoHo có tên gọi Sephora này đang có chương trình khuyến mãi đặc biệt ngày hôm nay đến 4h chiều. Mọi khách hàng đều được tặng một gói kẹo – nếu bạn mua trị giá 50 đô, bạn sẽ được tặng một cái hộp trang điểm đặc biệt được chạm khắc cầu kỳ! Ý tôi là, điều này thật thú vị, đúng không?
Khoảng hai giây sau khi email đó được gửi đến, tôi cũng nhận được một cái từ Jodie, cô gái tôi đã gặp ở chương trình hạ giá hàng mẫu lần trước. Tôi đã kể với cô ấy rằng tôi hơi lo lắng về cuộc gặp mặt với mẹ của Luke – cô ấy nói tôi nên cải thiện lại bề ngoài cho dịp này và Sephora chắc chắn là địa điểm cần đến, vậy tôi có muốn gặp cô ấy không? Sẽ rất vui, ít nhất là…
Đấy, bạn thấy không, tôi đã cảm thấy khá hơn rồi, chỉ cần nghĩ đến chuyện đó. OK, cố lên cô gái. Hãy đi gặp họ đi.
Tôi dồn hết sức đẩy cánh cửa mở ra, và bỗng nhiên thấy mình đang ở trong một nhà hàng rất sang trọng, tất cả đều là đồ sơn mài đen với vải lanh trắng và những bể cá đầy màu sắc.
“Xin chào,” nhân viên khách sạn trong trang phục đen nói.
“Chào,” tôi nói. “Tôi đến đây để gặp…”
Chết tiệt, tôi hoàn toàn quên tên những người tôi sắp gặp.
Ôi, khởi đầu tuyệt đấy, Becky! Việc này thật chuyên nghiệp đấy.
“Anh chờ… một chút được không?” Tôi nói và quay đi, mặt hơi đỏ. Tôi lục mẩu giấy – chúng đây rồi. Judd Westbrook và Kent Garland.
Kent à? Đấy có phải là một cái tên có thật không nhỉ?
“Tôi là Rebecca Bloomwood,” tôi nói với anh nhân viên, vội vã nhét mẩu giấy trở lại túi xách, “đến gặp Judd Westbrook và Kent Garland của đài truyền hình HLBC.”
Anh ta dò danh sách rồi mỉm cười lạnh nhạt. “À vâng. Họ đã đến đây rồi.”
Tôi thở thật sâu, đi theo anh ta đến bàn ăn – và họ kai rồi. Một phụ nữ tóc vàng trong bộ vest màu be và một người đàn ông nổi bật trong bộ vest đen cũng không chê vào đâu được đeo cà vạt màu lục xám. Tôi đấu tranh với bản thân để không chạy trốn, cố mỉm cười thật tự tin, và giơ tay ra. Họ đều ngẩng lên nhìn tôi, không ai nói gì trong một lúc – và tôi cảm thấy tội lỗi như vừa phá vỡ một nghi thức chuẩn mực nào đó. Ý tôi là, ở Mỹ người ta bắt tay đúng không nhỉ? Bạn có nên hôn má không nhỉ? Hay cúi đầu?
Và may thay, người phụ nữ tóc vàng đứng dậy nắm tay tôi thật ấm áp.
“Becky!” cô ta nói. “Rất vui mừng được gặp chị. Tôi là Kent Garland.”
“Judd Westbrook,” người đàn ông nói, nhìn tôi với ánh mắt sâu thăm thẳm. “Chúng tôi rất háo hức được gặp chị.”
“Tôi cũng vậy!” tôi nói. “Và cảm ơn anh chị vì bó hoa rất đáng yêu!”
“Không có gì,” Judd nói, và dẫn tôi ra ghế ngồi. “Đó là vinh hạnh của chúng tôi.”
“Một vinh hạnh lớn lao,” Kent nói.
Một quãng im lặng chờ đợi.
“Vâng, đó cũng là… niềm vinh hạnh to lớn đối với tôi,” tôi nhanh nhảu nói. “Vô cùng… lớn lao.”
Từ nãy đến giờ là ổn. Nếu chúng tôi cứ tiếp tục nói với nhau niềm vinh hạnh như thế nào, tôi chắc sẽ ổn cả thôi. Tôi thận trọng đặt túi xách xuống sàn nhà, cùng với mấy tờ Financial Times và Wall Street Journal. Tôi cũng đã nghĩ đến tờ South China Morning Post nhưng lại quyết định như thế kể ra hơi quá.
“Quý khách muốn dùng đồ uống gì ạ?” người phục vụ bàn nói, xuất hiện ngay cạnh tôi.
“À vâng!” Tôi nói, và lo lắng nhìn lướt quanh bàn xem mọi người đã gọi gì rồi. Kent và Judd đều đã có một cốc đầy cái gì đó nhìn như coktail G&T, vì thế tốt hơn hết là tôi nên theo họ. “Làm ơn cho cock-tail G&T.”
Thành thực mà nói, tôi nghĩ mình cần nó, chỉ để thư giãn. Khi tôi mở thực đơn ra, cả Judd và Kent đều chăm chú nhìn tôi cảnh giác, cứ như thể họ nghĩ tôi có thể đột nhiên bung nở thành bông hoa hay cái gì đó vậy.
“Chúng tôi đã xem các băng ghi hình của chị,” Kent nói, nhoài người về phía trước. “Và chúng tôi thấy rất ấn tượng.”
“Thật thế ạ?” tôi nói, và rồi nhận ra giọng mình không nên tỏ ra quá đỗi ngạc nhiên như vậy. “Thật ra,” tôi nhắc lại, cố gắng tỏ ra bình thản. “Vâng, ừm, thật sự tôi rất tự hào về chương trình, đương nhiên là…”
“Chị biết đấy, Rebecca, chúng tôi sản xuất một chương trình có tên là Consumer Today,” Kent nói. “Hiện giờ chúng tôi rất muốn cho thêm phần tư vấn đại loại như kịch bản chị đang làm ở Anh.” Cô ấy liếc nhìn Judd, người cũng đang gật đầu đồng tình.
“Rõ ràng chị có niềm đam mê trong lĩnh vực tài chính cá nhân,” anh ta nói.
“Ôi,” tôi nói, hơi choáng. “Ừm…”
“Điều này toả sáng trong các chương trình của chị,” anh ta mạnh mẽ khẳng định. “Cũng như sức hút mà chị truyền tải qua các chủ đề chị làm.”
Sức hút ư?
“Chị biết đấy, chị thực sự rất độc đáo, Rebecca ạ,” Kent đang nói. “Một cô gái trẻ gần gũi và duyên dáng, kiến thức chuyên môn cao và đầy sức thuyết phục, trong những điều chị nói…”
“Chị là nguồn cảm hứng cho những người đang gặp khó khăn về tài chính ở khắp nơi,” Judd đồng ý.
“Điều chúng tôi ngưỡng mộ nhất là tính kiên nhẫn chị thể hiện khi làm việc với những người này.”
“Sự cảm thông chị dành cho họ…”
“… và phong cách trẻ trung của chị nữa chứ!” Kent nói, và nhìn tôi chăm chú. “Làm thế nào chị giữ được phong cách đó thế?”
“Ừm… chị biết đấy! Cái đó… tự nhiên mà có, tôi nghĩ vậy…” Người phục vụ bàn đặt đồ uống trước mặt tôi và tôi cầm nhanh lấy nó đầy biết ơn. “Ừm. cạn ly nào, mọi người!” tôi nói, nâng cao cái ly lên.
“Cạn ly!” Kent nói. “Chị đã sẵn sàng gọi món chưa Rebecca?”
“Chắc chắn rồi!” tôi đáp và nhanh chóng nhìn thật nhanh thực đơn. “ừm… làm ơn cho món cá vược, và salát rau.” Tôi nhìn những người khác. “Và chúng ta dùng chung bánh mì tỏi chứ?”
“Tôi không ăn các món làm bằng bột mì,” Judd lịch sự nói.
“Không sao,” tôi nói. “Vậy… còn Kent?”
“Tôi không ăn các món có nhiều cacbon-hyđrat,” cô ấy vui vẻ nói. “Nhưng chị cứ tự nhiên. Tôi chắc là nó rất ngon!”
“Không, không sao,” tôi nhanh nhảu nói. “Tôi sẽ chỉ dùng cá vược.”
Chúa ơi, làm sao tôi ngốc nghếch thế chứ? Tất nhiên người Manhattan không ăn bánh mì tỏi.
“Và đồ uống gì ạ?” người bồi bàn hỏi.
“Ừm…” tôi nhìn quanh bàn. “Tôi không biết. Có lẽ là rượu vang nho trắng chăng? Mọi người muốn uống gì nhỉ?”
“Nghe ổn đấy,” Kent nói với một nụ cười thân thiện, và tôi thở phào nhẹ nhõm. “Chỉ thêm một chút nước khoáng Pellegrino nữa cho tôi,” cô ấy nói thêm, và chỉ vào cái cốc của mình.
“Cả tôi nữa,” Judd nói.
Pellegrino sao? Họ đang uống Pellegrino à?
“Tôi cũng chỉ uống nước thôi!” tôi nói nhanh. “Tôi không cần rượu nữa! Nó chỉ là ý nghĩ nhất thời. Anh chị biết đấy…”
“Đừng!” Kent nói. “Chị cứ uống bất cứ thứ gì chị thích!” Cô ấy mỉm cười với người bồi bàn.
“Làm ơn cho một chai vang nho trắng, cho vị khách của chúng tôi.”
“Thành thực…” tôi nói, mặt đỏ lên.
“Rebecca này,” Kent nói, giơ tay lên và mỉm cười. “Bất cứ thứ gì làm chị thấy thoải mái.”
Ồi tuyệt thật. Giờ thì cô ấy nghĩ tôi chắc chắn là một kẻ nghiện rượu. Cô ấy nghĩ tôi không thể sống sót qua một bữa trưa để-làm-quen-với-em mà không uống say tuý luý.
Được rồi, đừng lo. Mọi việc đã vậy rồi. Và sẽ OK thôi. Tôi sẽ chỉ uống một ly. Một ly, và thế là đủ.
Và đó thực sự là việc tôi định làm. Uống một ly và kết thúc ở đó.
Nhưng vấn đề là, cứ mỗi lần tôi uống hết ly rượu của mình thì người bồi bàn lại đến đổ đầy nó lần nữa, và chẳng hiểu thế nào tôi lại thấy mình uống tiếp. Hơn nữa, có vẻ sẽ hơi tiếc khi gọi cả một chai rượu mà lại không uống.
Và rốt cuộc là, đến lúc chúng tôi ăn xong, tôi cảm thấy hơi… Ừm. Tôi nghĩ chỉ một từ là say. Một từ khác là say bí tỉ. Nhưng không thành vấn đề, bởi vì chúng tôi đã thực sự có một thời gian vui vẻ cùng nhau, và tôi thực sự tỏ ra rất dí dỏm. Có lẽ vì tôi đã thư giãn một chút. Tôi đã kể cho họ nghe rất nhiều chuyện vui nhộn ở hậu trường chương trình Morning Coffee, họ lắng nghe chăm chú và đều nói cùng một câu “rất ấn tượng.”
“Tất nhiên người Anh các chị rất khác với chúng tôi,” Kent nói đầy suy tư, khi tôi kể cho cô ấy nghe về cái lần anh chàng quay phim Dave đến trường quay say bí tỉ đến độ ngã bổ nhào vào giữa một cảnh quay và làm cho Emma ngoáy tay vào mũi. Chúa ơi, việc đó rất buồn cười. Thực sự, tôi đã không thể nhịn được cười khi nghĩ về chuyện này.
“Chúng tôi rất thích khiếu hài hước kiểu Anh của chị,” Judd nói và nhìn tôi chăm chú như thể đang chờ đợi một câu chuyện cười khác.
OK, nhanh lên. Nghĩ ra cái gì đó vui nhộn đi. Chất hài hước kiểu anh. Ừm… Fawlty Towers (**) chăng? Hay Ab Fab (***)?
“Đừng đề cập đến chiến tranh!” Tôi nghe tiếng mình kêu lên. “Ôi anh yêu quý.” Tôi cười khì khì, Judd và Kent trao nhau ánh mắt khó hiểu.
Vừa lúc đó, cà phê được mang tới. Ít nhất thì tôi cũng đang uống cà phê, Kent thì đang uống trà dùng cho bữa sáng ở Anh, và Judd đang uống cái thứ thảo mọc nào đó mà anh ta đưa cho bồi bàn pha.
“Tôi rất thích trà,” Kent nói, mỉm cười với tôi. “Rất thanh tao. Này, Rebecca. Ở Anh, có một phong tục mà bạn xoay ấm trà ba lần theo chiều kim đồng hồ để xua đuổi tà ma. Điều đó có đúng không? Hay là ngược chiều kim đồng hồ?”
Xoay cái ấm trà à? Tôi chưa bao giờ nghe về việc xoay cái ấm trà quái gở nào.
“Ừm… để tôi nhớ xem nào.”
Tôi nhăn mặt suy tư, cố gắng nhớ lại lần gần đây nhất mình uống trà rót ra từ một cái ấm. Nhưng hình ảnh duy nhất xuất hiện trong đầu tôi là việc Suze nhúng một túi trà vào cái cốc to trong khi dùng răng xé một gói KitKat.
“Tôi nghĩ là ngược chiều kim đồng hồ,” cuối cùng tôi cũng lên tiếng. “Bởi vì một câu nói cổ xửa, “Ma quỷ bò quanh cái đồng hồ… nhưng không bao giờ đi theo chiều ngược lại.”
Tôi đang nói cái quái gì thế? Tại sao tự nhiên tôi lại nói giọng Scotland thế này?
“Tuyệt diệu!” Kent nói, uống một ngụm trà. “Tôi mê mệt những phong tực lạ lâu đời của Anh như thế này. Chị có biết phong tục nào khác không?”
— —— —— —— —— —— ——
*. Câu trong nguyên bản là “Break a leg!”. Đây là câu nói dùng để chúc ai đó may mắn. – ND.
**. Fawlty Towers là phim hài tình thế nổi tiếng của Anh được phát sóng trên đài BBC, gồm hai xêri vào năm 1975 và 1979.
***. Ab Fob là tên viết tắt của phim hài tình thế “Absolutely Fabulous” nổi tiếng của Anh.
“Tất nhiên rồi!” Tôi hào hứng nói. “Tôi biết rất nhiều.”
Thôi nào, Becky. Hãy thôi ngay bây giờ đi.
“Chẳng hạn như, chúng tôi có một phong tục rất cổ xưa về… về việc ‘xoay bánh ăn cùng trà’.”
“Thật sao?” Kent nói. “Tôi chưa bao giờ nghe thấy phong tục đó.”
“Ồ có mà,” tôi tự tin nói. “Là thế này, chị lấy cái bánh ăn khi uống trà…” tôi bốc một chiếc bánh mì từ chỗ người bồi bàn vừa đi qua. “Và chị… xoay nó trên đầu như thế này… và chị… chị đọc nhỏ một câu chú có vần…”
Các mảnh vụn bánh mì đang bắt đầu rơi xuống đầu tôi, và tôi không thể nghĩ đến câu gì khác để đọc cho vần với chữ bánh ăn cùng trà, vì vậy tôi đặt chiếc bánh xuống và uống một ngụm cà phê. “Họ làm như vậy ở vùng Cornwall,” tôi nói thêm.
“Thật sao?” Judd nói đầy hứng thú. “Bà tôi cũng đến từ vùng Cornwall. Tôi phải hỏi bà về nó thôi!”
“Chỉ rải rác vài nơi ở Cornwall,” tôi giải thích. “Chỉ vài điểm nhất định thôi.”
Judd và Kent nhìn nhau đầy khó hiểu – rồi cả hai bỗng phá lên cười.
“Khiếu hài hước kiểu Anh của chị!” Kent nói. “Nó thật mới mẻ.”
Trong giây lát tôi không hiểu mình nên phản ứng lại thế nào – rồi tôi cũng bắt đầu cười. Chúa ơi, điều này thật tuyệt. Chúng tôi mỗi lúc nói chuyện một rôm rả. Rồi mặt Kent sáng bừng lên.
“Này, Rebecca, tôi đã định nói. Tôi có một cơ hội khá thú vị dành cho chị. Tôi không biết chị có kế hoạch gì cho chiều nay không. Nhưng tôi có một cái vé có một không hai… đến…”
Cô ấy dừng lại để tăng thêm phần hiệu quả, mỉm cười phóng khoáng, và tôi nhìn cô ấy hào hứng bất ngờ. Một vé đi dự chương trình hạ giá hàng mẫu của hãng Gucci. Chắc chắn là thế rồi!
“…Hội thảo Thường niên của Hiệp hội các nhà Đầu tư Tài chính!” cô ấy nói đầy tự hào.
Tôi không thể nói được điều gì trong một lúc.
“Thật thế à?” Cuối cùng tôi cũng lên tiếng, giọng tôi hơi cao hơn bình thường. “Chị… chị chắc đang đùa!”
Làm thế quái nào mà tôi thoát khỏi vụ này được?
“Tôi biết!” Kent vui vẻ nói. “Tôi nghĩ chị sẽ rất vui. Vậy nếu chị không làm gì chiều nay thì…”
“Tôi sắp làm gì đó! Tôi muốn gào khóc. Tôi sẽ đi Sephora tút lại vẻ bề ngoài của mình.
“Có một vài diễn giả được đánh giá rất cao,” Judd nói thêm. “Bert Frankel chẳng hạn.”
“Thật sao?” tôi nói. “Bert Frankel!”
Tôi chưa bao giờ nghe nói đến cái gã Bert Frankel quái quỷ đó.
“Vậy… tôi có cái vé vào cửa ở đây…” Kent nói, với tay lấy cái túi xách.
Nhanh lên. Tôi phải nói cái gì đó nếu không muốn phải dành cả buổi chiều quý giá ở New York ngồi trong một phòng hội thảo ảm đạm nào đó.
“Thật đáng tiếc!” Tôi nghe thấy mình kêu lên. “Bởi vì thực ra…”
Tôi không thể nói với họ là tôi phải đi thử son môi.
“Thực ra… chiều nay tôi đã có kế hoạch ghé thăm bảo tàng Guggenheim.”
Phù. Ai lại đi phản đối việc khám phá văn hóa chứ.
“Thật sao?” Kent nói, nhìn hơi thất vọng. “Chị không thể để việc này sang ngày khác được sao?”
“Tôi e là không thể,” tôi nói. “Có một vật trưng bày đặc biệt mà tôi hằng ao ước muốn xem kể từ khi… kể từ khi tôi còn là đứa trẻ lên sáu.”
“Thật sao?” Kent nói, mắt mở to.
“Đúng vậy.” Tôi nhoài người về phía trước đầy vẻ nghiêm túc. “Lúc tôi nhìn thấy bức ảnh chụp nó trong cuốn sách mỹ thuật của bà tôi, nó đã là khát vọng của tôi từ hồi còn bé cho đến khi đặt chân đến thành phố New York, và tôi phải xem tác phẩm nghệ thuật này. Bây giờ tôi đang ở đây… Tôi chỉ không thể chờ lâu hơn được nữa. Tôi hy vọng anh chị hiểu…”
“Tất nhiên rồi!” Kent nói. “Tất nhiên là chúng tôi hiểu chứ! Thật là một câu chuyện có sức lôi cuốn!” Cô ấy và Judd trao cho nhau những cái nhìn ấn tượng, và tôi mỉm cười khiêm tốn lại với họ.
“Vậy… tác phẩm nghệ thuật đó là gì vậy?”
Tôi nhìn cô ấy chằm chằm, vẫn mỉm cười. OK, nhanh lên, nghĩ đi. Bảo tàng Guggenheim. Các bức tranh đương đại à? Hay điêu khắc?
Tôi 50-50 với phương án các bức tranh đương đại. Giá mà tôi có thể gọi điện thoại cho người thân.
“Thực sự… tôi không nên nói,” cuối cùng tôi cũng lên tiếng. “Tôi luôn coi sở thích nghệ thuật là một vấn đề rất riêng tư.”
“Ồ,” Kent nói, trông cô ấy hơi ngạc nhiên một chút. “Vậy thì, tất nhiên, tôi không có ý xâm phạm dưới bất kỳ hình thức nào…”
“Kent này,” Judd nói, liếc nhìn đồng hồ một lần nữa. “Chúng ta thực sự phải…”
“Đúng rồi,” Kent nói. Cô ấy uống thêm một ngụm trà nữa rồi đứng lên. “Tôi xin lỗi, Rebecca, chúng tôi có cuộc họp vào lúc 2h30. Nhưng thật vinh hạnh được gặp chị.”
“Tất nhiên rồi!” tôi nói. “Không sao đâu!”
Tôi cố đi thật vững theo họ ra ngoài nhà hàng, Khi đi qua xô đá đựng rượu tôi hơi lảo đảo nhận ra không ít thì nhiều mình cũng phải uống hết cả chai. Thật đáng xấu hổ. Nhưng tôi không nghĩ ai đó phát hiện ra đâu.
Chúng tôi ra ngoài nhà hàng, Judd đã gọi sắn một chiếc taxi cho tôi.
“Thật tuyệt khi được gặp chị, Rebecca ạ,” anh nói. “Chúng tôi sẽ báo cáo lại với phó giám đốc phụ trách sản xuất chương trình của chúng tôi, và chúng ta sẽ… giữ liên lạc nhé! Hãy thật vui vẻ ở bảo tàng Guggenheim nhé.”
“Chắc chắn rồi!” tôi nói, bắt tay từng người một. “Chắc chắn tôi sẽ rất thích mà. Cảm ơn hai anh chị nhiều nhé!”
Tôi lên taxi và đóng sập cửa lại.
“Chào,” tôi nói với người lái taxi, rồi nhìn xem Judd và Kent đã đi khỏi chưa. “Tôi muốn đi…”
“Bảo tàng Guggenheim,” người lái xe chen vào. “Tôi đã nghe thấy rồi.”
“Thực ra không phải vậy, tôi muốn đến trung tâm mua sắm SoHo. Cái siêu thị Sephora ở Broadway.”
Người lái xe xoay người lại nhìn tôi. Anh ta to lớn, da ngăm đen, và khuôn mặt anh ta đang nhăn nhúm lại.
“Thế còn bảo tàng Guggenheim thì sao?”
“Ừm… chắc tôi sẽ đến đó sau.”
“Sau à?” người lái xe nói. “Cô không thể đến xem qua loa bảo tàng Guggenheim được. Guggenheim là một bảo tàng rất đẹp. Picasso này, Kandinsky này. Cô không muốn bỏ qua chỗ này đâu.”
“Tôi sẽ không bỏ qua! Thực sự đấy, tôi hứa. Vậy chúng ta đi đến siêu thị Sephora bây giờ được chứ? Làm ơn?”
Một sự im lặng phản đối từ hàng ghế trước.
“Được rồi,” cuối cùng anh ta cũng lên tiếng và bắt đầu nổ máy.
Khi chúng tôi đi khỏi, tôi ngả mình sau ghế thật thoải mái. Tôi nghĩ bữa ăn trưa thực sự khá suôn sẻ. Có lẽ ngoại trừ lúc tôi kể với họ giai thoại về Rory và con chó dẫn đường. Và cả chuyện tôi trượt chân ngã trên đường vào nhà vệ sinh nữa. Nhưng rồi, những chuyện đó có thể xảy ra với bất cứ ai mà. Sự thật là, tôi đang lấn sâu hơn vào New York. Mới chỉ ba ngày, nhưng tôi đã bắt nhịp được ngôn ngữ và mọi thứ. Chẳng hạn như hôm qua, tôi nói Đi tìm hiểu mà thậm chí không cần phải nghĩ. Và tôi khen một chiếc váy là dễ thương!
Chúng tôi đỗ lại trước vạch dành cho người đi bộ, tôi nhìn chăm chú ra ngoài băn khoăn không biết đang ở phố nào – bỗng nhiên tôi chết cứng vì sợ.
Kia là Judd và Kent. Ngay đằng kia, trước mặt chúng tôi. Họ đang sang đường. Kent đang say sưa nói điều gì đó và Judd thì gật đầu. Ôi Chúa ơi. Tôi không thể để họ nghĩ tôi đi sai đường được. Nhanh lên, trốn đi.
Tim đập thình thịch, tôi ngồi sụp xuống dưới ghế, và gần như cúi xuống cả sàn xe, cố gắng núp sau cuốn Wall Street Journal. Trời, tại sao không có thêm không gian trong mấy cái taxi này chứ?
“Ở phía sau OK chứ cô?” người lái taxi nói.
“Ồn cả,” tôi nín thở. Tôi cẩn thận ngoi đầu lên – và ơn Chúa, Judd và Kent đã biến mất. Khi bò lổm ngổm lên ghế, tôi đập đầu vào cửa xe.
“Này cô!” một giọng nói kỳ quái vang lên làm tôi giật bắn mình sợ hãi. “Cẩn thận chứ! An toàn là cần thiết, OK? Vì thế thắt dây an toàn vào đi!”
“OK,” tôi nói giọng khiêm nhường. “Xin lỗi về chuyện đó. Tôi thực sự xin lỗi. Tôi sẽ không làm như vậy nữa.”
Lóng ngóng cài lại dây an toàn, tôi bắt gặp ở trong gương ánh mắt của người lái xe.
“Đó là một thông báo được thu băng lại,” anh ta nói đầy khinh miệt. “Cô đang nói chuyện với một cái máy thu âm đấy.”
Tôi biết rồi.
Chúng tôi dừng lại ở siêu thị Sephora trên đại lộ Broadway, tôi giúi một nắm đô la cho người lái taxi, anh ta nhìn tôi đăm đăm.
“Quý cô vừa uống rượu đúng không?”
“Không,” tôi phẫn nộ nói. “Ý tôi là… có. Nhưng chỉ là một chút rượu trong lúc ăn trưa…”
Người lái taxe lắc đầu lái xe đi khỏi, và tôi bước không vững về phía siêu thị Sephora. Thành thực mà nói, tôi cảm thấy hơi chóng mặt. Tôi đẩy cánh cửa mở ra và… wow. Đèn pha nhảy múa khắp bên trong siêu thị sáng choang, quanh quầy thu ngân đen bóng; quanh những tấm thảm chùi chân màu đỏ sẫm; quanh cả hàng ngàn lọ sơn móng tay bằng thủy tinh. Tiếng nhạc xập xình, các cô cái chạy qua chạy lại khắp nơi, và những anh chàng ăn mặc rất thời trang trong những chiếc áo polo màu đen có cổ và mũ đội dầu đồng phục đang phát các túi kẹo. Tôi mê mẩn nhìn ngó xung quanh, tôi chưa bao giờ thấy nhiều mỹ phẩm thế này trong đời. Hàng giá, hàng giá son môi. Hàng giá, hàng giá phấn mắt. Đủ các màu như cầu vồng bảy sắc. Và ôi, nhìn kìa, những cái ghế xinh xắn để bạn ngồi đánh thử, cả những cái gương cá nhân nữa. Nơi này… ý tôi là, nơi này là thiên đường.
“Chào Becky, cuối cùng chị cũng đến được!” Tôi ngẩng lên thì thấy Jodie đang vẫy tôi ở quầy lược. Hôm nay, cô mặc một cái váy chui đầu sọc đỏ và trắng, khi tôi tiến lại gần, tôi thấy móng tay cô ấy cũng được sơn sửa lại màu kẻ đỏ và trắng cho đồng bộ với váy. “Đã sẵn sàng lột xác chưa?”
Cô dẫn tôi đến chỗ những cái ghế xinh xắn kia để tôi ngồi xuống cảm giác thật dễ chịu. Một cô gái mặc đồ đen tiến lại gần tôi với nụ cười thân thiện tự giới thiệu mình là Mona, chuyên gia trang điểm của tôi ngày hôm nay.
“Chị đã nghĩ chị sẽ trang điểm như thế nào chưa ạ?” cô nói khi bật một chiếc đèn chiếu lên soi vào mặt tôi.
“Ừm, tôi trang điểm để đi gặp mẹ bạn trai tôi,” tôi giải thích. “Tôi muốn trông đại loại… chỉn chu một chút.”
“Lịch sự và tinh tế đúng không ạ?”
“Chính xác!”
“Tôi hiểu ý chị rồi,” Mona nói, gật đầu. “Màu nâu sẫm và màu be. Gương mặt khó có thể bỏ qua.”
“Màu nâu sẫm á?” Jodie nói, nhíu mày. “Đã có ai nhìn xinh đẹp với màu nâu sẫm chưa?”
“Và có lẽ một màu thật nhẹ nhàng với môi thôi,” Mona nói, tảng lờ Jodie. “Hãy để tôi bắt đầu với một lớp kem lót sáng màu…”
Cô ấy với tay lấy một miếng mút trang điểm rồi nhẹ nhàng phủ phấn lên khắp mặt tôi. Khi cô ấy bắt đầu đánh mắt cho tôi, tôi thấy Jodie đứng đằng sau, khuôn mặt thoáng hiện một cái nhìn xét nét.
“Đối với phong cách lịch lãm này thì màu môi nhẹ nhàng có tác dụng hơn,” Mona nói.
“Đúng vậy,” tôi nói, gật đầu ra chiều hiểu biết. “Chắc chắn rồi!”
“Tôi sẽ đi lấy mascara…”
Cô ấy biến mất về phía đằng trước cửa hàng và tôi nhắm mắt lại. Nói thật, đầu tôi vẫn đang quay cuồng vì thứ rượu đó, tôi thấy khó ngồi thăng bằng trên cái ghế bé xíu này.
Bỗng nhiên má tôi lành lạnh, tôi ngẩng lên, Jodie đang đứng trước mặt tôi, nhúng ngón tay vào một cái lọ nhỏ.
“Chị đang làm gì đấy?” tôi yếu ớt nói.
“Làm cho chị thú vị lên một chút!” cô ấy nói, và chấm chấm nhẹ vào má tôi. “Tất cả những thứ trung tính vớ vẩn này! Cứ như thể đó là thứ chị muốn từ một cuộc trùng tu bề ngoài vậy?”
“Ừm…”
“Tôi biết chị quá lịch sự nên không muốn than phiền. Người Anh các chị thực sự cần phải tỏ thái độ một chút.” Cô ấy đứng lùi ra sau, gật đầu hài lòng. “Nào, chị đã bao giờ đeo lông mi giả chưa? Bởi vì họ có rất nhều thứ đó ở đây.”
“Jodie, tôi không chắc…”
“Này!” Cả hai chúng tôi cùng ngẩng lên thấy Mona tiến lại gần, khuôn mặt cô ấy thoáng hiện cảm giác bị lăng mạ. “Cái quái gì đang diễn ra thế này? Mặt cô ấy bị làm sao thế?”
“Vừa nãy cô ấy trông thật buồn tẻ,” Jodie bướng bỉnh nói.
“Vừa rồi trông cô ấy rất cổ điển!” Mona chống nạnh. “Ừm, giờ thì chị phá hỏng nó rồi!”
“Trên mặt tôi có cái gì thế?” tôi hỏi, kéo cái gương về phía mình. Chính khuôn mặt tôi đang nhìn lại. Mịn màng và màu be, với màu mắt thật nhẹ nhàng, màu môi kín đáo… và màu nhũ bạc trên má.
“Trông thật tuyệt, đúng không?” Jodie thản nhiên nói. “Trông đẹp hơn nhiều với màu nhũ.”
Tôi liếc nhìn khuôn mặt khó chịu của Mona, bất chợt cảm thấy hơi có lỗi.
“Thực ra, Mona này,” tôi nói thật nhanh, “tôi thực sự rất muốn mua vài sản phẩm chị vừa dùng. Thực ra là… tất cả chúng. Như vậy có được không?”
“Ồ,” Mona nói, giọng hơi cứng nhắc. “Ừm, vâng, tất nhiên rồi. Chúng thuộc dòng sản phẩm hơi đắt một chút…”
“Không thành vấn đề!” tôi vội vã quay lại phía Jodie. “Và… tôi sẽ mua cả phấn nhũ nữa. Tôi mua tất!”
Mười phút sau tôi thấy mình đã ở ngoài Sephora, tay nắm chặt hai túi đồ đầy mỹ phẩm, trọn bộ chổi trang điểm mới, một cái mũ đội màu bạc để tắm vòi hoa sen, và một loại kem gì màu nâu sẫm mà tôi ném vào ở phút cuối. Tôi không biết chắc nó là cái gì – nhưng cái lọ thì đẹp mỹ miều!
“OK,” tôi nói, bối rối nhìn con phố tấp nập trước mặt. “Đi đâu tiếp đây?”
“Bạn yêu quý, tôi phải đi rồi,” Jodie nói, ngẩng lên từ cái máy nhắn tin. “Tôi đã nghỉ ăn trưa năm tiếng đồng hồ rồi. Nhưng nếu chị muốn trải nghiệm thực sự ở SoHo thì có một cửa hiệu Dean and Deluca ở ngay trước mặt…” CÔ ấy xoay vai tôi cho đến khi tôi nhìn sang mặt phố bên kia. “…và cứ đi dọc là cửa hiệu Scoop, nơi chị có thể mua cái áo phông đắt nhất trên cả hành tinh này…”
“Còn kia thì sao?” Tôi nói, chỉ tay vào cửa hiệu tuyệt đẹp và sáng choàng đập vào mắt tôi.
“Kate’s Paperie. Đẹp chết người.”
“Nó bán cái gì?” tôi băn khoăn hỏi. “Chỉ toàn giấy thôi sao?”
“Chỉ toàn giấy!” cô ấy cười sằng sặc. “Chị đi xem đi. Và nghe này, chị vẫn muốn lúc nào đó gặp lại nhau chứ?
“Tôi rất muốn thế!” Tôi vui vẻ nói. “Tôi còn ở đây ít nhất một tuần nữa. Cảm ơn, Jodie.”
“Không có gì.”
Tôi nhìn Jodie vội vã lên tàu điện ngầm, bỗng nhận ra gót giày nhọn hoắt của cô ấy cũng được sơn sọc đỏ và trắng. Cái đó thật tuyệt! Cô ấy kiếm chúng ở đâu ra vậy?
“Jodie ơi!” tôi hét lên nhưng cô ấy không nghe thấy. Không sao, lần sau tôi sẽ hỏi cô ấy.
Khi cô ấy biến mất xuống ga tàu điện ngầm, tôi chậm rãi đi bộ đến cửa hiệu Kate’s Paperie. Thành thực mà nói tôi thực sự không hứng thú với giấy lắm. Có lẽ tôi cũng không tốn hơi mà đi vào đấy. Nhưng cũng chẳng hại gì nếu ghé vào một lát…
Tôi dừng lại khi đi tới ô kính bày hàng, nhìn chằm chằm vào mấy thứ đồ trưng bày, sững sờ. Khi Jodie nói giấy, tôi đã tưởng tượng ra hàng chồng giấy photo. Tôi không biết cô ấy ám chỉ… Ý tôi là, cứ nhìn mấy cái giá bày toàn giấy gói quà màu đá cẩm thạch này đi. Cả cái hộp bằng giấy bồi kia nữa chứ. Và cả cái dây rua băng đính hạt tuyệt đẹp kia nữa! Tôi chưa bao giờ nhìn thấy những thứ gì như vậy!
Tôi đẩy cửa mở, dạo quanh, chiêm ngưỡng cách sắp xếp những loại giấy gói quà tuyệt đẹp được tô điểm với hoa khô, sợi cọ, và những cái nơ hình con bướm, các album ảnh, các hộp đựng giấy viết tinh tế… Và ôi Chúa ơi, hãy nhìn những cái bưu thiếp này đi!
Bạn thấy chưa, đây mới chính là nó. Đây là lý do tại sao New York tuyệt đến vậy. Họ không chỉ có những cái thiếp buồn tẻ cũ rích ghi Chúc mùng Sinh nhật. Họ còn có cả thiếp làm bằng tay trang trí với mấy bông hoa lấp lánh ghép thành những câu dí dỏm như “Chúc mừng vì đã đẻ sinh đôi!” và “Rất buồn khi biết tin hai bạn chia tay!”
Tôi đi đi lại lại, sững sờ nhìn những giá hàng. Tôi phải có vài cái thiệp thế này mới được. Như cái thiếp tòa lâu đài xòe ra tuyệt đẹp này chẳng hạn, với lá cờ bên trên có dòng chữ “Tôi yêu ngôi nhà mới sửa lại của bạn!” Ý tôi là, tôi thực sự khôg biết ai mới sửa lại nhà, nhưng tôi có thể giữ nó cho đến khi mẹ tôi quyết định dán giấy lại phòng khách. Và cái thiếp được phủ bằng cỏ nhân tạo với dòng chữ “Gửi đến huấn luyện viên quần vợt xuất sắc với những lời cảm ơn.” Bởi vì tôi luôn dự định sẽ học chơi quần vợt vào mùa hè tới, và biết đâu tôi lại muốn cảm ơn huấn luyện viên của mình, phải không?
Tôi nhặt thêm vài cái nữa, rồi đi đến giá đựng thiếp mời. Và cái này thậm chí còn tuyệt hơn! Thay vì chỉ nói “Tiệc tùng đi” họ nói những câu đại loại như “Gặp nhau ở Câu Lạc Bộ ăn bữa nhẹ buổi sáng nhé!” và “Hãy đến ăn với chúng tôi một bữa pizza thân mật nhé!”
Bạn biết đấy, tôi nghĩ nên mua vài cái này. Sẽ thật là thiển cẩn nếu không làm vậy. Tôi và Suze có thể dễ dàng tổ chức một bữa tiệc pizza, đúng không nhỉ? Và chúng tôi sẽ không bao giờ tìm thấy thiệp mời kiểu này ở Anh. Và chúng thật xinh, với những miếng bánh pizza nhỏ xíu lấp lánh ở dọc mép thiếp! Tôi cẩn thận đặt năm hộp thiếp mời vào giỏ mua hàng, cùng với những chiếc thiếp xinh xắn, và vài tờ giấy gói quà có sọc kẻ hình việc kẹo, tôi không thể cưỡng lại được những thứ này, rồi đi ra quầy thu ngân. Khi người bán hàng quét mã vạch, tôi nhìn quanh cửa hàng lần nữa, liệu mình có để sót thứ gì không – và chỉ khi cô ấy thông báo tổng số tiền thì tôi mới ngẩng lên vì hơi sốc – Nhiều thế cơ à? Chỉ vài cái thiếp thôi mà?
Tôi băn khoăn một lúc không biết mình có thực sự cần tất cả chỗ này không. Chẳng hạn như cái thiếp viết “Nghỉ lễ Hanukkah vui vẻ nhé, Sếp!”
Nhưng rồi, biết đâu có ngày chúng lại hữu ích thì sao, đúng không nhỉ? Và nếu tôi định chuyển đến New York sống thì tôi cũng sẽ phải làm quen với việc thường xuyên gửi tặng các tấm bưu thiếp đắt tiền, vì thế thực sự đây cũng là một dạng thích nghi với môi trường sống.
Khi ra đến cửa, tôi láng máng nhận thấy đại loại một loại âm thanh gì đó róc rách như tiếng nước chảy – và bỗng nhiên nhận ra nó phát ra từ cái điện thoại di động của tôi.
“Alô!” tôi nói, gì sát vào tai. “Ai đấy ạ?”
“Alô. Anh đây,” Luke nói. “Anh nghe nói bữa trưa của em rất suôn sẻ.”
“Thật sao?” tôi nói, cảm thấy hơi ngạc nhiên. “Anh nghe ở đâu thế?”
“Anh vừa nói chuyện với một vài người ở đài HLBC. Rõ ràng là em đã rất ấn tượng. Rất dễ chịu, như lời họ nói.”
“Wow! Thật sao? Anh chắc chứ?”
“Hoàn toàn chắc. Ho còn nói em quyến rũ thế nào và yêu văn hóa ra sao… Anh thậm chí còn nghe nói họ gọi taxi cho em để đi đến bảo tàng Guggenheim.”
“Đúng thế,” tôi nói, nhoài người ra nhìn một con dao dọc giấy. “Họ đã làm vậy.”
“ừ, anh rất ngạc nhiên khi nghe kể toàn bộ câu chuyện về giấc mơ thời thơ ấu của em,” Luke nói.
“Kent cũng đã rất ấn tượng.”
“Thật sao?” tôi mơ hồ nói. “Vâng, vậy là tốt rồi.”
“Chắc chắn rồi!” Luke ngừng lại. “Hơi lạ là sáng nay không thấy em nhắc gì đến bảo tàng Guggenheim, đúng không nhỉ? Hay thực sự… chưa từng nghe. Anh đang ghi nhớ trong đầu mình rằng em đã luôn khao khát được đến đó từ khi là cô bé sáu tuổi.”
Bỗng nhiên tôi nghe thấy sự châm biếm trong giọng nói của anh, và chợt tỉnh táo ra. Anh ấy gọi để giễu cợt tôi đúng không?
“Em chưa bao giờ nhắc đến bảo tàng Guggenheim à?” tôi ngây thơ nói, và để lại con dao dọc giấy vào chỗ cũ. “Sao lạ thế nhỉ?”
“Không phải sao?” Luke nói. “Lạ chưa từng thấy. Vậy bây giờ em đang ở đó à?”
Điên thật!
Tôi im lặng một lúc. Tôi chỉ không thể thú nhận với Luke rằng tôi lại đi mua sắm. Nhất là sau lần anh ấy chế giễu tôi về chuyến đi tham quan quanh thành phố có hướng dẫn viên đó. Tôi hiểu rồi, tôi biết mười phút tách khỏi đoàn trong một chuyến tham quan dài ba tiếng đồng hồ thì không đáng là bao – nhưng tôi lại đi xa quá như đến trung tâm mua sắm Saks thì không được, đúng không nhỉ?
“Vâng,” tôi ngoan cố. “Đúng vậy, thực sự em đang ở đây.”
Điều này cũng gần đúng sự thật. Ý tôi là, chắc chắn tôi sẽ đến đó sau khi rời khỏi đây.
“Tuyệt!” Luke nói. “Em đang xem tác phẩm đặc biệt nào vậy?”
Ôi, im đi.
“Cái gì cơ?” tôi nói, bỗng lên cao giọng. “Xin lỗi, em đã không để ý! Luke này, em phải tắt điện thoại đi rồi. Người… ừm… người phụ trách đang kêu ca. Thôi, em sẽ gặp anh sau nhé.”
“Sáu giờ ở quán bar Royalton,” anh ấy nói. “Em có thể gặp Michael, cộng sự mới của anh. Và anh rất muốn nghe em kể về buổi chiều nay của em.”
Bây giờ tôi cảm thấy hơi có lỗi. Lẽ ra tôi không nên nói với Luke là mình đang ở bảo tàng Guggenheim. Lẽ ra tôi nên nói thật.
Nhưng điều đó đâu có quan trọng… bởi vì việc tôi sẽ làm là đi đến đó ngay bây giờ. Ngay phút này! Sau này tôi có thể quay lại khu SoHo vào một ngày khác đúng không?
Tôi bước đi chậm rãi trên con phố tấp nập, tự nhủ rằng việc tôi sẽ làm là gọi ngay một chiếc taxi và đi thẳng đến đó. Không trì hoãn. Đi thẳng đến bảo tàng Guggenheim và tắm mình trong một không gian văn hóa tuyệt vời nào đó. Tuyệt vời. Thực sự tôi không thể chờ được nữa.
Tôi đến một góc phố và không thể bước tiếp. Một chiếc xe taxi sáng đèn chầm chậm vượt qua – nhưng vì lí do lạ lùng nào đó cánh tay tôi không thể giơ lên. Bên kia phố có một sạp hàng bán kính rân nhái hàng hiệu và tôi bỗng cảm thấy khao khát muốn qua đó lục xem một lượt. Nhìn xem kìa, cửa hàng kia đang giảm giá quần bò Calvin Klein. Mà tôi thì thực sự rất cần một cái quần bò mới… Tôi lại còn chưa đến cửa hàng Dean and Deluca nữa chứ…
Ôi, tại sao bảo tàng Guggenheim lại không thể nằm ở khu SoHo chứ?
Chờ một phút.
Mọi người cứ đẩy tôi ra để đi mà tôi không thể nhấc chân lên được. Mắt tôi như đóng đinh vào cái gì đó gắn chặt vào mặt tiền phía trên lối vào. Tôi không thể tin được cái mình đang nhìn thấy.
Chữ GUGGENHEIM nhìn lại tôi chằm chằm, to như trời. Cứ như thể Chúa nghe thấy lời cầu nguyện của tôi vậy.
Nhưng cái gì đang diễn ra vậy? Có phải bảo tàng Guggenheim bỗng nhiên chuyển chỗ không? Hay là có hai bảo tàng Guggenheim?
Tôi vội vã tiến đến cánh cửa ra vào, nhận thấy nơi này hơi nhỏ đối với một bảo tàng – vậy có lẽ nó không phải là bảo tàng Guggenheim chính. Có lẽ nó là chi nhánh ở SoHo theo xu hướng thức thời nào đó chăng? ĐÚng thế! Ý tôi là nếu ở London có thể có Tate Gallery và Tate Modern thì tại sao ở New York lại không thể có bào tàng Guggenheim và bảo tàng Guggenheim ở SoHo? Nghe rất tuyệt đấy!
Tôi thận trọng đẩy cánh cửa mở ra – chắc chắn một điều, cả khu bảo tàng đều trắng và rộng rãi, với những tác phẩm đương đại đặt trên bệ, mọi người đi lại nhẹ nhàng, thì thầm với nhau.
Bạn biết đấy, chỗ này cũng giống như tất cả các bảo tàng khác thôi. Đẹp đẽ và nhỏ bé, cảm giác đầu tiên là thế, vì vậy bạn không cảm thấy mệt phờ khi đi lại loanh quanh. Ý tôi là, có lẽ bạn có thể đi hết chỗ này chỉ trong vòng nửa giờ đồng hồ. Ngoài ra, mọi thứ ở đây nhìn rất thú vị. Chẳng hạn như, hãy nhìn vào những khối lập phương màu đỏ ấn tượng trong cái tủ kính kia. Và bức tranh in trừu tượng tuyệt vời treo trên tường này nữa.
Khi tôi đang dán mắt nhìn bức tranh in đầy ngưỡng mộ thì một cặp đôi đi tới ngắm nhìn nó, rồi bắt đầu thì thầm với nhau nó đẹp thế nào. Rồi cô gái hồn nhiên hỏi, “Nó bao nhiêu tiền nhỉ?”
Tôi đang định quay về phía cô ấy với một nụ cười thân thiện và nói, “Đó cũng là điều tôi luôn muốn biết!” thì thật ngạc nhiên, người đàn ông vươn tay lật xem mặt sau. Một cái mác giá dính ở phía sau!
Một mác giá trong viện bảo tàng! Tôi không thể tin được điều này! Chỗ này thật hoàn hảo! Cuối cùng thì một người có suy nghĩ tiên tiến nào đó cũng nhất trí với tôi – rằng người ta không muốn chỉ ngắm nhìn các tác phẩm nghệ thuạt, họ còn muốn biết nó giá bao nhiêu nữa. Tôi sẽ viết cho mấy người ở bảo tàng Victoria và Albert về việc này.
Và bạn biết đấy, ngay lúc này tôi đang chăm chú nhìn quanh, tất cả các tác phẩm trưng bày dường như đều có mác giá. Những khối lập phương màu đỏ ở tủ kính kia cũng có giá, và cả cái ghế kia nữa, và cả cái… cả cái hộp bút chì kia nữa.
Thật kỳ lạ, có cả hộp bút chì ở trong viện bảo tàng. Khoan đã, có thể đó là nghệ thuật sắp đặt. Tôi tiến đến lại gần đó để nhìn kỹ hơn – và có cái gì đó in trên từng chiếc bút chì. Có lẽ một thông điệp ý nghĩa nào đó về nghệ thuật, hoặc về cuộc sống… Tôi tì lại gần hơn, đầy hứng thú, và nhận thấy mình đang đọc dòng chữ “Cửa hàng Bảo Tàng Guggenheim.”
Cái gì?
Cái này là một…
Tôi ngẩng đầu lên nhìn quanh bối rối.
Tôi đang ở trong một cửa hàng sao?
Bỗng nhiên tôi nhận thấy nhiều thứ mà lúc trước đã không nhìn thấy. Như hai quầy thu ngân ở góc bên kia. Và có ai đó đang ra khỏi cửa hàng với một vài túi đồ.
Làm sao tôi lại không nhận ra đây là một cửa hàng nhỉ? Nhưng… Điều này càng nghe càng không có lý. Chẳng lẽ đây chỉ là một cửa hàng thôi sao?
“Xin lỗi,” tôi nói với một cậu bé tóc vàng hoe có đeo biển tên. “Tôi có thể hỏi – đây là cửa hàng à?”
“Vâng thưa cô,” cậu bé lịch sự trả lời. “Đây là Cửa hàng Bảo tàng Guggenheim.”
“Thế bảo tàng Guggenheim thực sự nằm ở đâu? Với tất cả bức vẽ của Picasso và mọi thứ?”
“Nếu muốn xem các bức vẽ của Picasso cô phải đi đến bảo tàng chính, nằm ở Fifth Avenue trên phố 89,” cậu bé nói.
“Được rồi.” Tôi nhìn cậu bé bối rối. “Vậy để tôi làm rõ lại việc này nhé. Bạn có thể đến đây và mua rất nhiều đồ – và không ai quan tâm liệu bạn có đến bảo tàng hay không à? Ý tôi là, bạn không cần phải trình vé vào cửa hay gì đó đúng không?”
“Không, thưa cô.”
“Vậy bạn… bạn chỉ có thể mua đồ à?” Tôi cất cao giọng vui vẻ. “Thật tuyệt hảo!” Tôi chợt thấy thái độ hơi sốc của cậu bé nên vội nói thêm. “Ý tôi là, tất nhiên tôi rất muốn đi xem các tác phẩm nghệ thuật. Rất rất muốn. Tôi chỉ… cậu biết đấy. Hỏi lại cho kỹ.”
“Nếu cô quan tâm đến việc đi thăm viện bảo tàng,” cậu bé nói. “cháu có thể cho cô bản đồ chỉ đường. Cô có muốn đi thăm không ạ?”
“Ùm…”
Nào, đừng đưa ra một quyết định vội vàng nào cả.
“Ừm… tôi không chắc lắm,” tôi cẩn trọng nói. “Cậu chờ tôi một phút được không?”
“Chắc chắn rồi,” cậu bé nói, nhìn tôi với ánh mắt hơi lạ, rồi tôi ngồi xuống chiếc ghế màu trắng, nghĩ ngợi rất lung.
OK, đây là giải pháp. Ý tôi là, hiển nhiên tôi có thể vào trong một chiếc taxi và đến đó dù nó ở bất kỳ chỗ nào, rồi dành cả buổi chiều ngắm nhìn các bức vẽ của Picasso.
Hoặc là… tôi chỉ cần mua một cuốn sách về các tác phẩm của Picasso. Bởi vì vấn đề là, bạn có thực sự cần phải nhìn tận mắt một tác phẩm nghệ thuật để chiêm ngưỡng nó không? Tất nhiên là không. và ở một khía cạnh nào đó, lật qua một quyển sách sẽ thú vị hơn nhiều so với đi lang thang khắp các phòng tranh – bởi vì tôi chắc chắn sẽ tìm hiểu được đầy đủ hơn, nhanh hơn, và thực sự học hỏi được nhiều hơn.
Bên cạnh đó, cái mà họ có trong cái cửa hàng này chẳng phải là nghệ thuật sao, phải không nào? Ý tôi là, tôi đã cảm nhận thêm khá nhiều về văn hoá. Chính xác.
Vài giờ sau, tôi có mặt ở quán bar Royalton với một nụ cười rạng rỡ và mãn nguyện. Tôi chưa hề có một buổi chiều mua sắm nào thành công như thế này kể từ… ừm, kể từ hôm qua.
Tôi gửi tất cả các túi đồ ở quầy gửi đồ rồi đi thẳng vào quán bar nho nhỏ hình tròn mà Luke có nói tôi sẽ gặp anh ấy và cộng sự mới của anh. Michael Ellis.
Tôi đã nghe khá nhiều về cái gã Michael Ellis này trong suốt mấy ngày qua. Rõ ràng là anh ta sở hữu một công ty quảng cáo lớn ở Washington và là bạn thân thiết nhất của chủ tịch. Hay là phó chủ tịch nhỉ? Dù sao thì cũng đại loại như vậy. Về cơ bản, anh ta là một nhân vật quan trọng, và có ảnh hưởng quyết định đến vụ làm ăn mới của Luke. Vì thế tốt hơn hết là tôi nên gây ấn tượng với anh ta.
Chúa ơi, nơi này sành điệu quá, tôi nghĩ vậy khi bước vào trong. Tất cả đều bằng da và mạ crôm, và mọi người mặc những bộ quần áo đen tuyền với những kiểu tóc thật hợp với trang phục. Tôi bước vào cái quán bar hình tròn mờ mờ tối, và Luke kia rồi, đang ngồi bên bàn. Thật ngạc nhiên, anh ngồi đó một mình.
“Chào anh!” tôi nói, và hôn anh. “Vậy bạn của anh đâu rồi?”
“Đang nghe điện thoại,” Luke nói. Anh ra hiệu cho người bồi bàn. “Cho thêm một ly cocktail gimlet ở bàn này nữa nhé.” Anh nhìn tôi giễu cợt khi tôi ngồi xuống. “Vậy, em yêu, bảo tàng Guggenheim thế nào hả em?”
“Hay ạ,” tôi nói giọng đầy hiếu thắng. Ha, hahaha. Tôi đã làm bài tập trên taxi rồi. “Em thực sự thích thú với loạt các hình khối bằng acrylic dựa trên những hình dạng đơn giản kiểu Euclid.”
“Thật sao?” Luke nói, nhìn hơi ngạc nhiên.
“Thật mà. Cái cách người ta hấp thụ và phản chiếu ánh sáng thuần tuý… Thật mê hoặc. À mà, nhân tiện em mua cho anh một món quà.” Tôi đặt uỵch cuốn Nghệ thuật trừu tượng và các nghệ sỹ lên đùi anh ấy, rồi uống ly nước đặt trước mặt, cố gắng không to ra quá kiêu căng.
“Em thực sự đã đến bảo tàng Guggenheim!” Luke nói, đọc lướt qua quyển sách đầy hoài nghi.
“Ừm… đúng thế.” Tôi nói. “Tất nhiên em đã đến đó.”
OK, tôi biết mình không nên nói dối bạn trai. Nhưng chuyện này cũng gần như sự thật phải không? Tôi thực sự đã đến bảo tàng Guggenheim. Xét trên bình diện dộng nhất của từ này.
“Chuyện này rất thú vị,” Luke nói. “Thế em có xem bức tượng điêu khắc của Brancusi không?”
“Ừm… ừm…” Tôi liếc nhìn qua vai anh ấy, cố xem xem anh ấy đang nói về cái gì. “Ừm, em đã tập trung hơn vào… ừm…”
“Trên má em có gì đấy?” Luke nói, bỗng nhìn tôi chằm chằm. Tôi ngạc nhiên giơ tay lên sờ thấy một vệt nhũ màu bạc. Tôi đã quên hết tất cả những cái này.
“Đó là… một phần của nghệ thuật sắp đặt.” Tôi nghe thấy bản thân mình đang lên tiếng. “Tác phẩm có tên là Những chòm sao. Họ có tất cả những cái này, ừm… nhũ bạc, và họ bôi cái này lên người anh…”
“Và đây là Michael,” Luke cắt ngang. Anh ấy gấp quyển sách lại và tôi nhanh chóng nhét nó vào túi xách. Ơn Chúa vì việc đó. Tôi hứng thú nhìn lên xem cái gã Michael nổi tiếng này trông như thế này – và suýt nữa thì sặc nước.
Tôi không thể tin được chuyện này. Đó là anh ta. Michael Ellis là cái gã hói ở phòng tập. Lần trước anh ta nhìn thấy tôi, tôi đã ngã dưới chân anh ta.
“Hi!” Luke đứng dậy nói. “Becky này, đây là Michael Ellis, cộng sự mới của anh.”
“Chào anh,” tôi nói, và cố mỉm cười điềm tĩnh. “Anh khoẻ chứ?”
Ôi, điều này lẽ ra không được phép xảy ra chứ. Nên có luật rằng những người bạn gặp ở phòng tập thì không bao giờ nên gặp ở ngoài đời thực cả.
“Chúng tôi đã có vinh hạnh được gặp nhau rồi,” Michael Ellis nói rồi láu lỉnh bắt tay tôi và ngồi xuống phía đối diện. “Becky và tôi đã tập thể dục ở cùng phòng tập tại khách sạn. À mà sáng nay không thấy cô đến tập.”
“Sáng nay à?” Luke nói, và nhìn tôi băn khoăn khi ngồi xuống. “Becky à, anh nghĩ em nói là phòng tập đóng cửa.”
Chết tiệt.
“Ồ. Ừm, thì…” Tôi uống một hơi và hắng giọng. “Khi em nói nó đóng cửa, thì điều em thực sự muốn nói là… là…” Giọng tôi yếu ớt rồi tắt dần.
Và tôi thực sự muốn gây ấn tượng tốt.
“Tôi đang nghĩ cái gì ấy nhỉ?” Michael đột nhiên lên tiếng. “Tôi chắc sắp điên mất rồi! Không phải là sáng nay. Sang nay phòng tập đóng cửa. Để tu sửa toàn bộ, tôi nghĩ thế.” Anh ta cười toe toét với tôi và tôi cảm thấy mặt mình đang đỏ dần lên.
“Vậy thì,” tôi nói, nhanh chóng chuyển chủ đề. “Anh đang… anh đang hợp tác làm ăn cùng Luke. Điều đó thật tuyệt! Vậy việc đó tiến triển thế nào rồi ạ?”
Tôi thật lòng chỉ hỏi cho ra vẻ lịch sự để đánh lạc hướng khỏi chủ đề tập luyện ở phòng tập của tôi. Tôi đang mong cả hai người họ sẽ bắt đầu giải thích cặn kẽ tỉ mỉ cho tôi, và tôi có thể gật đầu trong lúc nghe và thưởng thức đồ uống. Nhưng ngạc nhiên thay, lại có một sự im lặng ngượng ngùng.
“Câu hỏi rất hay,” cuối cùng Luke cũng lên tiếng và nhìn Michael. “Vậy Clark đã nói gì?”
“Chúng tôi đã nói chuyện lâu,” Michael đáp. “Không được hoàn toàn thoả đáng.”
Tôi nhìn hết người này đến người kia, cảm thấy bối rối.
“Có chuyện gì không ổn sao?”
“Điều đó còn tuỳ,” Michael nói.
Anh ta bắt đầu kể cho Luke về cuộc điện thoại của anh ta với ai đó tên Clark, và tôi cố gắng lắng nghe ra chiều am hiểu. Nhưng vấn đề là, tôi bắt đầu cảm thấy chóng mặt. Hôm nay tôi đã uống bao nhiêu rồi nhỉ? Tôi thậm chí không muốn nghĩ về điều đó nữa, thành thực mà nói. Tôi ngả người tì vào cái tựa lưng bằng da, mắt nhắm lại, lắng nghe giọng nói của họ như thể lởn vởn từ xa trên đầu tôi.
“… đại để là nghi ngờ…”
“… nghĩ rằng họ có thể thay đổi được các điều khoản đã ký…”
“… chi phí quản lý… giảm chi phí… với Alicia Billington điều hành văn phòng ở London…”
“Alicia sao?” tôi ngồi dựng dậy. “Alicia sắp điều hành văn phòng ở London sao?”
“Gần như vậy,” Luke nói, bỗng dừng lại giữa chừng. “Sao hả em?”
“Nhưng…”
“Nhưng sao cơ?” Michael nói, nhìn tôi đầy quan tâm. “Tại sao cô ấy lại không thể điều hành văn phòng ở London chứ? Cô ấy thông minh, đầy tham vọng…”
“Ồ. À… không có gì,” tôi lí nhí.
Tôi không thể nói dõng dạc rằng, “Vì cô ta hoàn toàn là một con bò cái.”
“Nhân tiện đây, anh đã nghe nói cô ấy vừa mới đính hôn chưa?” Luke nói. “Với Ed Collins của công ty Hill Hanson.”
“Thật sao?” tôi ngạc nhiên nói. “Em nghĩ cô ấy có quan hệ tình cảm với… tên gì nhỉ?”
“Với ai?” Michael hỏi.
“Ừm… ai đó.” Tôi uống một ngụm gimler cho tỉnh táo đầu óc. “Cô ấy đã bí mật đi ăn trưa với anh ta, và còn nhiều chuyện khác nữa!”
Tên anh ta là gì nhỉ? Tôi thực sự cáu.
“Becky rất thích tò mò các chuyện đồn thổi nơi công sở,” Luke nói và cười cợt chế nhạo. “Thật không may, một ai đó đã không nói chính xác rồi.”
Tôi giận dữ nhìn anh ấy. Anh ấy đang cố nói gì nhỉ? Rằng tôi na ná người chuyên tung ra các tin đồn thổi chăng?
“Không có gì sai nếu quan tâm tới các tin đồn thổi chốn văn phòng,” Michael nói với một nụ cười thật thân thiện. “Chỉ để cập nhật thông tin thôi mà.”
“Chính xác!” tôi dõng dạc. “Tôi không thể đồng ý hơn thế. Tôi luôn nói với Luke rằng, anh nên quan tâm đến những người làm việc cho mình. Nó giống như việc tôi đưa ra các tư vấn tài chính trên truyền hình vậy. Bạn không thể chỉ nhìn vào các con số, bạn phải nói chuyện với chúng. Giống như… giống như Enid ở Northampton vậy!” Tôi nhìn Michael đầy trông đợi trước khi nhớ ra rằng anh ta không biết Enid là ai. “Về thủ tục bà ấy đã sẵn sàng nghỉ hưu,” tôi giải thích. “Lương hưu và các thứ khác. Nhưng trên thực tế…”
“Bà ấy lại… không sẵn sàng?” Michael gợi ý.
“Chính xác! Bà ấy thực sự yêu thích công việc và chỉ vì người chồng ngu ngốc của bà ấy muốn bà ấy thôi việc. Bà ấy mới chỉ 55 tuổi!” Tôi khua cái ly. “Ý tôi là, không phải người ta nói cuộc sống bắt đầu ở tuổi 55 sao?”
“Tôi không chắc họ nói như vậy,” Michael nói, mỉm cười. “Nhưng có lẽ người ta nên như vậy.” Anh ấy nhìn tôi rất thích thú. “Hôm nào đó tôi muốn đón xem chương trình của chị. Nó có được phát sóng ở Mỹ không?”
“Không,” tôi tiếc nuối nói. “Nhưng tôi sẽ sớm làm một cái giống như vậy trên truyền hình Mỹ, và lúc đó anh có thể xem!”
“Tôi rất mong đến ngày đó.” Michael nhìn đồng hồ và uống cạn ly. “Tôi phải đi rồi, e là thế. Chúng ta sẽ nói chuyện sau Luke nhé. Và rất vui được gặp chị, Becky ạ. Nếu có lúc nào đó tôi cần tư vấn tài chính, tôi đã biết phải tìm ai rồi!”
Rồi anh ta rời khỏi quán bar, tôi dựa vào chiếc ghế mềm mại của mình và quay sang nhìn Luke. Không còn vẻ ngoài thư thái thường ngày, anh ấy đang căng thẳng nhìn vào khoảng không trong khi tay xe một bao diêm thành các mẩu nhỏ.
“Michael có vẻ rất tốt tính!” tôi nói. “Rất thân thiện.”
“Ừ,” Luke nói vẻ xa cách. “Đúng vậy.”
Tôi uống một ngụm gumlẻ và nhìn Luke kỹ hơn. Anh đang có biểu hiện giống hết tháng trước, khi một nhân viên của anh làm lộn xộn một thông cáo báo chí khiến vài số liệu mật bị lộ ra ngoài. Tâm trí tôi lại tha thẩn về cuộc nói chuyện ầm tôi thoáng nghe lúc nãy – và khi nhìn khuôn mặt anh, tôi bắt đầu cảm thấy hơi lo lắng.
“Luke này,” cuối cùng tôi cũng lên tiếng. “Có chuyện gì vậy? Có gì trục trặc với vụ làm ăn của anh à?”
“Không,” Luke nói mà không hề nhúc nhích.
“Vậy Michael có ý gì khi anh ta nói ‘Còn tuỳ’ vậy?” Và cả cái gì đó liên quan đến việc thay đổi các điều khoản đã cam kết nữa?”
Tôi nhổm ngừơi về phía trứơc cố nắm lấy tay anh, nhưng Luke không đáp lại. Khi nhìn anh im lặng âu lo, tôi dần dần để ý đến những câu chuyện và nhạc nhẽo xung quanh chúng tôi trong quán bar mờ mờ đó. Ở bàn bên cạnh một phụ nữ đang mở một cái hộp bé xíu của cửa hàng Tiffany’s và há hốc miệng ra vì kinh ngạc – nếu như thường lệ thì tôi đã vứt một cái khăn giấy xuống sàn nhà và nhoài người ra để liếc xem cô ta có cái gì. Nhưng lần này tôi quá lo lắng.
“Luke này,” Tôi nhoài người về phía trước. “Thôi nào, nói cho em đi. Có chuyện gì vậy?”
“Không,” Luke nói cụt lủn và dốc cả ly nước vào miệng. “không có chuyện gì cả. Mọi thứ vẫn tốt đẹp. Thôi nào, chúng ta cùng đi đi.”