Thiên Văn

Chương 11: Ký ức




gái trẻ tuổi kia ăn vận rất đơn giản, người gầy gầy nhỏ nhắn, mái tóc mỏng màu
hung vàng tết thành hai bím tóc, làn da trắng muốt đến độ trên vầng trán hơi dô
còn hằn lên vài đường tĩnh mạch xanh xanh, da của cô ấy mỏng tới mức dường như
có thể nhìn thấy cả mạch máu đang lưu chuyển.

Hơn
nửa tháng sau, vào một buổi sáng, Lão Mục bất ngờ xuất hiện trước cửa và đem đến
một tin tốt lành, Cục An ninh Quốc gia đã tiến hành nghiên cứu và quyết định vụ
này sẽ do Sở Công an thuộc khu vực Đông Bắc hoàn toàn chịu trách nhiệm dưới sự
chỉ huy trực tiếp của Trần Đường mà không phải chịu sự quản lý từ công an tỉnh,
xem ra chúng tôi sẽ nhanh chóng được trở lại Cẩm Châu. Thế nhưng trước khi trở
lại Cẩm Châu, chúng tôi phải tới Bắc Kinh tìm người quen trong Bộ Quân sự để
xác minh lại một số nghi ngờ.

Tôi
vội vàng hỏi anh ta đến Bắc Kinh tìm ai. Nhưng Lão Mục cũng không rõ, chỉ khẳng
định rằng đến Bắc Kinh sẽ có người đến đón và đưa đi. Đồng thời anh ta còn nói
thêm với tôi, tất cả mọi việc từ nay về sau chỉ có anh ta, tôi và Tiểu Đường
hành động; không được phép có người thứ tư tham gia, và để đảm bảo an toàn, họ
sẽ trang bị cho tôi vũ khí phòng thân.

Nghe
thấy mình sẽ được trang bị súng, tôi khẽ gật đầu, xoắn chặt hai bàn tay, trong
lòng cảm thấy phấn khích và háo hức khó tả.

Chỉ
vài ngày sau, Lão Mục lái xe đưa chúng tôi tới một ngôi biệt thự nằm ở vùng ngoại
ô của Tô Gia Đồn thuộc tỉnh Thẩm Dương. Ở đó, tôi đã gặp Trần Đường – người phụ
trách an ninh của cả khu vực Đông Bắc tiếng tăm lừng lẫy, và một số vị lãnh đạo
cao cấp khác nữa. Trần Đường khoảng chừng 37 tuổi, người dong dỏng cao, phong
thái đĩnh đạc uy nghiêm với ánh mắt sắc sảo. Sau vài câu chào hỏi và giới thiệu,
Trần Đường yêu cầu chúng tôi chuẩn bị tới Bắc Kinh ngay trong đêm nay, rồi đưa
cho tôi khẩu súng lục ổ quay 92 cùng băng đạn.

Đã
bao nhiêu ngày không sờ tới súng, tôi ngứa ngáy tay chân, lập tức tháo ổ súng,
băng súng kiểm tra ngay khi nhận lấy nó. Quả đúng là không hổ danh, nếu đem so
với khẩu súng tôi thường dùng trước đây thì khẩu này đúng là một trời một vực.

Trần
Đường mỉm cười quay sang hỏi Tiểu Đường:


Cô bé, có muốn một khẩu như thế không?

Tiểu
Đường lắc đầu quầy quậy, trả lời dõng dạc:


Cháu không biết dùng mà cũng không dùng đến, hơn nữa… – Dừng một lát, cô bé
cúi đầu lấy một chiếc kim từ trong bọc, giơ ra trước mặt Trần Đường – cháu đã
có cái này rồi, nó còn có sức mạnh hơn cả súng nữa cơ!

Nói
rồi tiện tay chọc mũi kim xuống mặt bàn, cây kim phát ra một tiếng rít nhẹ, nhẹ
nhàng như chọc vào miếng đậu phụ, trong chốc lát đã không nhìn thấy chiếc kim
đâu nữa. Trần Đường và những người chứng kiến cảnh này đều trợn tròn mắt không
khỏi ngỡ ngàng.

Khoảng
11 giờ 30 phút tối hôm đó, Lão Mục lái chiếc xe Jeep mang biển quân sự tới đón
tôi và Tiểu Đường đi vài vòng quanh thành phố để đảm bảo không bị bám theo, rồi
mới tiến ra quốc lộ, chân đạp mạnh ga, lái xe lao vút về phía Bắc Kinh.

Do
đang là đêm khuya nên quốc lộ vắng tanh, ngoài một vài ánh đèn pha của những
chiếc xe chở hàng ra thì không còn gì khác.

Ban
đầu Tiểu Đường rất phấn khích, hào hứng kể chuyện cười cho mọi người, không ngừng
hỏi han chúng tôi mọi điều, nhưng chỉ một lúc sau, cô bé đã không chịu được liền
gục lên cửa kính xe, ngủ ngon lành.

Lão
Mục lái xe một cách điêu luyện, chiếc Jeep luôn đạt tốc độ 110km/h nhưng vẫn êm
ru. Tôi ngồi phía trước cạnh ghế lái, mặt hướng ra bên ngoài, chăm chú ngắm
nhìn khu rừng đang lùi dần về phía sau, dưới làn sương mỏng trong đêm và ánh
đèn pha ô-tô, lá cây như được phủ một màu vàng mờ mịt.

Từ
trong gương chiếu hậu tôi nhìn thấy Tiểu Đường giờ đã nằm hẳn xuống hàng ghế
sau, miệng nhai tóp tép, cô bé đã hoàn toàn ngủ say.

Tôi
chăm chú quan sát cô bé ngủ một lúc lâu, thấy lòng nhẹ nhàng và thanh bình hơn
nhiều. Cho dù trước mặt còn nhiều khó khăn và vất vả, nhưng có một người bạn đồng
hành như vậy quả là một điều hạnh phúc. Nghĩ đến việc lái xe trong đêm sợ nhất
là buồn ngủ và ngủ gật, nên tôi chủ động tắt máy sưởi trong xe, cởi áo khoác của
mình đắp cho Tiểu Đường, rồi quay sang nói chuyện phiếm với Lão Mục.

Tiếp
xúc với Lão Mục cũng đã lâu nên tôi cảm thấy rất thân thiết, hơn nữa tôi và anh
ta sẽ còn phải phối hợp nhiều trong công việc, tốt nhất nên cởi mở để nhanh hiểu
nhau hơn, vì vậy chúng tôi nói chuyện rôm rả từ chủ đề này sang chủ đề khác.

Lão
Mục kể với tôi, tên đầy đủ của anh ta là Mục Chí Kiệt, năm nay 49 tuổi, là người
sinh ra và lớn lên ở Tô Gia Đồn, Thẩm Dương. Năm 1976 lão gia nhập quân ngũ,
thuộc lữ đoàn trinh sát 40 thành phố Thẩm Dương, đây cũng là tiền thân của binh
đoàn đặc chủng Trung Quốc. Năm 1979 cuộc bạo loạn phản kháng tự vệ xảy ra, đi đầu
là quân khu thành phố Quảng Châu, rồi lần lượt lan đến các quân khu khác, lúc bấy
giờ Lão Mục đang mang hàm trung đội trưởng, nên nhận luôn nhiệm vụ hộ tống đoàn
chuyên gia bác sĩ lên tuyến trên. Sau khi rời khỏi quân ngũ vào năm 1982, do những
thành tích xuất sắc và khả năng đặc biệt của mình mà anh ta lại được Cục An
ninh Quốc gia vùng Đông Bắc triệu tập làm việc.

Nghe
lão kể đến giờ vẫn chưa kết hôn, tôi cảm thấy hết sức ngỡ ngàng liền hỏi:


Lão Mục, tại sao anh không tìm vợ đi? Cứ một mình thế này thì cô đơn lắm!

Lão
Mục nghe xong không phản ứng gì, chỉ trầm ngâm rất lâu trước khi trả lời một
cách bình thản:


Làm đặc công, khó lập gia đình!

Nói
rồi anh ta vân vê chòm râu, mặt vẫn hướng về phía trước nhưng ánh mắt lại để lộ
một nét đau khổ khó diễn tả.

Ngoài
những thông tin này, Lão Mục dường như không nói thêm gì nhiều. Tôi cũng tự hiểu
rằng, Cục An ninh Quốc gia khi tuyển chọn người cũng có những yêu cầu riêng rất
khắt khe, họ phải điều tra hoàn cảnh gia đình trong tám đời, bất kể là người có
hay không anh em thân thích, thì đều phải tuyệt đối trung thành với đất nước và
tư cách chính trị không được phép vấy bẩn. Nghĩ đến hoàn cảnh đó, nên tôi cũng
không dám hỏi nhiều.

Khoảng
hai tiếng sau, xe chúng tôi đã tới thành phố Cẩm Châu. Mặc dù đang là buổi tối,
khó có thể nhìn rõ khung cảnh thành phố, nhưng nhờ có ánh đèn pha ô-tô mà tôi vẫn
nhìn thấy hai chữ “Cẩm Châu” trên tấm biển hiệu màu xanh ở đầu quốc lộ dẫn vào
trung tâm thành phố, nó thực sự tác động mạnh lên thần kinh tôi lúc này.

Tôi
đặt hai tay lên cửa kính xe, cố mở mắt thật to để nhìn ra bên ngoài, sống mũi
cay cay, hai hàng nước mắt chỉ chực trào ra, chỉ mong được về thăm bố mẹ ngay
bây giờ. Tôi đã xa nhà vài tháng nay rồi, cũng không dám gọi điện về hỏi thăm,
không biết bệnh tình của mẹ tôi thế nào, bà đã được xuất viện hay chưa?

Bỗng
nhiên, tôi nghe thấy giọng Lão Mục nói nhỏ bên cạnh:

– Lại
đổi xe rồi!

Tôi
giật mình quay đầu lại, nhìn thấy tay phải Lão Mục đang chỉnh chiếc gương chiếu
hậu trong xe hơi nghiêng sang bên phải, đồng thời tay trái chỉnh vô-lăng sang
trái, hai mắt vẫn không rời chiếc gương chiếu hậu.

Tôi
lập tức hiểu ra ngay, vội nuốt những lời đang chuẩn bị thốt ra vào bụng, chắc
chắn đang có người theo dõi! Tôi không gặng hỏi cũng không quay đầu, chỉ với
tay kéo dây an toàn thắt quanh người, mắt mở to chăm chú theo dõi phía đằng sau
qua gương chiếu hậu.

Trên
mặt gương chiếu hậu trong suốt và rõ nét, hiện lên hai ánh đèn pha cách chúng
tôi chừng năm mươi mét, do ánh đèn quá chói nên tôi không thể nhìn rõ là loại
xe gì, nhưng qua phán đoán thì chiếc xe đó đang theo sát chúng tôi với cùng tốc
độ.

Lão
Mục sang số, nói nhỏ với tôi, từ lúc chúng tôi ở phía tây Thẩm Dương, anh ta đã
phát hiện ra chúng tôi đang bị theo đuôi, cứ khoáng qua hai trạm thu phí chúng
lại thay một chiếc xe khác, liên tục theo sát chúng tôi. Thế nhưng từ sau khi đến
thành phố Lăng Hải, mật độ đổi dày hơn, cách một trạm thay một xe; từ trạm Bắc
Cẩm Châu, trạm Lăng Hải, trạm Đông Cẩm Châu, trạm Tùng Sơn và sắp tới ìà trạm Cẩm
Châu đều như thế.

Nói
rồi Lão Mục thò tay vào túi ngực, móc ra hai miếng giấy màu bạc hình tròn to bằng
đồng xu, một miếng dán lên mặt kính cửa sổ bên anh ta, miếng còn lại Lão Mục ra
hiệu cho tôi dán vào vị trí đối diện.

Hai
miếng dán đó tạo thành một góc hình cung cố định, giống như một mặt kính lồi được
thu nhỏ, qua ánh sáng phản chiếu từ hai chiếc gương chiếu hậu hai bên, có thể
nhìn rô hơn hình ảnh của chiếc xe đang theo dõi đằng sau. Tôi chăm chú nhìn thật
kỹ, thì ra là một chiếc xe Passat màu trắng mang biển Cẩm Châu.

Tôi
chau mày, quay sang hỏi Lão Mục:


Lão Mục, liệu đây có phải là bọn xã hội đen đó không?

Lão
Mục quét mắt qua chiếc gương, khẽ lắc đầu, chậm rãi nói:


Ban đầu tôi cũng nghĩ thế, thế nhưng mãi không thấy chúng ra tay mà chỉ theo
sát nút chúng ta, có vẻ như không giống bọn xã hội đen lắm. Rất khó có thể đoán
được động cơ của chúng, đặc biệt là tại sao vào trong địa phận Cẩm Châu rồi
chúng lại theo sát ta với mật độ dày đặc như thế. – Nói rồi, anh ta quay ra
phía sau xe nhìn Tiểu Đường, khẽ dặn. – Đừng đánh thức cô bé vội, để xem tình
hình thế nào đã.

Tôi
gật đầu tán thành, tay trái nắm chắc dây an toàn, tay phải cầm thật chặt khẩu
súng, hồi hộp tới mức không rời mắt khỏi gương chiếu hậu, trong đầu tưởng tượng
ra rất nhiều tình huống và cách tấn công nếu trường hợp xấu nhất xảy ra.

Thế
nhưng lạ một cái, tôi cứ đợi mãi mà vẫn không thấy chúng ra tay hành động, xem
ra độ nhẫn nại của chúng cũng không ít. Chạy thêm vài trạm nữa, khi chúng tôi
vào tới địa phận Hưng Thành thuộc đảo Hồ Lô, chiếc xe bám theo sau lại quay lại
mật độ như trước, cứ hai trạm lại thay một chiếc xe khác. Cứ lặp đi lặp lại quy
luật như thế cho đến khi qua vùng Sơn Hải Quan, chiếc xe theo dõi mới từ từ biến
mất.

Lão
Mục đặt ra giả thuyết, nếu những chiếc xe đó là của bọn xã hội đen thì phạm vi
hoạt động của chúng chỉ trong địa phận tỉnh Liêu Ninh, do tưởng rằng chúng tôi
đang di chuyển tới Cẩm Châu nên mới vội vàng bám theo. Nhưng tại sao chúng
không trực tiếp lao tới hoặc chặn đầu xe chúng tôi ngay trên quốc lộ, sau khi xử
lí xong sẽ tẩu thoát.


Sau khi phát hiện ra những phán đoán đó là sai, nên chúng đã phải thay đổi kế
hoạch, vậy là chuyến đi tới Bắc Kinh lần này e rằng khó có thể thuận buồm xuôi
gió rồi.

Lão
Mục gật đầu trầm ngâm, sắc mặt vẫn lạnh lùng:

– Cứ
chờ xem thế nào đã. Thế nhưng động được đến chúng ta ở Bắc Kinh, cũng không phải
là chuyện đơn giản. – Nói rồi, anh ta quay phắt sang phía tôi hỏi – Tiêu Vi, cô
có thuộc đường ở Hưng Thành không?

Tôi
hơi bất ngờ và thấy khó hiểu, tại sao Lão Mục lại chuyển phắt chủ đề như thế:


Đây là thành phố trên biển, thuộc đảo Hồ Lô, hồi nhỏ tôi cũng đã từng tới đây tắm
biển cùng bố mẹ.

Lão
Mục khẽ mỉm cười, quay đầu hướng về phía trước không nói thêm câu nào nữa.

Sau
đó, chúng tôi lặng lẽ đi qua Hà Bắc, Thiên Tân. Tầm sáu giờ sáng đã tới nội
thành Bắc Kinh.

Lão
Mục giảm bớt tốc độ, rút điện thoại ra, lắp tai nghe rồi ấn một hàng gồm hơn
hai mươi số, sau khi ấn nút gọi, điện thoại phát ra những tiếng cạch cạch. Anh
ta nheo nheo đôi mắt, rõ ràng là đang rất tập trung nghe những tiếng hồi ầm
trong điện thoại.

Tôi
cũng chăm chú lắng nghe, thấy những tiếng cạch cạch đó giống như tiếng đánh
máy, nhưng không phải là năm chữ một mà là ba chữ và sáu chữ một, thi thoảng
còn nghe thấy tiếng cào của móng tay, âm thanh lúc nặng lúc nhẹ, không biết
chúng có ý nghĩa gì.

Lão
Mục nói với tôi đây là mã âm thanh, một phương thức liên lạc dùng riêng trong nội
bộ Cục An ninh Quốc gia, thông qua sự biến đổi tần suất và mức độ nặng nhẹ của
âm thanh để diễn tả những từ và cụm từ khác nhau nhằm truyền tải thông tin, rất
phù hợp với những lúc không tiện nói chuyện. Khi nào có thời gian anh ta sẽ dạy
cho tôi và Tiểu Đường cách sử dụng loại ngôn ngữ này.

Khi
chiếc xe chạy qua trạm thu phí cầu Tứ Phương thi những tia nắng mặt trời đã bắt
đầu ló ra từ đằng đông, chúng chiếu lên cửa kính, khiến khung cảnh như bừng
sáng, chúng tôi lái xe thẳng về phía đông vòng đai ba thành phố, hòa vào dòng
xe đang tấp nập trên đường.

Từ
lúc xuống cầu Kình Tùng, con đường trở nên tắc nghẽn do mật độ xe quá nhiều, ì ạch
mất hơn một tiếng chúng tôi mới tới được Tây Trực Môn. Lão Mục dừng xe trước một
cửa hàng KFC để tôi mua ít đồ ăn sáng, sau đó anh ta còn lái xe chạy vòng vòng
quanh khu Tây Trực Môn để chắc chắn rằng không có ai theo sau, tới một ngã ba mới
nhấn ga tiếp tục lao vút đi.

Cảnh
vật hai bên đường cứ lần lượt chạy tuột ra phía sau, theo như thông tin trên bảng
chỉ dẫn bên đường thì xe đang chạy về hướng Hương Sơn.

Chiếc
xe lao vun vút về phía trước, chỉ hơn hai mươi phút sau, chúng tôi đã đến một
khu vực núi non bao quanh, trước mặt là những ngôi nhà được xây dựng theo lối
kiến trúc phương Tây với những chiếc cổng cao ngất, nhưng lại không thấy treo
biển hay bất kì vật gì đằng trước. Những ngôi biệt thự lớn nhỏ khác nhau, cứ
san sát và nối tiếp nhau chạy dài về tít đằng xa. Đây giống như một khu biệt thự
liền kề, nhưng tôi không thể đếm được có tất cả bao nhiêu vì có quá nhiều. Phía
trước cổng lớn là trạm gác, có hai chiến sĩ công an đang mặc quân phục và trang
bị đầy đủ súng ống, nghiêm trang đứng gác bên ngoài. Bên cạnh một người đàn ông
trung tuổi đang đứng chắp hai tay sau lưng đứng đợi.

Lão
Mục lái xe chầm chậm đến bên cạnh, hạ cửa kính ô-tô xuống, giơ tay chào. Người
đàn ông trung niên khẽ gật đầu rồi quay người tiến tới trước mặt một chiến sĩ
gác cổng nói điều gì đó, thanh ba-ri-e lập tức được kéo lên.

Khuôn
viên bên trong rất sạch sẽ và yên tĩnh, chỉ có một vài người đang đi bộ trên
con đường rộng thênh thang; hai bên đường phủ một màu xanh mát mắt xen kẽ là những
phiến đá vuông lót lối đi và những cây thông cao vút, cành lá sum suê in bóng
xuống mặt đường; đâu đây còn có tiếng chim hót véo von, càng khiến cho không
gian xung quanh trở nên yên bình và tĩnh lặng. Chiếc xe cuối cùng cũng đỗ lại
trước cửa một ngôi biệt thự ba tầng màu trắng ngà.

Đang
đứng trước cửa là một người đàn ông trung tuổi mặc quân phục cảnh sát, Lão Mục
mở cửa xe ô-tô, bước nhanh tới trước mặt người đàn ông rồi nói nhỏ vài câu. Người
đàn ông đó hướng mắt về phía tôi giơ tay ngang trán chào theo kiểu quân đội rồi
dẫn chúng tôi vào bên trong. Nhìn quân hàm mà người đàn ông này đang đeo trên
vai, rõ ràng cấp bậc của ông ấy rất cao.

Không
gian bên trong ngôi biệt thự rộng rãi và thoáng đãng, nội thất được trang trí
vô cùng trang nhã và sang trọng; trần nhà có một chiếc đèn pha lê rất lớn và lộng
lẫy, trên tường treo một bức tranh điêu khắc bằng gỗ sậm màu, dưới sàn nhà trải
thảm đỏ dày, tất cả mọi vật dụng khác đều mang một nét tinh tế rất riêng mà tôi
chưa từng thấy.

Tiểu
Đường khẽ kéo vạt áo tôi, nói nhỏ vào tai:


Chị Tiêu Vi, đây là nhà của quân đội sao?

Tôi
khẽ lắc đầu, tỏ ý cũng không biết, mặc dù trong lòng đang rất tò mò, nhưng vẫn
cầm tay cô bé lặng lẽ đi sau lưng Lão Mục.

Chúng
tôi đi thang bộ lên tầng thứ hai, rồi rẽ vào một hành lang dài và hẹp. Cảm giác
ở trên này lại khác hẳn, trên mỗi khoang cửa sổ lại treo một tấm rèm nhung in
hình thiên nga xanh đen, giữa hai khoang cửa sổ là một chiếc đèn tường hắt lên
những tia sáng vàng dịu nhẹ, tạo cảm giác tĩnh mịch đến vô cùng.

Tôi
bỗng nhìn thấy một nữ cảnh sát đang dắt theo một cô gái chừng mười bảy mười tám
tuổi, từ đầu hành lang kia bước về phía chúng tôi.


gái trẻ tuổi kia ăn vận rất đơn giản, người gầy gầy nhỏ nhắn, mái tóc mỏng màu
hung vàng tết thành hai bím tóc, làn da trắng muốt đến độ trên vầng trán hơi dô
còn hằn lên vài đường tĩnh mạch xanh xanh, da của cô ấy mỏng tới mức dường như
có thể nhìn thấy cả mạch máu đang lưu chuyển. Dáng vẻ cô gái cũng bình thường
không có gì xuất sắc, nhưng ánh mắt lại trong veo, vô định; hành động chậm rãi
cẩn thận, rõ ràng đây là cô gái mù. Cô gái khoác trên vai một chiếc ba-lô màu xanh
bộ đội, tay trái cầm một chiếc ô dài, mũi kim loại màu bạc trên đầu chiếc ô cào
xuống mặt sàn phát ra tiếng lạo xạo, mỗi bước cô đi qua để lại trên mặt thảm một
vệt xước nhẹ. Tôi khịt khịt mũi, ngửi thấy một mùi hương rất lạ.

Chờ
cho họ đi qua một đoạn xa, Tiểu Đường mới kéo sát tôi lại, khẽ nói thầm vào
tai:


Chị Tiêu Vi, chị có biết không, cô ấy là một thầy thuốc đấy!

Tôi
giật mình, là thầy thuốc sao? Vội quay đầu nhìn lại, cô gái ấy vừa đúng lúc bước
xuống cầu thang, còn quay đầu hướng về phía chúng tôi. Trong đôi mắt vô hồn ấy
ánh lên một tia sáng kì lạ, thế rồi cô gái bước thẳng xuống cầu thang.

Bước
tới trước cánh cửa phía cuối hành lang, người đàn ông rất lịch sự để chúng tôi
đứng đợi ở ngoài, mở cánh cửa rồi một mình bước vào bên trong.

Tiểu
Đường bước tới trước một cánh cửa sổ, khẽ kéo tấm rèm nhung lên, ngó đầu nhìn
xuống, rồi vẫy tay ra hiệu gọi tôi lại. Tôi vội đến bên cạnh, cô gái gầy guộc vừa
gặp ở cầu thang cũng đã xuống sân, đang bước vào trong chiếc xe Jeep màu đen
mang biển số quân đội. Nhưng điều khiến tôi khó hiểu là trời quang mây tạnh,
hơn nữa chỉ có vài bước chân mà cô gái vẫn phải che ô, cả người co rúm dưới
bóng chiếc ô, như sợ gặp phải tia nắng mặt trời.

Tôi
khẽ lắc đầu, trong lòng dâng lên một cảm giác rất khó tả, nghĩ lại dáng vẻ kỳ lạ
cuả cô gái ấy, trong đầu chợt nghĩ đến căn bệnh máu trắng, nếu không thì tại
sao lại có những hành động kỳ lạ đến vậy?

Trong
đầu đang miên man suy nghĩ thì chợt có tiếng cửa mở, người đàn ông trung niên
ban nãy bước ra, một tay ra hiệu mời chúng tôi vào còn tay kia cầm lấy nắm cửa
kéo sang một bên.

Diện
tích bên trong căn phòng khá rộng nhưng nội thất lại rất giản đơn, ngoài bộ bàn
ghế sô-pha bằng da màu nâu đậm, bên trên bày một bộ ấm chén pha lê ra thì không
còn vật dụng nào khác nữa, khiến cho căn phòng trở nên trống trải vô cùng. Bên
cửa sổ treo tấm rèm nhung in hình thiên nga màu xanh đen, còn trần nhà bật vài
bóng đèn nhỏ màu vàng. Lan tỏa khắp không gian bên trong căn phòng là mùi hương
nhè nhẹ, đó chính là mùi hương từ trên người cô gái trẻ lúc nãy.

Chúng
tôi theo chân Lão Mục bước sang bên phải căn phòng, rồi đi vòng qua một tấm
bình phong bằng gỗ, đằng sau đó là một khoảng không gian âm u, chỉ kê vẻn vẹn
có một chiếc giường lớn. Một người đàn ông lớn tuổi với thân hình gầy guộc chỉ
còn da bọc xương đang nằm nghỉ, chiếc vỏ chăn màu xanh đậm trùm kín tận ngực.

Mái
tóc bạc bù xù, nước da vàng ệch, hai mắt nhắm nghiền, khuôn miệng mím chặt,
trên trán hằn sâu một vết đốm tròn, to gần bằng ba đầu ngón tay chụm lại, khiến
cho khuôn mặt ông ta trở nên thật đáng sợ. Đứng bên cạnh giường là một người
đàn ông cũng đã khá đứng tuổi mặc quân phục, đeo hàm thiếu tướng và một người
khác chừng năm mươi tuổi, đeo kính gọng đen, dáng người hơi đậm.

Người
này đưa mắt nhìn tôi một lúc mới quay sang Lão Mục khẽ gật đầu, rồi cúi người
xuống ghé sát vào tai ông già đang nằm trên giường, khẽ nói:


Thủ trưởng, ngài tỉnh dậy chưa? Cháu gái của Tôn Anh Thạch tới rồi ạ!

Nghe
thấy vậy, tôi không khỏi ngỡ ngàng. Chúng tôi phải qua bao đoạn đường đến đây,
chỉ vì ông già kỳ dị đang nằm trên giường kia muốn gặp tôi.

Ông
già đó vẫn nằm yên không chút phản ứng, duy chỉ có phần ngực khẽ phập phồng, cổ
họng khẽ phát ra tiếng khò khè.

Người
đàn ông đeo kính gọng đen kia cố gọi thêm vài lần nữa, ông già mới khẽ nhúc
nhích, khó khăn lắm mới mở được đôi mắt nặng trĩu, đôi đồng tử màu xám đã mờ đục
tới mức có thể giãn ngay lập tức. Ông già cố gắng lắm mới thở hắt được một hơi,
khẽ nghiêng đầu lờ đờ nhìn chúng tôi một lượt, cuối cùng đôi mắt ông dừng lại
chỗ tôi, ánh mắt bỗng nhiên lóe sáng, nói trong khó nhọc:


Mi… Long… Long Bản… lấy… lấy ra… cho ta xem.

Mặc
dù âm thanh đứt đoạn khó nghe, lại dùng tiếng địa phương hơi buồn cười, nhưng
khẩu khí của ông già rất kiên quyết, giống như mệnh lệnh uy nghiêm của cấp
trên.

Tôi
ngơ ngác không biết phải làm gì, đành quay đầu nhìn Lão Mục, người đàn ông đeo
kính gọng đen lập tức bước tới trước, đưa tay phải về phía tôi, khẽ nói:

– Đừng
làm ngơ nữa, mau đưa nó ra đây!

Tôi
lưỡng lự rút tấm Long Bản ra đưa cho người đàn ông đó, ông ta lập tức quay đầu
đi về phía ông già.

Ông
già khẽ rùng mình, đôi mắt trợn tròn nhìn chằm chằm vào tấm Long Bản, sắc mặt dần
có chút sức sống. Ông run rẩy thò ra một ngón tay gầy quắt như chân gà từ trong
chăn ra, khẽ chạm lên mặt tấm Long Bản, giọng hổn hển:

-Thiên…
Thiên Văn… quả đúng là…Thiên…

Vừa
nói dứt hơi, cổ họng ông khẽ rung lên, toàn thân nằm ẹp xuống giường, đầu quay
một bên, ngừng thở. Nhưng đôi mắt ông vẫn nhìn chằm chằm về tấm Long Bản.

Tiểu
Đường kêu lên một tiếng kinh hãi, nép sau lưng tôi, nắm thật chặt cổ tay, miệng
run run hỏi:


Chị Tiêu Vi, ông ấy… ông ấy chết rồi sao?

Tôi
tuy không sợ nhưng trong đầu thì đang ngổn ngang những câu hỏi. Tất cả chuyện
này là như thế nào? Ông già này là ai? Tại sao sau khi nhìn thấy tấm Long Bản lại
lăn ra chết?

Tôi
đưa ánh mắt nhìn về phía người đàn ông đeo kính gọng đen đang cầm tấm Long Bản
trong tay, gượng hỏi:


Đây…

Chưa
để tôi nói hết câu ông ta đã lắc đầu, vẻ mặt trầm xuống ra hiệu tạm thời không
được hỏi.

Với
sự ra đi đột ngột của ông già kỳ dị, người đàn ông đeo kính gọng đen cùng vị
thiếu tướng kia dường như đã dự liệu từ trước nên thái độ của họ rất bình thản,
chỉ có điều ánh mắt vẫn đượm nỗi buồn sâu sắc. Họ không nói với nhau câu gì mà
chỉ cùng đưa tay kéo tấm chăn phủ kín khuôn mặt ông già, cúi đầu chào vĩnh biệt.

Chứng
kiến những cảnh vừa xảy ra, lòng tôi không ngừng suy nghĩ, lẽ nào họ muốn tôi
chứng kiến cái chết của ông già này? Chắc không chỉ giản đơn như thế chứ? Thế
nhưng từ thái độ kì quặc của ông già khi nhìn thấy tấm Long Bản, tôi đoán chắc
ông ấy có biết phần nào nội tình của nó, nếu không thì sao lại phản ứng dữ dội
như thế chứ, miệng thì liên tục nhắc đi nhắc lại hai chữ “Thiên Văn”, nó có
nghĩa là gì?

Không
lâu sau, bên ngoài vọng vào tiếng bước chân vội vã, rồi một tốp cảnh sát cả nam
lẫn nữ ùa vào trong phòng, trên khuôn mặt ai cũng đều lộ rõ vẻ buồn bã, bi
thương, có người còn rơi nước mắt. Sau khi cúi đầu đưa tiễn ông già, họ vội vã
đi ra để lo hậu sự.

Người
đàn ông đeo kính mắt đen quay sang nói vài câu với vị thiếu tướng trước khi dẫn
chúng tôi ra ngoài, tiến thẳng tới căn phòng nhỏ ngay gần đấy.

Sau
khi đóng cửa lại, Lão Mục mới lần lượt giới thiệu chúng tôi với nhau, người đàn
ông này tên là Chung Hồng Đạt, là trưởng phòng của một bộ phận thuộc Cục An
ninh Quốc gia, đồng thời là người phụ trách cao nhất trong vụ án bức
tranh Cuộc tiến công ở Cẩm Châu tại khu vực Bắc Kinh. Khu biệt
thự Hương Sơn này là khu nhà dành cho các vị lãnh đạo Trung ương cấp cao đã về
hưu.

Tôi
không khỏi bất ngờ, vị này là trưởng phòng của một bộ phận quan trọng thuộc Cục
An ninh Quốc gia, cấp bậc không hê nhỏ, xem ra vụ án này đã thật sự nhận được sự
quan tâm đặc biệt của Cục An ninh Quốc gia.

Nhưng
tôi cũng không khỏi phân vân, tại sao Cục An ninh Quốc gia lại liên kết với bên
Bộ Công an? Lẽ nào sự tình bên trong còn phức tạp hơn rất nhiều?

Chung
Hồng Đạt bước lên trước, bắt tay chúng tôi, ôn tồn nói:

– Vẫn
may là không bị muộn, coi như tâm nguyện của ông ấy đã được thực hiện. Tiêu Vi,
chuyện của cháu chú đã biết cả rồi, thật không đơn giản chút nào đâu.

Rồi
ông quay đầu nhìn sang Tiểu Đường, nét mặt không giấu nổi vẻ hào hứng:


Tiểu Đường giỏi lắm, cháu đã giúp đỡ chúng ta không ít.

Chung
Hồng Đạt là một người thẳng thắn, ông kể với chúng tôi toàn bộ sự việc không
chút khách khí.

Thì
ra, từ khi Từ Vạn Lý mất tích một cách kỳ bí, Cục An ninh Quốc gia đã bắt đầu
quan tâm chú ý, nhanh chóng lập nhóm chuyên án đặc biệt, mở một cuộc điều tra
thật chi tiết về những người tham gia sáng tác bức tranh panorama Cuộc
tiến công ở Cẩm Châu. Thông qua mối quan hệ hành chính đặc biệt và sự phê
chuẩn của Ủy ban Quân sự Trung ương, họ đã tới thăm Trưởng ban Trù bị Trung
ương của sự kiện sáng tác bức tranh panorama Cuộc tiến công ở cẩm Châu –
cựu chỉ huy quân sự, đại tướng Từ Văn Uyên, cũng là ông già vừa mới qua đời.

Đại tướng Từ Văn Uyên gần tám mươi tuổi, người ở thành phố Thái An tỉnh Sơn Đông, mười lăm tuổi đã tham gia hoạt động cách mạng, từng tham gia
kháng chiến chống Nhật, chiến tranh giải phóng, chiến tranh chống Mỹ và
viện trợ Triều Tiên. Có thể nói cuộc đời của ông là một tấm gương tiêu
biểu trong quân dội, năm 1955 ông đã được Bộ Chỉ huy Quân sự Trung ương
trao hàm đại tướng, nhận nhiệm vụ chỉ huy quân sự của toàn tỉnh.

Đại tướng Từ Văn Uyên không lập gia đình, nên từ lúc về hưu sức khỏe
không còn được như xưa, ông đã chuyển tới sinh sống ở khu Hương Sơn từ
mấy năm trước. Cách đây hai mươi năm, kể từ khi biết bản sao bức tranh
panorama Cuộc tiến công ở Cẩm Châu của cậu tôi với những chuyện ly kì và đáng sợ xung quanh nó, ông cảm thấy vô cùng kinh ngạc.

Theo lời kể của ông, do Tổng cục Chính trị trực thuộc Bộ Quân sự Trung ương đã quyết định thực hiện bức tranh Cuộc tiến công ở Cẩm Châu, nên đơn vị quân sự tỉnh cũng không dám lơ là, nhanh chóng phái người đến hợp tác giúp đỡ; đến
ông cũng phải đích thân tham gia chỉ đạo, thậm chí còn sang cả Matxcova
và Volgograd là hai thành phố của Liên Xô cũ để tham quan học tập.

Khi đó, cậu tôi tuy là người trẻ nhất đoàn nhưng lại đánh cờ vua rất
giỏi, nên đã gây ấn tượng sâu sắc với Từ Văn Uyên; họ cùng ở nơi đất
khách quê người, lại chẳng có trò tiêu khiển gì khác, nên tối nào hai
người cũng ngồi đánh cờ tới tận khuya, rồi dần trở thành bạn tri kỉ lúc
nào không hay.

Buổi tối trước khi từ Liên Xô về nước, họ đã tổ chức một bữa tiệc
chiêu đãi, mời tất cả mọi người trong đoàn cùng tham gia. Người Nga thật không hổ danh, rượu nặng như thế mà họ vẫn từng cốc từng cốc như không; trong bầu không khí vui vẻ và náo nhiệt, mọi người trong đoàn đều uống
say bí tỉ. Chỉ riêng Từ Văn Uyên vốn tửu lượng tốt, nên uống đến chai
thứ năm mà vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra.

Sau khi buổi tiệc kết thúc, mọi người trở về phòng riêng nghỉ ngơi.
Từ Văn Uyên vẫn còn lôi ra một chai rượu Mao Đài và một bàn cờ, kêu
người tìm bằng được cậu tôi, nhắn rằng lúc nãy cậu tôi liên tục thoái
thác là nhỏ tuổi nhất nên không biết uống rượu, nên bây giờ phải tiếp cờ với ông ấy, đợi mai lên máy bay ngủ sau.

Thấy Từ Văn Uyên say mê chơi cờ như vậy, cậu tôi đành vui vẻ gật đầu
đồng ý. Nhưng khi đánh cờ, trong lòng cậu vẫn nhấp nhổm không yên, thành ra đã đi những nước cờ sai lầm dẫn đến việc thua mất vài ván.

Từ Văn Uyên càng thắng càng ham, miệng cười ha hả không dứt, chỉ vào cậu tôi mà nói:

– Cái tên Tiểu Thạch này, coi như hôm nay đã bị ta hạ đo ván. Sướng!
Sướng! Mẹ kiếp, đúng là sướng! Chỉ e những ngày đấu cờ của chúng ta sắp
chấm dứt rồi. – Ngừng lại một chút, ông nói thêm với cậu tôi – Sau khi
về nước, bức tranh panorama sẽ được chính thức ra mắt, nhóm họa sĩ các
anh chắc sắp giải tán rồi, ta cũng sẽ chính thức được nghỉ ngơi.

Nghe Từ Văn Uyên nói vậy, sắc mặt của cậu tôi bỗng dưng thay đổi hẳn, đứng phắt dậy nói:

– Sao… sao lại… sao lại nhanh thế…

Từ Văn Uyên ngỡ ngàng, không hiểu vì sao cậu tôi lại nói thế:

– Tiểu Thạch, cậu nói gì?

Cậu tôi sững người trong giây lát rồi lập tức lao vụt ra ngoài, một
chốc sau quay về, sau khi đóng chặt mọi cánh cửa, cậu mới xoay lưng tiến tới trước mặt Từ Văn Uyên, cởi áo khoác đang mặc trên người, vén chiếc
áo len mặc bên trong lên, thận trọng rút từ cạp quần ra một mảnh gỗ màu
đỏ sậm.

Từ Văn Uyên phì một tiếng, rồi lập tức đẩy bàn cờ sang một bên, cười ha hả:

– Cái tên Tiểu Thạch này, thật đúng là lắm chuyện! Ta mới chỉ nói là
sẽ nghỉ ngơi thôi mà đã tặng ta mảnh gỗ làm quan tài, lại còn làm bộ bí
mật nữa chứ!

Cậu tôi chỉ khẽ mỉm cười, vẫn nâng niu miếng gỗ trong tay như bảo
bối. Ngồi xuống trước mặt Từ Văn Uyên, cậu nhẹ nhàng đặt miếng gỗ lên
mặt bàn cờ, bàn tay vẫn không ngừng mân mê tấm gỗ, sau đó đột ngột ngẩng đầu lên nhìn Từ Văn Uyên, khẽ nói:

– Lão Từ, học trò đâu dám. Người thử nhìn kĩ hoa văn trên mặt tấm gỗ này đi.

Nghe cậu tôi nói vậy, Từ Văn Uyên vội cúi xuống nhìn miếng gỗ; đó là
một miếng gỗ vuông vức, màu đỏ thẫm, nhẵn bóng, giống như mảnh thủy tinh dày đã qua gọt giũa cẩn thận. Ở giữa là một vệt hoa văn nhạt màu uốn
lượn, mang hình dạng nhã nhặn nhưng hơi kỳ lạ: Nó được tạo bởi vô số
những nét chấm nối liền nhau.

Từ Văn Uyên như bị thôi miên, ông cầm miếng gỗ lên, lật ra sau thì
phát hiện ngay chính giữa tấm gỗ là hai đầu rồng đối diện nhau, thần
thái hết sức sống động, để lộ hai chiếc răng nanh nhọn hoắt, còn trên
thân rồng là những lớp vẩy xếp tầng tầng lớp lớp, cực kỳ tinh xảo. Lật
qua lật lại quan sát hồi lâu, nhưng cũng chưa biết đó là vật gì, ông
liền thắc mắc:

– Tiểu Thạch, đây là cái gì, cậu lấy từ đâu ra thế? Sao ta nhìn mãi mà không nhận ra?

Cậu tôi suy nghĩ một vài giây rồi mới chậm rãi kể lại. Mấy ngày
trước, khi có chút thời gian rảnh rỗi, cậu cùng với hai người trong đoàn tới Volgograd dạo chơi trên con phố đi bộ, vô tình bắt gặp một sạp hàng rong chuyên bán cổ vật Trung Quốc. Nghe người bán hàng kể rằng trước
đây ông ta từng là một sĩ quan chỉ huy không quân trong đội quân Hồng
quân Viễn Đông của Liên Xô cũ, từng tham gia cuộc chiến chống Nhật năm
1945 tại Trung Quốc, những cổ vật đang bày bán đều được đem về từ đó. Để chứng minh điều mình nói là thật, ông ta còn kể cho cậu tôi một vài sự
kiện mà sau khi tới Trung Quốc đã được tận mắt chứng kiến.

Tháng Tám năm 1945, Thế chiến II đi vào giai đoạn khốc liệt nhất.
Theo yêu cầu của Mỹ và Anh, nguyên soái Stalin cuối cùng cũng đã tuyên
chiến với Nhật Bản. Ngày 8 tháng 8, Liên Xô tập hợp lực lượng quân đội
hùng mạnh, tấn công từ ba hướng Đông – Tây – Bắc với chiến tuyến kéo dài hơn bốn nghìn ki-lô-mét, vượt qua khu vực miền trung Liên Xô, tiến đến
biên giới Nội Mông, đóng quân tại Mãn Châu rồi phát động cuộc tấn công
toàn diện. Do mất cảnh giác, nên quân Nhật nhanh chóng bị thất thế. Bảy
ngày sau, tức ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng Hirohito đã đầu hàng vô điều
kiện. Mặc dù quân Nhật đã chấp nhận bại trận, nhưng vẫn không chịu hạ vũ khí, đến ngày 16 tháng 8 số quân ít ỏi còn lại vẫn tiếp tục tấn công
đánh phá một vài vùng ở Liên Xô.

Để nhanh chóng giành được thắng lợi, quân đội Liên Xô đã quyết định
dùng không quân chiếm lĩnh một vùng đất của quân đội Mãn là Phụng Thiên, ép chúng đầu hàng vô điều kiện và tìm cho ra hoàng đế Phổ Nghi.

Đêm ngày 19 tháng 8, hơn một chục máy bay không quân đã xuất hiện
trên bầu trời Thẩm Dương, liên tiếp thả mưa bom xuống nơi quân Nhật
chiếm đóng. Có thể do lần này cuộc tấn công quá bất ngờ, nên quân Nhật
không kịp trở tay. Sau đó những chiếc máy bay không quân đã an toàn đáp
xuống sân bay Thẩm Dương, vị vua cuối cùng của Trung Quốc – Phổ Nghi
không kịp trốn thoát mà bị bắt tại ngay phòng chờ tại sân bay Thẩm
Dương.

Phổ Nghi khi trốn chạy khỏi thành Bắc Kinh đã mang theo rất nhiều báu vật cùng với hành lí, tổng cộng có tới năm mươi bảy chiếc hòm gỗ loại
lớn. Do đang tham chiến ở nước ngoài, nên kỷ luật quân đội không được
khép chặt, khi nhìn thấy núi báu vật, những người lính Nga đã không kiềm chế nổi mình, họ reo hò vui sướng rồi xông vào giành giật. Người đàn
ông này lúc đó vốn thuộc cấp chỉ huy nên cũng lấy được không ít báu vật, trong đó gồm cả tấm gỗ này.

Ông ta hiểu khá rõ về lịch sử Trung Quốc, nên cũng biết các vị vua
Trung Hoa luôn tự coi mình là rồng, lúc bấy giờ ông không nhận ra điều
đặc biệt gì trên tấm Long Bản, chỉ nghĩ rằng vật mà Phổ Nghi mang theo
người ắt hẳn rất quý báu, nên mới giấu đi.

Tháng Chín năm 1945, quân đội Trung Quốc đã chiếm được toàn bộ vùng
Đông Bắc, hỗ trợ và hợp tác cũng quân đội Liên Xô giành thắng lợi cuối
cùng. Quân đội Liên Xô trước khi rút về nước, đã quyết định để lại toàn
bộ khí giới của quân đội Nhật cho Trung Quốc, nhưng lại mang theo những
báu vật mà họ đã thu được về nước.

Sau khi Thế chiến II kết thúc, người đàn ông này đã được nhận huân
chương Sao đỏ do chính nguyên soái Stalin trao thưởng trước khi quay trở về quê hương. Nhưng sau đó, do không tu chí làm ăn mà chỉ ham mê canh
bạc đỏ đen, nên tất cả tiền của trong nhà đều đội nón ra đi. Vì kế sinh
nhai, ông ta đành phải bán đi những bảo vật Trung Quốc mà mình có trong
tay.

Khi nghe kể tấm gỗ là báu vật trong cung do đích thân hoàng đế Phổ
Nghi mang theo bên người khi trốn chạy, cậu tôi cảm thấy vô cùng phấn
khích và tò mò, không rời mắt khỏi nó nửa giây, cuối cùng cậu từ bỏ
quyết định mua chiếc bình hàng nghìn năm tuổi từ thời nhà Minh, dốc hết
số tiền trên người, thậm chí còn vay thêm đồng nghiệp, bỏ ra cả đống
tiền chỉ đế mua một miếng gỗ.

Thấy Từ Văn Uyên chăm chú nghe, cậu tồi liền cầm miếng gỗ lên, đưa cho ông và nói rất chân thành:

– Lão Từ, chúng ta là hai bạn cờ có duyên gặp gỡ. Miếng gỗ này cho dù học trò không biết nó là gì, nhưng theo như quan sát, thì ông già người Liên Xô này không hề nói dối, chắc chắn đây là một cổ vật vô giá. Học
trò chẳng có thứ gì đáng giá, xin tặng nó cho người làm kỉ niệm.

Từ Văn Uyên vô cùng thích miếng gỗ này nên đã nhận nó, sau đó ông
tháo chiếc đồng hồ đeo trên tay tặng lại cho cậu tôi. Chiếc đồng hồ này
tuy kiểu cách có hơi cũ, nhưng chi tiết thiết kế hết sức tinh xảo, quan
trọng hơn đó là món quà ki niệm do chính thủ tướng Chu Ân Lai tặng sau
khi đội quân của ông giành được thắng lợi trong trận chiến.

Nghe tới đó, tôi bất giác sờ lên chiếc đồng hồ đang đeo ở cổ tay, suy nghĩ miên man, thì ra đây không chỉ là món quà kỷ niệm của cậu tôi mà
còn là vật mà thủ tướng Chu Ân Lai đã từng dùng. Thật không ngờ nó lại
mang ý nghĩa sâu sắc đến thế, chẳng trách thông thường rất ít khi thấy
cậu tôi tháo đồng hồ ra. Tôi cũng lờ mờ nhận ra, cậu tôi có hai mảnh gỗ
giống nhau, một mảnh thì tặng cho Từ Văn Uyên, còn mảnh kia đem giấu bên trong bức tường nhà.

Thế nhưng suy nghĩ kỹ lại thì thấy chuyện này có vẻ không hợp lý lắm. Một báu vật được cậu nâng niu gìn giữ đến như thế, sao có thể dễ dàng
tặng cho người khác được. Hơn nữa mảnh gỗ còn lại ở nhà cậu lại được cất giấu thông qua ám thị của bức tranh, rõ ràng là cậu cố ý nói với chúng
tôi, nó có mối liên quan mật thiết với Cổ Tháp Cẩm Châu và chùa Đại
Quảng Tề. Nhưng theo như lời kể của người đàn ông Liên Xô đã từng tham
chiến tại Trung Quốc thì mảnh gỗ liên quan đến hoàng đế Phổ Nghi, và
dường như nguồn gốc của nó là từ tỉnh Thẩm Dương. Hay nói cách khác,
chúng có từ thời Mãn Thanh và là vật dụng của hoàng đế.

Thấy tôi bật người đứng dậy, toan cắt lời hỏi thì Chung Hồng Đạt giơ tay ra hiệu im lặng rồi nói tiếp:

– Đừng vội, ta còn chưa nói hết, chuyện sau đó còn hấp dẫn hơn nhiều!

Tôi đành nghe theo, lúc ngồi xuống ghế, vô tình tôi quay đầu nhìn lại đằng sau, chợt thấy vẻ mặt Tiểu Đường rất đăm chiêu, đôi lông mày xinh
đẹp chau lại nhưng ánh mắt sáng ngời lại nhìn trừng trừng về một hướng,
hai tay đan chặt lấy nhau trên đầu gối, như đang rất tập trung suy nghĩ.

Phát hiện ra tôi đang nhìn, cô bé liền cười xòa, ngại ngùng nói:

– Có vẻ sẽ rất hấp dẫn đấy, chị Tiêu Vi, cứ để nghe nốt đã!

Sau khi tổ sáng tác trở về nước, đúng như lời Từ Văn Uyên nói, họ đã
tuyên bố giải tán; còn Từ Văn Uyên cầm tấm Long Bản trở về Thẩm Dương,
và coi đó như là báu vật luôn mang theo mình, cứ lúc nào rảnh rỗi là lại lôi ra ngắm nghía. Ông cũng đã mời rất nhiều nhà nghiên cứu cổ vật đến
để tìm hiểu nguồn gốc thật của tấm Long Bản, mọi người đều xác nhận đó
chinh là cổ vật từ thời nhà Liêu, nhưng không thế nói chính xác vào thời gian nào và ở đâu. Sau đó, Từ Văn Uyên ngày càng cao tuổi, bệnh tật
luôn nên sức khỏe cũng yếu dần, sau khi nghỉ hưu chuyển về khu an dưỡng
này nên không còn đủ khả năng để tìm hiểu thêm.

Trong mười mấy năm sau đó, Từ Văn Uyên vẫn luôn nhớ tới người bạn cờ
tri kỉ, nên cũng nhiều lần thư từ hỏi thăm, nhưng do công việc cả hai
bên đều rất bận rộn, vì thế họ không có thời gian để gặp mặt nhau. Sự ra đi đột ngột của cậu tôi, ông cũng không hay biết. Nhưng khi biết
chuyện, những kỉ niệm ngày xưa ùa về khiến cho ông nghẹn ngào xúc động,
không ngăn nổi dòng nước mắt.

Thấy Từ Văn Uyên ngày đêm buồn rầu, Chung Hồng Đạt cũng thấy xót xa,
đành an ủi và ra sức khuyên nhủ để Từ Văn Uyên đồng ý mang tấm Long Bản
đi kiểm nghiệm một lần nữa.

Từ Văn Uyên buồn bã và suy nghĩ rất lâu, sau khi lấy lại tinh thần,
ông đã cử người lấy chiếc hộp da đã sờn cũ, được khóa cẩn thận nằm phía
dưới gầm giường lên, bên trong là một chiếc túi vải nhung đỏ buộc chặt
một đầu. Ông đặt chiếc túi lên mặt bàn, hai tay run rẩy rút đoạn dây
thít miệng túi, lôi ra một tấm Long Bản được khắc hết sức tinh xảo.

Từ Văn Uyên nâng niu ôm tấm gỗ vào lòng, ánh mắt nhìn xa xăm một lúc
lâu, rồi nói rằng ông cũng đã gần đất xa trời, giữ lại tấm Long Bản này
cũng không để làm gì, chi bằng hiến tặng nó cho đất nước, nhưng với một
yêu cầu, đợi thêm vài ngày nữa, để Tiêu Vi và Tiểu Đường tới đối chiếu
xem hai tấm Long Bản khác nhau ở điểm nào, hình khắc trên mặt gỗ có ý
nghĩa gì?

Chung Hồng Đạt vô cùng cảm thông nên đã không thúc ép gì thêm, vừa
bước ra khỏi cửa, ông lập tức liên lạc với Cục An ninh Quốc gia vùng
Đông Bắc đề nghị đưa tôi và Tiểu Đường đến càng sớm càng tốt. Nhưng
không ngờ rằng, sáng sớm ngày hôm qua, người phụ trách ở Hương Sơn đã
gọi điện cho Chung Hồng Đạt báo bệnh tình của Từ Văn Uyên đã rất trầm
trọng, chắc không thể sống được bao lâu nữa, nên ông đã đòi đích thân
Chung Hồng Đạt tới gặp.

Khi Chung Hồng Đạt tới nơi, Từ Văn Uyên đã bị hôn mê, khuôn mặt trắng bệch, chỉ qua một đêm mà đã già đi hàng mấy chục tuổi. Ông nằm trên
giường, hai mắt nhắm chặt, mê man, nhưng miệng luôn khẽ lẩm nhẩm:

– Thiên Văn… Thiên Văn…

Chung Hồng Đạt hết sức tò mò, sốt ruột hỏi mọi ngươi “Thiên Văn”
nghĩa là gì, nhưng cũng chẳng có ai hiểu. Người phụ trách ở đây cho
biết, hôm qua sau khi Chung Hồng Đạt ra về, có thể do Từ Văn Uyên nghĩ
đến người bạn tri kỉ đã mất nên buồn rầu khóc lóc cả ngày, đến bữa chỉ
ăn vài miếng lấy lệ rồi đổ hết. Khi đó, mọi người chỉ nghĩ tính người
già hay nghĩ ngợi nên cũng không để ý.

Đến khoảng 12 giờ đêm, một nhân viên tuần tra khi đi qua dãy hành
lang, bất chợt nghe thấy có tiếng đổ vỡ trong phòng Từ Văn Uyên, kèm
theo đó là một tiếng kêu lớn, nhưng sau đó lập tức im bặt.

Người nhân viên vô cùng hoảng hốt, liền lôi chìa khỏa dự phòng ra mở
cửa chạy vào bên trong. Người này chỉ kịp nhìn thấy Từ Văn Uyên mặc bộ
đồ ngủ, chân trần, ngồi bất động dưới sàn như người mất hồn, mặt hướng
về phía cửa sổ, bên cạnh đó là chiếc gương lớn vỡ tan tành, tấm Long Bản cũng lăn lóc dưới đất, ngay chính giữa những mảnh gương vỡ.

Người trực ban vội vàng gọi người đến ứng cứu, mấy người bọn họ chật
vật mãi mới khiêng được ông cụ nằm lên giường. Từ Văn Uyên nằm trên
giường, nghiêng người sang một bên, úp hai tay lên mặt, toàn thân co
quắp run rẩy, miệng không ngừng kêu la:

– Tắt đèn… tắt đèn… kéo rèm lên… kéo rèm lên… nhanh kéo rèm lên…

Giọng lạc đi vì sợ hãi, cứ như bên ngoài cửa sổ có thứ gì đó vô cùng
đáng sợ. Một nhân viên vội chạy ra mở cửa sổ dể kiếm tra phía bên ngoài, nhưng không phát hiện ra bất cứ dấu hiệu nào bất thường. Đối diện với
cửa sổ là ngọn núi Hương Sơn đang đắm chìm trong ánh trăng vằng vặc, vài đám mây mỏng vắt ngang qua ngọn núi, khung cảnh hết sức tỉnh lặng và
yên bình.

Sau khi kéo kín toàn bộ rèm cửa sổ, căn phòng tối om nhưng Từ Văn
Uyên vẫn không ngừng sợ hãi, trùm kín chăn lên đầu. Sau đó mọi người
thay rèm cửa bằng tấm màn nhung dày rồi tắt hết những bóng đèn lớn trong phòng, thì tinh thần của ông mới dần dần trở lại bình thường.

Nhưng chẳng mấy chốc, hơi thở của ông trở nên nặng nề và gấp gáp,
chân tay lạnh băng, đôi mắt trợn trừng, miệng sùi bọt mép, không nói
thêm được câu nào. Sau khi các nhân viên y tế khám xong, họ kết luận ông đã bị một cú sốc tinh thần quá mạnh, kết hợp với việc cơ thể già yếu
suy nhược lâu ngày, e rằng khó có thể qua được lần này.

Lúc đó, tất cả nhân viên phụ trách đều rất lo lắng, túc trực cả đêm
với hi vọng tình hình sẽ khá hơn, nhưng Từ Văn Uyên vẫn hôn mê sâu, chỉ
đôi ba lần mơ màng mở mắt trong giây lát, miệng lẩm bẩm hai tiếng “Thiên Văn”.

Nghe vậy, Chung Hồng Đạt càng tò mò hơn, với tay cầm lấy tấm Long
Bản, chăm chú quan sát, ngoài những nét khắc tinh tế sắc sảo và trọng
lượng khá đằm tay thì không thấy điều gì khác thường ở tấm Long Bản;
nhưng với biểu lộ khác thường của Từ Văn Uyên, có thể thấy đêm qua ông
cụ đã nhìn thấy điều gì đó vô cùng kinh khủng.

Đúng lúc đó, Từ Văn Uyên ho nhẹ một tiếng, người hơi động đậỵ, sau khi nhìn thấy Chung Hồng Đạt, ông lập tức với tay lắp bắp:

– Anh… anh… hãy… đi… tìm, ta… ta… muốn… xem tấm Long Bản đó, tấm… Long Bản… của Tiểu Thạch…

Những nhân viên y tế có mặt ở đó đều biết tình hình của Từ Văn Uyên
không thể kéo dài được lâu nữa nên vội vàng tìm mọi cách để cấp cứu cho
ông. Có người mách, dạo gần đây có một cô gái bốc thuốc đông y có biệt
tài bấm huyệt tên là Tống Nguyệt Uyên, có thể bắt bệnh và chữa trị bệnh
nan y. Nhờ có biệt tài này mà cô rất nổi tiếng, đến cả những quan chức
cao cấp trong chính phủ cũng phải tìm đến để xin chữa bệnh.

Đây chính là hi vọng cuối cùng nên mọi người đã lập tức cho mời Tống
Nguyệt Uyên tới. Ban đầu ai cũng nghĩ đấy phải là một phụ nữ lớn tuổi,
nhưng thật không ngờ Tống Nguyệt Uyên là một cô gái mù mười bảy tuổi.
Tuy khiếm thị, nhưng tay nghề của Tống Nguyệt Uyên vô cùng cao siêu, khả năng bắt mạch và châm cứu chuẩn xác tới từng mi-li-mét.

Tống Nguyệt Uyên lấy ra ba giác châm cứu màu xanh lam, bên trong đựng thảo dược, đầu ngón trỏ từ từ ấn lên vầng trán đầy vết nhăn của Từ Văn
Uyên, nhẹ nhàng châm ba huyệt ngay chính giữa hai đầu lông mày, đốt cháy những dược liệu trong giác, sau đó cẩn thận tẩm thuốc vào đầu mũi kim,
lần lượt châm cứu lên cánh tay và gan bàn chân. Chỉ khoảng mười phút
sau, sắc mặt của Từ Văn Uyên đã dần hồi phục trở lại.

Thế nhưng theo lời Tống Nguyệt Uyên, do ông cụ từ nhỏ đã tham gia
chiến trận, vào sinh ra tử không biết bao nhiêu lần, nên nội lực đã bị
giảm sút đi rất nhiều, các cơ quan nội tạng trong cơ thể đã bị hủy hoại
nghiêm trọng. Phương thức châm cứu này chỉ là cứu chữa tạm thời chứ
không thể giúp ông sống thọ lâu hơn. Chỉ cần gặp một cú sốc nữa, sẽ vô
phương cứu chữa.

Nghe Tống Nguyệt Uyên nói vậy, mọi người đều thở dài buồn bã. Chung
Hồng Đạt luôn ghi nhớ lời dặn dò của Từ Văn Uyên và cũng do nóng lòng
muốn sớm tìm ra bí mật của tấm Long Bản, nên vừa về tới đơn vị đã lập
tức gọi cho Cục An ninh Quốc gia vùng Đông Bắc, hỏa tốc điều Lão Mục,
tôi và Tiểu Đường tới Bắc Kinh. Lúc lên lầu, chúng tôi nhìn thấy cô gái
mù Tống Nguyệt Uyên đi xuống sau khi châm cứu cho Từ Văn Uyên xong.

Tới giờ, tôi mới hiểu được đầu đuôi câu chuyện, nhưng vì sao đêm hôm
đó Từ Văn Uyên lại có những biểu hiện bất thường như thế, hay hai từ
“Thiên Văn” bí ẩn mà ông không ngừng thốt lên thì tôi không thể giải
thích nổi. Mọi việc chắc phải bắt đầu từ khẩu khí của Từ Văn Uyên và
những hoa văn hết sức kì lạ trên mặt tấm Long Bản.

Ngoài ra, những hoài nghi của tôi trước đây vẫn chưa có lời giải đáp. Hai tấm gỗ Long Bản này từ đâu mà ra, rốt cuộc nó có nguồn gốc từ Liên
Xô cũ hay từ Cẩm Châu? Tấm Long Bản được cậu giấu sau hốc tường trong
nhà chắc chắn dùng để ám thị một bí mật nào đó, nhưng tại sao tấm kia
lại dễ dàng trao tặng cho Từ Văn Uyên, điều này thật khó hiểu.

Chung Hồng Đạt đưa chúng tôi quay lại phòng của Từ Văn Uyên lần nữa
để mặc niệm trước khi lên xe. Chúng tôi không quay trở lại trung tâm
thành phố mà đi thẳng tới khu ngoại ô Xương Binh, dừng xe trước một căn
biệt thự rất đỗi bình dị. Chung Hồng Đạt giới thiệu đây là địa điểm liên lạc của Cục An ninh Quốc gia, giờ tạm thời sẽ là nơi nghỉ ngơi của
chúng tôi. Trước khi rời đi, ông còn hỏi mượn tấm Long Bản của tôi, nói
rằng mang về đơn vị để tiến hành kiểm định. Lão Mục sau khi thu xếp ổn
thỏa cho chúng tôi xong, cũng đi cùng Chung Hồng Đạt. Ăn cơm tối xong,
Tiểu Đường sang phòng tôi trò chuyện. Nói chuyện này chuyện kia, cuối
cùng lại quay sang chủ đề Từ Văn Uyên. Tiểu Đường lấy từ trong bọc ra
một chiếc kim, vân vê một lúc, cô bé liền đưa mũi kim lên trán.

Tôi vô cùng sửng sốt, gắt giọng hỏi:

– Tiểu Đường, em định làm gì đấy?

Tiểu Đường đặt chiếc kim xuống, quay sang bảo tôi:

– Chị Tiêu Vi, chị có thấy hình tròn trên trán Từ Văn Uyên giống một hình xăm không?

Tôi sững người, lục lại trong trí nhớ, đúng là hình tròn trên trán ông ấy thật khác thường:

– Cũng khá giống, nhưng đó là vết giác hơi mà.

Tiểu Đường liếc nhìn sang tôi, lắc đầu, nói:

– Chị không hiểu đâu, đó là một loại xăm vô cùng tinh xảo nhưng… –
Nói đến đây, cô bé vươn vai ngáp ngủ, chuyển ngay sang chủ đề khác – Em
buồn ngủ quá, chị em mình đi ngủ thôi. – Nói xong lập tức đứng dậy đi
thẳng ra cửa.

Tôi quá quen với cách nói chuyện lấp lửng của cô bé nên cũng không cố gặng hỏi. Nhìn theo dáng hình cô bé khi bước ra khỏi phòng, tay vẫn
không rời chiếc kim, tôi chợt nhận ra, ba cô gái trẻ Sở Khinh Lan, Đường Nhã Kỳ, Tống Nguyệt Uyên đều có tên rất lạ, dáng người nhỏ nhắn và còn
có một điểm tương đồng kỳ dị, đó là cả ba đều có tài năng thiên bẩm liên quan đến kim châm, liệu họ có phải chị em một nhà?

Bỗng nhiên Tiểu Đường dừng bước, hai bàn tay nắm chặt, đầu không hề quay lại chỉ bình thản nói:

– Nữ nhân tâm, hải đế châm (lòng dạ đàn bà như mò kim đáy bể)… Chị Tiêu Vi, chị cứ suy nghĩ đi!

Nói rồi, cô bé đẩy cửa bước ra.

Sáng sớm ngày thứ tư ở đây, chúng tôi còn chưa kịp ăn sáng thì Chung
Hồng Đạt và Lão Mục đã tới mang theo một bọc da màu đen. Chung Hồng Đạt
giở bọc da đó ra, đặt hai tấm Long Bản lên bàn, cả hai đều có màu đỏ
thẫm, bóng láng, các đường vân trên đó giống nhau tới mức không thể tìm
ra điểm khác biệt dù chỉ là một chấm nhỏ.

Nét biểu cảm trên mặt Chung Hồng Đạt rất kỳ lạ, ông ngồi trên ghế sô-pha, lặng im suy nghĩ một hồi lâu, rồi mới cất lời:

– Rõ ràng hai tấm Long Bản này là cùng một khuôn.

Chung Hồng Đạt tiếp tục giảng giải với chúng tôi, qua giám định của
các nhà khảo cổ học cho thấy, chất liệu gỗ của hai tấm Long Bản này là
giống nhau, đều bắt nguồn từ thời nhà Liêu. Chúng được làm y hệt một
cách tinh xảo và chính xác tới từng mi-li-mét từ chiều dài, chiều rộng
đến chiều cao. Điều đặc biệt hơn nữa là những đường vân trên bề mặt, từ
vị trí cho tới độ lớn bé đều không sai lệch một li, thậm chí cả số lượng vết châm, độ nông sâu và quy luật phân bố cũng giống nhau như tạc.
Chúng chính là bản sao của nhau.

Đó thực sự là một điều kỳ diệu, đến cả công nghệ hiện nay cũng khó có thể tạo ra một tác phẩm tinh tế và chuẩn xác đến như thế, vậy thì làm
thế nào mà từ hàng nghìn năm trước, họ đã tạo ra tấm Long Bản với kỹ
thuật cao siêu đến như thế?

Nghĩ tới nghệ thuật xăm hình trên bề mặt tấm Long Bản, tôi liền quay
sang hỏi Tiểu Đường. Cô bé suy ngẫm một lát trước khi bước tới gần mặt
bàn, dùng tay áo lau sạch lớp bụi bám trên đó, hai tay cầm hai chiếc
kim, đầu cúi thẳng, hai mắt nhìn chằm chằm lên mặt bàn.

Chung Hồng Đạt vội đứng dậy, hỏi:

– Cô gái, cô định…

Tôi biết chắc Tiểu Đường đã nghĩ ra cách nào đó, nên lập tức kéo tay
ngăn Chung Hồng Đạt lại, dùng ánh mắt ra hiệu cho ông không được làm
phiền.

Tiểu Đường khẽ nheo mắt, miệng lẩm bẩm vài câu, hai tay cùng ấn mạnh
xuống, một tiếng “cách!” nhẹ vang lên, hai mũi kim đã chọc xuống mặt bàn chừng vài mi-li-mét. Dừng một lát, cô bé liền rút hai mũi kim ra, rồi
lặp lại quá trình đó tại vị trí tiếp theo.

Hai bàn tay Tiểu Đường chuyển động đều thoăn thoắt, cho dù là đường thẳng
hay vòng cung thì mũi kim cũng đều giữ một khoảng cách nhất định và đều
tăm tắp, khiến người xem không thể rời mắt.

Cứ như thế, một lúc sau, trên mặt bàn đã xuất hiện hình ảnh của hai
bông hoa mai giống y hệt nhau, từ nét chấm cho tới mật độ phân bố, thảy
đều không thể tìm ra sự khác biệt.

Đây là lần đầu tiên Chung Hồng Đạt nhìn thấy tài nghệ của Tiểu Đường, nên ông không thể rời mắt khỏi hai bông hoa mai trên mặt bàn, tay miết
khẽ lên những cánh hoa còn miệng thi há hốc như đang được chứng kiến thứ gì kì diệu lắm. Mãi lâu sau ông mới vỗ đùi, quay sang nhìn Tiểu Đường,
phấn khích nói:

– Cô gái, thì ra là như thế, như vậy thì có thể giải thích được, đây chính là kỹ thuật khắc mai bằng hai tay.

Tiểu Đường khẽ thở dài, lắc đầu nói:

– Không phải, không phải đâu, kỹ thuật của cháu còn non kém lắm, mọi người hãy chú ý quan sát mà xem.

Chúng tôi cùng cúi đầu xuống mặt bàn, quan sát lại kỹ hơn thì mới
nhận ra, mặc dù hai bông hoa mai trông rất giống nhau, nhưng xét về chi
tiết, bông này vẫn nhỉnh hơn bông kia một chút, cánh hoa có phần không
được cân xứng, những đường vân hay độ lớn nhỏ của lỗ châm vẫn có sự khác biệt. Đặc biệt, ở vị trí những cánh hoa giao nhau, có sự lộn xộn trong
thứ tự sắp xếp, khiến góc bên trong có phần không thống nhất.

Tiểu Đường kể với chúng tôi đây là kỹ thuật khắc hình bằng hai tay,
nó được phân thành hai loại khác nhau: Một loại là khắc những hình dạng
giống nhau, còn loại kia là khắc những hình dạng khác nhau. Nói rồi, cô
bé nhấc hai cây kim lên, rồi dùng mũi kim bên tay trái quét qua một
đường ngang, sau đó dùng mũi kim bên tay phải miết thành một đường dọc.
Dừng trong giây lát, rồi hai tay Tiểu Đường lại thao tác cùng một lúc
tạo ra những đường nét có hình dạng và vị trí khác nhau.

Chỉ một lát sau, Tiểu Đường dừng mũi kim, trên mặt bàn giờ đây lại
xuất hiện hình bông hoa cúc với đầy đủ thân lá, đang đung đưa trước gió.

Thì ra mũi kim bên tay trái khắc bông hoa, còn mũi kim bên tay phải
khắc thân lá, cuối cùng chụm lại tại một điểm. Phải nói đây là kỹ thuật
có một không hai, khiến những người chứng kiến cũng không dám
tin vào mắt mình.

Tiểu Đường quay sang giải thích, đây là nghệ thuật thiên biến vạn hóa với rất nhiều phương pháp thao tác khác nhau, nhưng vẫn phải tuân theo
một quy tắc chung, đó là phải kết hợp nhuần nhuyễn và thống nhất giữa
bốn yếu tố là Kim – Thế – Tâm – Vật. Cũng có nghĩa là, các đầu ngón tay, cách chuyển động mũi kim, sự ước lượng, trí tưởng tượng cùng kết cấu
của vật thể luôn phải được xác định rõ ràng, luôn phải đi cùng nhau
không bao giờ tách rời. Chỉ cần lơ là một trong bốn yếu tố trên thì nhất định không thể nào khắc được một hình mẫu lí tưởng.

Nói đến đây, Tiểu Đường khẽ chỉ tay lên mặt bàn, nói một cách chắc chắn rằng:

– Giả dụ hai tấm Long Bản này được xếp cạnh nhau, hai tay cháu có thể cùng thao tác một lúc, nhưng khi khắc sang mặt sau, nhất định phải lật
nó lại, khiến vị trí và góc độ mũi kim chắc chắn có sự chênh lệch, nên
không thể nào không có sự khác biệt giữa hai mặt, dù ít hay nhiều. Không ai có thể thực hiện được thuật khắc Xoay vòng này hoàn hảo cả.

Có chăng vẫn còn một khả năng khác, đó là treo hai tấm Long Bản này
lên, phía dưới có thêm một vật hỗ trợ giữ yên vị trí, rồi người thợ xăm
sẽ đi vòng quanh chúng.

Tiểu Đường bật cười rồi nói:

– Không thể nào, người xưa thường nói “lực từ dưới đất”, cơ thể và
mặt đất không thể tách rời, nghệ thuật xăm hình cũng thế, chân không
vững thì sẽ khiến tâm thế xáo động theo.

Chúng tôi quay sang nhìn nhau, không nghĩ rằng nghệ thuật xăm hình
lại có nhiều quy định chặt chẽ đến vậy. Chung Hồng Đạt vân vê cằm, nhận
định:

– Từ trước đến nay ta lại nghĩ xăm hình chi đơn thuần là dùng mũi kim và mực để xăm lên da thịt.

Tiểu Đường mỉm cười:

– Cái này không hề đơn giản như chú nghĩ đâu. Đến mực để xăm hình
cũng được phân ra làm rất nhiều loại, phải dựa vào đặc tính của vật cần
xăm mà chọn ra loại mực phù hợp, và mỗi hình xăm lại kết hợp với một
loại mũi kim khác nhau.

Nói rồi, cô bé giở bọc kim ra cho chúng tôi xem.

Bên trong bọc là rất nhiều hộp to nhỏ đủ màu sắc, Tiểu Đường lấy ra
một chiếc túi màu hồng nhỏ bằng nắm tay, bên trong cắm đầy những mũi kim to nhỏ, ngắn dài khác nhau; ngoài ra trên miệng túi còn cài chặt những
mũi kim màu bạc, màu vàng. Cô bé rút một mũi kim bạc, mỏng như sợi tóc
từ miệng túi ra, đảo mắt một vòng, rồi bất ngờ đâm mũi kim về phía Chung Hồng Đạt, hét lớn:

– Chết này!

Chung Hồng Đạt sợ hãi kêu thất thanh, bật người ra phía sau. Tiểu Đường vội dừng lại, cười khoái chí:

– Ối giời! Cháu chỉ trêu chú chút thôi, đây là chiếc kim mà cháu yêu thích nhất đấy, cái này không dùng với chú được.

Lúc đó, tôi chỉ nghĩ Tiểu Đường đang nói đùa thật, cái kim vừa bé tí
vừa ngắn ngủn, rơi xuống đất là mất luôn, thì có gì mà đặc biệt.

Nhưng sau này, khi chúng tôi vào bên trong Cổ Tháp Cẩm Châu, gặp phải rất nhiều cửa ải nguy nan, tôi mới nhận ra rằng đó là một bảo bối hiểm
có.

Những lời nói của Tiểu Đường khiến tôi phải khẳng định một điều rằng
hai tấm Long Bản kia nhất định không phải do cùng một nghệ nhân tạo ra,
nhưng tại sao chúng lại giống nhau đến như vậy, đó vẫn là một điều bí
ẩn.

Sau khi Lão Mục lau sạch mặt bàn, Chung Hồng Đạt mới mở một bọc da
khác, lôi ra một ống giấy cuộn tròn rồi phủ lên mặt bàn, thì ra đó là
bản thiết kế 3D của một ngọn tháp, mặt giấy đã hơi ố vàng, chứng tỏ nó
đã có từ rất lâu rồi.

Chung Hồng Đạt chỉ vào tấm bản đồ, nghiêm túc nói:

– Đây là bản thiết kế cấu tạo của Cổ Tháp Cẩm Châu mà Cục An ninh
Quốc gia đã phải nhờ tới sự giúp đỡ của Cục Quản lý Di sản Văn hóa Trung Quốc mới có được.

Máu tò mò nổi lên, tôi liền nói:

– Cục trưởng Chung, có phải anh muốn chúng tôi nghiên cứu ngọn tháp này?

Chung Hồng Đạt gật đầu:

– Không sai, đấy chính là ý định của tôi. Cổ Tháp Cẩm Châu được xây
dựng ròng rã trong ba năm, là nơi bảo tồn những báu vật mà hoàng hậu để
lại, đây cũng được coi là di sản cấp hai của quốc gia. Các chuyên gia
khảo cổ và các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát tìm hiểu nó từ ngay
sau ngày giải phóng, bên trong chắc không có gì, vấn đề là ở bên dưới.
Tiêu Vi là người có liên quan trực tiếp nên tôi nghĩ tốt nhất là giao
việc này cho cô, Lão Mục và Tiểu Đường sẽ đi cùng để hỗ trợ. Có thể tìm
ra câu trả lời hay không, xem ra phải nhờ đến bản lĩnh của ba người rồi.

Tôi khẽ gật đầu, được người dày dặn kinh nghiệm như lão Mục hỗ trợ
thì không còn gì tốt hơn, thế nhưng nếu đem theo cả Tiểu Đường, một cô
gái ngây thơ yếu đuối đi cùng, chỉ e chúng tôi lại phải vất vả bảo vệ
cho cô bé nữa. Nghĩ đến đó, tôi liền hỏi:

– Ngoài ba người chúng ta, còn ai nữa không ạ?

Chung Hồng Đạt khẽ mỉm cười, vừa cuộn bản thiết kế lại vừa nói:

– Đừng mong đợi có thêm người khác, chỉ có ba người là cô, Lão Mục và Tiểu Đường thôi. Thậm chí khi đi cũng sẽ không có sự hậu thuẫn của các
đơn vị địa phương đâu, điều này là để đảm bảo thông tin không bị rò rỉ
ra ngoài và giữ bí mật tuyệt đối. Chuyện này chỉ có những lãnh đạo cấp
cao ở Cục An ninh Quốc gia và bốn chúng ta được biết.

Thấy tôi có vẻ lo lắng, Cục trưởng Chung liền cười vang và cố tình trêu chọc:

– Mọi người nhất định phải cẩn thật không để các di vật bị sứt mẻ hay thiếu sót gì đâu đấy, bằng không thì tôi cũng chẳng cứu được ba người
khỏi tội cố tình phá hoại và đánh cắp báu vật quốc gia đâu.

Sau lần nói chuyện đó, không thấy Chung Hồng Đạt tới gặp chúng tôi
nữa. Lão Mục thì bận rộn thu xếp công việc trước khi tới Cẩm Châu nên
cũng không tới. Chỉ có tôi và Tiểu Đường quanh quẩn ở ngôi biệt thự, cả
ngày chỉ ăn, ngủ, lên mạng rồi xem ti-vi.

Cho tới một ngày, khi tôi và Tiểu Đường đang ngồi ăn sáng thì cô bé
bỗng nhiên nhắc đến Tống Nguyệt Uyên. Tiểu Đường nói rằng tôi dạo này
thường xuyên bị đau nửa đầu, thử đến gặp Tống Nguyệt Uyên xem sao. Tôi
biết căn bệnh này xuất phát từ thói quen thường xuyên thức khuya, để lâu sẽ có hại đến sức khỏe nên cũng muốn chữa trị cho khỏi hẳn, vì vậy đã
hỏi Lão Mục địa chỉ phòng khám của Tống Nguyệt Uyên, và nhờ anh ta cử
người đưa chúng tôi tới đó.

Phòng khám của Tống Nguyệt Uyên nằm trên con đường từ khu Xương Bình
tới Hồi Long Quan, cách chỗ chúng tôi không xa lắm nên không cần lái xe, đi tàu điện ngầm tuyến 12 một lúc là tới, vừa để ra ngoài thay đổi
không khí vừa để biết đường phố Bắc Kinh ra sao.

Hành khách trên tàu điện ngầm đông nghịt, tiếng nói chuyện, tiếng
động cơ, tiếng loa phát thanh khiến cho không gian xung quanh trở nên vô cùng ồn ào hỗn loạn. Tôi và Tiểu Đường như lọt thỏm giữa đám người đông như kiến cỏ, đành cố gắng nắm chắc tay vịn, quay đầu ngắm nhìn khung
cảnh bên ngoài, thỉnh thoảng quay sang nói với nhau vài câu chuyện
phiếm. Hai đồng chí được Lão Mục cử đi theo vẫn đứng phía sau chúng tôi.

Khi đoàn tàu đang chầm chậm dừng lại, tiếng loa phát thanh vang lên
thông báo đã tới ga Long Tắc, và chuẩn bị tới ga tiếp theo là ga Hồi
Long Quan, Tiểu Đường bỗng nhiên thốt lên một tiếng, rồi với tôi một câu không đầu không đuôi:

– Chị Tiêu Vi, chị không thấy có nghĩa gì sao?

Tôi ngơ ngác quay sang, hỏi lại:

– Nghĩa gì là nghĩa gì?

Tiểu Đường hơi chau mày lại, trả lời với vẻ ngập ngừng:

– Chính là… Hồi…

Vừa nói đến đó, cánh cửa tàu tự động bật mở, hành khách dưới ga lại ùn ùn kéo lên, đẩy chúng tôi tụt hẳn vào bên trong.

Sau khi tìm được chỗ đứng thích hợp, tôi liền quay sang hỏi lại Tiểu
Đường. Cô bé chỉ lặng im sau đó lại liến thoắng trả lời không có chuyện
gì cả. Thế nhưng nghĩ đến sắc mặt cô bé lúc nãy, chắc chắn là đã nghĩ ra chuyện gì đó. Tôi cũng không cố gặng hỏi gì thêm, chỉ thấy rất kỳ lạ.
Hồi gì nhỉ? Lẽ nào chính là Hồi Long Quan?

Sau này nghĩ lại hoàn cảnh lúc bấy giờ, tôi luôn tự trách mình sao
lúc đó đầu óc lại phản ứng chậm chạp đến như thế, từ mà Tiểu Đường lỡ
thốt ra chính là từ khóa vô cùng quan trọng, tôi đã quá ngờ nghệch khi
bỏ qua nó.

Chúng tôi đứng thêm một lúc nữa rồi xuống ga Hồi Long Quan. Sau khi
ra khỏi ga, hai chị em hỏi thăm những người đi đường thì mới biết làng
Hồi Long Quan cách đây một đoạn đường khá dài nữa, nên chúng tôi quyết
định bắt taxi cho nhanh.

Ngôi làng này đang được quy hoạch đổi mới nên có khá nhiều tòa nhà
cao tầng mọc lên khắp nơi, duy chỉ còn một vài căn nhà mái bằng ở phía
Tây Bắc là còn giữ vẻ dân dã, trong số đó có phòng khám của Tống Nguyệt
Uyên.

Đó là căn nhà thấp lè tè có kết cấu như tứ hợp viện Bắc Kinh, phía
bên ngoài là lớp tường gạch cũ đã nham nhở gần hết, chứng tỏ căn nhà này đã rất lâu đời, nhưng vẫn lưu giữ được những nét độc đáo của kiến trúc
một thời. Cửa chính sơn đỏ đang hé mở, trên cánh cửa là hai vòng đồng to gần bằng miệng bát, sáng bóng. Phía trên là một tấm biển bằng gỗ có
khắc ba chữ: Cửu Khiếu Đường.

Tiểu Đường ngẩng đầu, nheo nheo đôi mắt quan sát thật kỹ tấm biển hiệu, rồi quay đầu sang nói nhỏ với tôi:

– Cái tên này có điều gì đó rất cổ quái.

Tiểu Đường giải thích, theo thuật ngữ Đông y, cửu khiếu tức là chỉ
chín lỗ trên cơ thể người gồm: Hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng,
đường niệu đạo phía trước và hậu môn phía sau. Trong nghệ thuật xăm hình cũng có câu ý tương tự”Văn khắc thân hình, biến thể trước mặc”, nhưng cũng có Cửu cấm, có nghĩa là không được xăm tại chín điểm này, nếu không sẽ phải nhận tai họa.

Tôi đứng như trời trồng, vô thức đưa tay lên miết theo viền môi:

– Biết như thế là phải tội, nhưng đến con ngươi cũng có thể xăm sao? Lại còn niệu đạo, hậu môn nữa… đúng là chuyện tiếu lâm.

Thấy tôi thắc mắc như vậy, Tiểu Đường chỉ cười khúc khích, rồi nói:

– Đấy là bí mật. Thôi! Chúng ta vào trong đi!

Chúng tôi đi vòng qua bức tường gạch bao xung quanh, mỗi viên gạch
ghép với nhau tạo thành một bức tranh phong cảnh sinh động. Bước vào bên trong, trước mắt chúng tôi là một khoảng sân lớn vuông vức, dưới nền là những phiến đá lớn màu xanh rêu, mỗi phiến rộng chừng hai mét vuông,
ngoài một lỗ sâu ở chính giữa thì không có thêm bất cứ chi tiết nào
khác, khiến không gian trở nên trống trải và rộng thênh thang.

Tôi ngó nghiêng quan sát bốn phía thì phát hiện ra một điểm rất kỳ
lạ, các phòng trong tứ hợp viện dù là phòng chính hay buồng nhỏ đều
không có cửa sổ, tất cả cửa ra vào đều treo một tấm rèm dày màu đen,
khiến không gian bên trong kín như bưng, không một tia sáng nào lọt qua.

Chúng tôi dặn hai đồng chí cảnh sát đi cùng đứng bên ngoài, chỉ có
tôi và Tiểu Đường bước lên bậc thềm, đưa tay vén bức rèm vải rồi từ từ
mở cánh cửa gỗ. Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra không một tiếng động, có vẻ như tấm bản lề vừa được tra thêm dầu. Bỗng nhiên, trong bóng tối, một giọng nói yếu ớt khẽ phát ra:

– Hai người mau vào đi, bên ngoài lạnh lắm!

Giọng nói nghe rất trẻ trung, ước chừng người này chỉ trên dưới hai mươi tuổi.

“Soạt!” khoảng không tối om trước mắt bỗng vụt sáng, không gian bên
trong khá rộng, có một cô gái đang ngồi trong góc khuất cạnh chiếc bàn
trà, trên mặt bàn là ngọn nến đang cháy, cô gái đang hướng mặt về phía
cửa ra vào. Dưới ánh nến phập phồng, khuôn mặt của Tống Nguyệt Uyên
trắng bệch, lặng yên bất động, một tay vẩy mạnh que diêm để tắt lửa.

Tôi khẽ chau mày, trong lòng không ngừng thắc mắc, liệu cô gái này có bình thường không, đang giữa ban ngày mà lại ngồi một mình trong căn
phòng tối om, lại còn đốt ngọn nến, thật đúng là khác người.

Đang miên man suy nghĩ, bất chợt tôi nhận ra, vừa xong cô ấy nói “hai người vào đi”, chủ ngữ rõ ràng là “hai người”, trong khi tôi và Tiểu
Đường đều đi giày bệt, bước đi rón rén, lại chưa vào trong phòng, vậy
tại sao cô ấy lại nhận ra có hai người?

Do lần đầu trực tiếp gặp mặt, nên tôi cũng giữ lễ không hỏi nhiều và
cũng không nghĩ linh tinh, chỉ kéo tay Tiểu Đường bước vào trong. Dưới
ánh nến le lói, tôi liếc qua căn phòng, cả bốn bức tường đều là những tủ sách lớn, bên trên xếp kín những tầng sách lớn bé. Kỳ lạ là không khí
trong phòng khá lạnh, hình như bên trong này không hề dùng lò sưởi. Tống Nguyệt Uyên khẽ quay người sang, cất tiếng:

– Ngồi xuống đi, chúng ta đã từng gặp nhau rồi!

Tôi giật mình lần thứ hai, vẫn biết người mù thường có thính giác rất nhạy, nhưng nhạy tới mức độ này thì quả thật không bình thường chút
nào, tôi không nén nổi tò mò liền cất tiếng hỏi:

– Làm… làm sao cô biết chúng ta đã gặp nhau?

Tống Nguyệt Uyên khẽ nở nụ cười, tay trái chỉ về hai chiếc ghế gỗ, ý mời chúng tôi ngồi xuống đó, rồi mới nhẹ nhàng nói:

– Em nhận ra tiếng bước chân của hai người khi gặp nhau ở khu an dưỡng Hương Sơn.

Nghe thấy vậy tôi càng cảm thấy kỳ lạ hơn, đến mức không dám tin đó
là sự thật, thính giác của người này thật quá mức tưởng tượng, cấp độ
này chắc chỉ cao thủ võ lâm mới đạt được. Tôi trộm nhìn đôi mắt của cô
gái này, con ngươi vẫn đứng yên không chút động tĩnh, quay sang nhìn
Tiểu Đường, cũng chỉ bắt gặp khuôn mặt ngỡ ngàng, cô bé nhìn tôi khẽ lắc đầu khó hiểu.

Trong mọi cảm giác của con người về vạn vật xung quanh, thì phải đến
tới chín mươi phần trăm là nhờ con mắt. Trước đây mỗi lần lấy khẩu cung
phạm nhân, ngoài những lời khai, tôi còn cực kỳ để ý đến ánh mắt của họ, để từ đó phán đoán ra cốt lõi sự việc. Trong lúc trực tiếp nói chuyện
với nhau, sau khi người nói thực hiện một hành động nào đó, hai mắt của
người nghe sẽ nhận tín hiệu trước tiên, sau đó mới đến não bộ và tứ chi; giống như khi gặp ánh sáng chói, con người ta sẽ tự động phản xạ bằng
cách co đổng tử lại, hay khi trời lạnh, chúng ta sẽ thấy nổi da gà. Đây
đều là những phản ứng vô điều kiện trong cuộc sống thường nhật, trong
bất cứ hoàn cảnh nào ta cũng không thể cố tạo ra chúng.

Nghĩ vậy, tôi càng tò mò hơn, liền nghĩ cách để thử Tống Nguyệt Uyên. Tôi giả vờ như đang điều chỉnh tư thế ngồi, tiện lúc xoay ghế, khẽ dậm
chân lên mặt sàn.

Nghe thấy tiếng động, Tống Nguyệt Uyên liền phản ứng, khẽ quay đầu
hướng về phía tiếng động phát ra, chứng tỏ cô đang chú ý lắng nghe,
nhưng đôi mắt thì vẫn bất động, không hề có dấu hiệu của sự quan sát.

Lúc đó tôi mới tin rằng cô bị mù thật. Nhưng có một điều khác thu hút sự chú ý của tôi, đó là bàn tay phải của Tống Nguyệt Uyên luôn để trên
mặt bàn trà, năm đầu ngón tay liên tục chuyển động và gõ đều trên mặt
bàn, giống như đang đánh đàn hay gõ máy tính gì đó, tuy không phát ra
tiếng động nhưng lại rất có quy luật.

Tôi khẽ lắc đầu, trong bụng nghĩ rằng, dù cô có nhìn thấy hay không
thì cũng không quan trọng, miễn là tìm ra bệnh giúp tôi, nên đã chủ động cất lời:

– Tôi nghe nói cô châm cứu rất giỏi, nên hôm nay tìm đến đây để bắt
bệnh, tôi thường xuyên bị đau nửa đầu, cũng khoảng ba bốn năm nay rồi.

Tống Nguyệt Uyên khẽ mỉm cười, bảo tôi đưa tay ra để cô bắt mạch.

Tôi khẽ quay người, xắn tay áo lên rồi đưa tay ra, đặt lên mặt bàn
lạnh buốt. Theo ấn tượng của tôi về những lần khám trước đây ở phòng
khám đông y, các thầy thuốc đều đặt đầu ngón tay lên mạch cổ tay bệnh
nhân để bắt mạch; nhưng Tống Nguyệt Uyên lại chỉ ngửa bàn tay tôi lên,
rồi dùng đầu móng tay của ngón trỏ và ngón giữa khẽ đặt lên cổ tay tôi.
Móng tay của cô ấy rất mềm nhưng lạnh buốt như đá, vừa mới đặt lên cổ
tay thôi, tôi đã không nén nổi tiếng xuýt xoa.

Dưới ánh nến tranh tối tranh sáng, bàn tay của Tống Nguyệt Uyên càng
trắng bệch lạnh lẽo, lòng bàn tay trơn mịn, không hề có đến một đường
vân.

Tôi chợt giật mình hoảng hốt, khẽ rụt đầu, nghi hoặc. Tống Nguyệt Uyên như nhận ra thái độ này của tôi, liền mỉm cười:

– Kỳ lạ phải không? Từ khi sinh ra tôi đã không có đường vân tay rồi, đây cũng là một loại bệnh, nhưng không sao, tôi quen rồi, nó giúp tôi
bắt mạch rất tốt.

Tôi khẽ nuốt nước bọt, hai mắt mở to nhìn cô chằm chằm, đây đúng là
thần diệu, chỉ cần dựa vào tiếng động phát ra là có thể phán đoán được
tâm lý và suy nghĩ của người khác một cách chuẩn xác.

Tống Nguyệt Uyên nhoẻn miệng cười, không nói gì, hai tay lấy một
chiếc bọc ra, rút lấy một cuộn da đã cũ, đặt lên trên mặt bàn. Sau khi
cô mở cuộn da đó ra, tôi thật sự ngạc nhiên khi nhìn thấy bên trong là
hàng trăm mũi kim màu trắng bạc được xếp ngay ngắn thẳng hàng. Chúng có
rất nhiều chủng loại, to có nhỏ có, dày có mỏng có, ngắn có dài có,
nhưng đều có điểm chung là mũi kim nhọn hoắt.

Đầu ngón tay cô lướt qua một lượt các mũi kim, rồi ngẫu nhiên chọn ra một chiếc, tay kia cầm một chiếc lọ sứ nhỏ, sau khi cắm mũi kim vào
trong chiếc lọ, Tống Nguyệt Uyên lắc nhẹ sang hai bén, lúc lấy ra mũi
kim đã được bọc một lớp sáp trắng trên khắp bề mặt. Trong cả quá trình,
mọi công đoạn đều được thực hiện một cách thuần thục và liền mạch trong
nháy mắt, thậm chí đến những người sáng mắt cũng khó có thể thực hiện
nổi.

Trong đầu tôi vẫn không ngừng dâng lên một cảm giác rất lạ, cách sử
dụng những mũi kim và cách thao tác của Tống Nguyệt Uyên rất giống với
Tiểu Đường. Nghĩ đến đó, tôi liền quay đầu nhìn về phía Tiểu Đường, bắt
gặp ánh mắt cô bé cũng đang chăm chăm quan sát Tống Nguyệt Uyên, vẻ mặt
để lộ sự kinh ngạc và kì quái không kém.

Tống Nguyệt Uyên đưa mũi kim lên trước mặt, miệng lẩm nhẩm điều gì
đó, nhưng âm thanh vô cùng nhỏ, tôi không thể nhận ra cô đang nói điều
gì. Tôi vô cùng hoảng hốt khi nhận ra hành động này của cô sao lại giống Tiểu Đường đến thế.

Tống Nguyệt Uyên đứng dậy, lần bước tới trước mặt tôi, với tay lấy
chiếc bát sứ nhỏ màu xanh nhạt đưa cho tôi để tôi giơ lên sát má.

Tôi cầm chiếc bát sứ, chỉnh lại tư thế ngồi, rồi liếc mắt quan sát khuôn mặt Tống Nguyệt Uyên.

Khoảng cách bây giờ đã rất gần, tôi có thể nhận thấy nước da của cô
rất trắng, ngũ quan sắc nét, giống như khuôn mặt của búp bê sứ, mong
manh và dễ vỡ, trên cơ thể của cô toát ra một mùi hương nhè nhẹ.

Tống Nguyệt Uyên giơ tay trái ra, đặt nhẹ ngón cái lên huyệt thái
dương của tôi, dùng lực ấn hơi mạnh. Cô dựa vào chiếc bàn trà phía sau
lưng để đứng cho thật vững, tay phải đang cầm chiếc kim từ từ hạ xuống
rồi cắm đúng vào mạch. Tôi cảm thấy nơi huyệt thái dương bị chích khẽ
nhói đau, ngay lập tức một dòng chất lỏng chảy dần xuống má, từng giọt
từng giọt nhỏ tí tách vào bên trong bát sứ.

Các ngón tay của Tống Nguyệt Uyên không ngừng vê tròn mũi kim, nhẹ
nhàng ấn mũi kim vào sâu hơn, trong khi máu vẫn đang chảy thành dòng
xuống má, thì đầu óc tôi bỗng trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều, giống như có một làn nước ấm áp đang lan tỏa khắp nơi, khiến những chỗ đau trước
đây trở nên sảng khoái một cách khó tả.

Tống Nguyệt Uyên vừa điều khiển mũi kim vừa lẩm nhẩm điều gì đó mà
tôi nghe không hiểu lắm, nhưng có thể tổng kết lại bằng bốn từ: Suy
nhược thần kinh.

Chỉ vài phút sau, máu từ thái dương đã chảy được gần lưng chiếc bát nhỏ, màu đỏ thẫm, sanh sánh và đang dần đông đặc lại.

Tống Nguyệt Uyên khẽ rút mũi kim ra từ từ, rồi dặn dò tôi:

– Chị hãy bớt thức khuya và cố ăn nhiều đồ bổ dưỡng cho trí não.

Tôi gật đầu, đặt chiếc bát đựng máu xuống mặt bàn, đứng dậy thò tay vào túi áo rút ví tiền ra và nói:

– Của tôi hết bao nhiêu tiền?

Tống Nguyệt Uyên khẽ lắc đầu, mỉm cười nói:

– Không cần đâu, chuyện nhỏ thôi mà!

Trước lúc rời đi, tôi và Tiểu Đường lần lượt bước tới bắt tay chào
tạm biệt cô. Tôi nhận thấy lúc Tiểu Đường bắt tay Tống Nguyệt Uyên, toàn thân hai người khẽ rung nhẹ, vẻ mặt biểu lộ một sắc thái hết sức kỳ
quái.

Tiểu Đường nhìn Tống Nguyệt Uyên thêm vài lần nữa trước khi rút tay
lại, cũng không nói năng gì, chỉ quay đầu kéo tay tôi vội vàng bước thật nhanh ra khỏi cửa. Khi đóng cánh cửa lại, tôi không nén nổi tò mò nên
đã quay đầu nhìn thêm một lần nữa, nhưng Tống Nguyệt Uyên đang án binh
bất động trên ghế, khẽ cúi đầu xuống như suy ngẫm điều gì đó rất nhập
tâm, nên tôi không thể nhìn thấy vẻ mặt của cô lúc đó.

Phải đến tận sau này, tôi mới biết tại sao lúc đó khi hai người họ
bắt tay nhau lại có phản ứng mãnh liệt đến vậy. Nội tình ẩn chứa sâu xa
bên trong đó khiến tôi không thể nào đoán ra được.

Khi chúng tôi vừa bước ra khỏi cổng, thì đúng lúc có một chiếc xe
ô-tô bảy chỗ màu đen đỗ xịch trước mặt, chiếc xe mang biển số W của Tứ
Xuyên, chứng tỏ nó từ Tứ Xuyên tới nhưng không rõ từ thành phố nào. Sau
khi cánh cửa xe được mở ra, một người bước xuống, ngó nghiêng nhìn ra
xung quanh.

Đó là một người phụ nữ trẻ, chắc cũng trạc tuổi tôi, ăn vận hết sức
giản dị. Người này có dáng hình mảnh khảnh, các nét trên khuôn mặt rất
thanh tú nhưng lại hết sức nghiêm nghị.

Tôi chỉ nhìn qua là đã có thể đoán ra, người này chắc chắn là cảnh
sát, hơn nữa còn là một cảnh sát hình sự chuyên nghiệp. Vốn trong nghề
đã nhiều năm, tiếp xúc với rất nhiều dạng người, vẻ sắc sảo và nghiêm
nghị trên khuôn mặt của cô ấy không xa lạ gì với tôi, nên chắc chắn
không thể nhầm.

Đúng lúc đó, cô ấy cũng quay đầu nhìn về phía chúng tôi, đôi lông mày khẽ cau lại. Qua biểu lộ sắc thái đó, tói đoán rằng cô ấy cũng đang có
những suy nghĩ giống mình, hoặc là hai chúng tôi có thần giao cách cảm.

Mặc dù thấy hơi lạ, nhưng lúc đó tôi không suy nghĩ gì hơn, với tay
gọi một chiếc taxi rồi lên xe quay về. Sau khi chiếc taxi đi dược khoảng hơn chục mét, tôi vô thức quay đầu lại thì thấy cô gái đó đang đỡ một
người từ trong xe bước ra, người đó có vẻ ngoài to béo, khoác một chiếc
áo choàng dài màu xanh đậm, bước chân liêu xiêu, đang dò dẫm từng bước
vào trong sân, có vẻ như người này không nhìn thấy gì, chắc là bệnh nhân tới để chữa bệnh.

Trên suốt chặng đường về, Tiểu Đường ngồi im một chỗ không nói năng
gì, đôi mắt nhìn thẫn thờ ra ngoài cửa sổ như đang miên man suy tư điều
gì đó. Tôi đã vài lần hỏi cô bé rằng vì sao lúc hai người bắt tay lại có phản ứng khác lạ như vậy, nhưng Tiểu Đường vẫn lặng yên, không hề quay
lại trả lời câu hỏi của tôi.

Tôi khẽ lắc đầu khó hiểu, cảm thấy những cô gái có khả năng đặc biệt
đều rất khó hiểu, không hề giống với người bình thường chút nào.

Bỗng nhiên, tôi nhớ ra Tống Nguyệt Uyên là một người mù, vậy tại sao
trong phòng lại có nhiều sách đến như vậy. Nhưng khi nghĩ lại, tôi thấy
mình đúng là người lo xa, người ta có nhiều sách nhưng đâu nhất thiết
phải đọc nó, cũng có thể đó là do ông bà, bố mẹ họ để lại.

Nhưng phải nói rằng khả năng của Tống Nguyệt Uyên vô cùng đặc biệt,
mặc dù chỉ châm cứu cho tôi có một lần, nhưng từ đó trở đi, bệnh đau đầu của tôi không hề tái phát, thậm chí cả bệnh mất ngủ giờ cũng đã thuyên
giảm đi rất nhiều. Nếu sau này có cơ hội, nhất định tôi phải tìm gặp cô
để nhờ chữa bệnh kinh nguyệt không đều.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.