Khi
mới bắt đầu đi vào đây, tôi còn cảm thấy rất hào hứng thấy mình giống những chiến
sĩ đang đi lại trong chiến hào. Nhưng đi một đoạn dài, tay chân tôi đau nhức vô
cùng, toàn thân mỏi nhừ, mệt đến mức chỉ biết thở dốc. May sao không khí trong
đường hầm tương đối thoáng đãng nên không hề cảm thấy ngột ngạt, tôi cũng không
biết bộ phận thoát khí ở đây được thiết kế như thế nào.
Đường
hầm cứ thế thẳng tắp về đằng trước, cũng không đoán được nó dài bao nhiều, Hắc
Lão Ngũ sau đó cũng đóng chiếc gương Dạ Minh lại, khiến bốn phía xung quanh tối
om như mực. Chúng tôi không ai nói với ai lời nào, chỉ im lặng tiến tới phía
trước. Đi được gần hết đoạn đường hầm, tôi mệt đứt hơi, da tay da chân đều bị
xây xước, đang định bảo mọi người nghỉ một lúc, thì Hắc Lão Ngũ đang đi phía
trước bỗng dừng lại, hoan hỉ quay lại nói với chúng tôi:
–
Hai đứa, tới lối dẫn ra ngoài rồi!
Tôi
sung sướng phát điên, liền bước nhanh tới phía trước, cảm thấy đầu óc trống rỗng,
lập tức đứng thẳng dậy. Sau khi Lão Ngũ mở chiếc gương Dạ Minh ra, tôi thấy
mình đang đứng trong một không gian bị bao kín, bốn phía là bốn bức tường được
ghép bằng những tảng đá lớn, đối diện với miệng hầm chúng tôi vừa bước ra khỏi
là một cánh cửa bằng kim loại rất lớn, bên trên treo một chiếc khóa bằng sắt nặng
trịch to chừng hai bàn tay.
Đây
là loại khóa then mà người Trung Quốc ngày xưa rất hay dùng để khóa cửa nhà, nó
xuất hiện từ thời Xuân Thu, gồm thân khóa và thanh then (gần giống khóa hình
móng ngựa). Thân khóa thường là hình chữ nhật, thanh then hoặc chốt từ trên xuống
hoặc là chốt từ hai bên sang, khi thanh then khớp ren với thân khóa thì coi như
chiếc khóa đã bị phong tỏa, nó có kết cấu hơi giống với miệng cống thoát nước
nhưng nhỏ hơn rất nhiều. Chiếc khóa trước mặt tuy khá to nhưng thực ra lại rất
đỗi bình thường, nó có thanh then to bằng hai ngón tay, gốm hai đoạn nối với
nhau và mỗi đầu chốt vào một đầu chiếc khóa.
Lão
Ngũ tiến tới trước, với tay lên chiếc khóa kéo thử rồi mỉm cười khoái chí:
–
Mẹ kiếp, tưởng thế nào chứ, hóa ra là loại khóa tầm thường này, để ta giải quyết
cho! – Nói rồi lão nheo mắt, quan sát chiếc khóa một hồi lâu, bỗng lão chửi ẩm
lên. – Quỷ tha ma bắt, không có mắt khóa. Hay đấy, hay đấy!
Tôi
vội vàng chạy tới xem, quả nhiên đúng như lời lão nói, cả thân khóa là một màu
đen tuyền, bên trên điểm những vết hoen gỉ, nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy mắt
khóa đâu, tôi đoán đây có thể lại là một loại khóa biến thể.
Lão
Ngũ hơi nản lòng.
–
Mẹ kiếp, cứ tưởng là ngon ăn, mất mặt quá. Thôi, mi xử lí nó đi!
Tôi
mỉm cười, lấy ra một miếng kim loại, từ từ cạo hết lớp rỉ sét trên bề mặt chiếc
khóa. Thân khóa đúc bằng loại sắt tổng hợp, trừ phần bên trên cắm hai đầu thanh
then, bốn mặt còn lại của thân khóa mỗi mặt đều gắn hai thanh chốt màu đen rất
nhỏ, mài phẳng lì như chìm vào mặt khóa, nhìn trông rất khít. Phía dưới đáy khắc
những đường lượn sóng, đó là kết quả từ quá trình đúc ổ khóa tạo nên.
Tôi
suy nghĩ một chút rồi nhìn lại hai thanh then, bề mặt và chỗ nối của chúng là
những đướng xoắn ốc, đếm đi đếm lại chỉ vẻn vẹn có mười đường.
Đến
đây, tôi đã hiểu ra vấn đề, quay đầu sang nói với Lão Ngũ.
–
Thảo nào không có mắt khóa. Lão Ngũ xem đi, đây chính là khóa Bá Vương, hay còn
gọi là khóa Thập diện mai phục.
Lão
Ngũ xoắn xoắn mấy sợi râu trong tay rồi nói:
–
Nghe cái tên đã đủ thấy cổ quái rồi, nhanh chóng bắt tay vào mở thôi.
Chị
Giai Tuệ nói thêm:
–
Vừa là Bá Vương, vừa là Thập diện mai phục, xem ra nó nhất định liên quan tới Hạng
Vũ[1] rồi.
[1]
Hạng Vũ là một chính trị gia và là nhà quân sự kiệt xuất của nước Sở ( một nước
nhỏ của Trung Hoa cổ đại). Với tài năng và sự dũng mãnh của mình, ông được coi
là vị tướng xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc, từ Bá Vương cũng là danh
xưng dùng để gọi ông.
Tôi
gật đầu, tán thành:
–
Chị Giai Tuệ, chị đoán đúng rồi đấy, câu thành ngữ “Thiết tướng quân giữ cửa”
mà ngày nay mọi người hay dùng cũng bắt nguồn từ khóa Bá Vương này mà ra đấy.
Trước
đây tôi đã từng nghe ông nội kể rằng, khóa Bá Vương ra đời từ những năm đầu
tiên thời Đông Hán, nghe nói nó được một vị tướng quân dưới quyền của Sở Bá
Vương Hạng Vũ chế tạo ra. Vị tướng quân này vốn là một cao nhân chế tạo khóa,
sau đó chiêu binh đi theo Hạng Vũ. Sau khi Hạng Vũ bị đáng bại ở Ô Giang, ông
ta đã quyết định về ở ẩn, tách mình với thế giới bên ngoài và quay về với nghề
chế tạo khóa. Để tưởng nhớ vị tiên chủ, ông đã dựa vào loại khóa then truyền thống
để chế tạo ra loại khóa Bá Vương, được lưu truyền qua hàng nghìn năm.
Loại
khóa Bá Vương này gồm có mười thanh then vừa sáng vừa tối, ngụ ý chỉ trận Thập
diện mai phục do Hàn Tín bày binh bố trận. Trong đó, mặt dưới khóa không có
rãnh cũng không thiết kế then cài, mà chỉ có những đường lượn sóng, để ngầm ví
lần thua trận của Hạng Vũ ở Ô Giang, thà tự vẫn còn hơn phải lui về Giang Đông.
Do Hạng Vũ là đại tướng quân, nên loại khóa then này còn được gọi là Thiết tướng
quân, có thể lấy câu “Một người giữ cửa, vạn người khóa vào”[2] của Lý Bạch để
so về mức độ vô cùng khó mở của loại khóa này.
[2]
Trích trong bài Thực đạo nan của Lý Bạch.
Nghe
tôi giải thích xong, Lão Ngũ gật đầu vẻ rất thán phục.
–
Hạng Vũ quả đúng là anh hùng, thà chết vinh còn hơn sống nhục. Vậy mi thấy thế
nào, chiếc khóa này có dễ nhằn không?
Mặc
dù tôi không hề quay đầu nhìn lại chiếc khóa nhưng trước đây – khi dạy tôi mở
khóa, ông nội đã cho tôi thực hành rất nhiều với loại khóa then này, do đó tôi
nắm khá vững loại khóa này. Với khả năng hiện tại, tôi nghĩ nó cũng không khó
vượt qua lắm. Tôi liền lôi ra một sợi dây da lừa cực mảnh, nhờ Lão Ngũ và chị
Giai Tuệ mỗi người cầm một đầu rồi ra sức kéo sang hai bên, lấy miếng kim loại
vừa dùng cào mạnh lên sợi dây, phát ra tiếng ken két rất ghê tai. Tôi cứ cào
như thế khoảng hơn một trăm lần, sợi dây bắt đầu nóng ran trong tay, tôi gập
hai đầu sợi dây lại, cuộn tròn quanh thanh then có rãnh hình xoắn ốc, rồi dùng
sợi kim móc, từ từ nhét hai đầu sợi dây kia vào trong thân khóa, lợi dụng sức
nóng của sợi dây để ép chặt sợi dây vào đường xoắn ốc. Vẫn làm theo cách như thế,
tôi dùng bốn sợi dây da lừa khác ép chặt các đường xoắn ốc trên tám thanh then
còn lại. Sau đó buộc năm sợi dây da lừa thành một, cuốn chặt quanh thân khóa.
Sau
khi mọi khâu đã chuẩn bị xong, tôi ngồi xuống mặt sàn, dùng đầu kim cào thật
nhanh lên đường rãnh nhỏ tại điểm nối giữa hai thanh then màu đen trên thân
khóa với hi vọng lực tác động và sức nóng sẽ khiến sợi dây da lừa nới lỏng các
đường xoắn ốc, làm thanh then bật tung ra. Sau khi tám thanh then tối bị bật
ra, hai thanh then sáng còn lại sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Thế
nhưng cho dù tôi ngồi cào cho tới khi hai chân mỏi nhừ, các ngón tay đau nhức,
thì sợi dây da lừa cũng không hề nhúc nhích, tôi đã thử thay đổi mọi hướng
nhưng đường xoắn ốc vẫn không hề lỏng ra.
Sự
việc khiến tôi càng thêm rối trí, mồ hôi túa ra như tắm, đương lấy tay quệt mồ
hôi, bất chợt tôi nghĩ ra, một kế sách, liền vội vàng một tay đưa ổ khóa sát
lên tai lắng nghe, một tay tiếp tục cào mạnh lên nó.
Trong
lúc khóa phát ra một thứ âm thanh rất lạ, lục bục như tiếng nước chảy. Tôi lập
tức đoán ra, trong lõi khóa chứa đầy thủy ngân, những thanh then có đường xoắn ốc
chạy thẳng vào trong, nhưng do bên trong rất trơn, nên sợi dây da lừa cũng
không thể vặn được chúng.
Tôi
ngán ngẩm thở dài, xem ra chiếc khóa này cũng giống chiếc khóa Uyên Ương bọc
tâm giao ức, đều được đúc bằng hai loại kim loại khác nhau. Có điều bên trong
loại khóa Bá Vương này lại chứa thủy ngân, với khả năng trước đây của tôi thì
khóc có thể mở nổi.
Nghe
thấy tôi nói bên trong là thủy ngân, Lão Ngũ giật bắn mình, giơ tay kéo tôi ra,
vội vàng nói:
–
Thủy ngân độc hại lắm, tránh ra không lại bị trúng độc bây giờ.
Chị
Giai Tuệ cũng lao tới kéo mạnh tôi ra khỏi ổ khóa, dặn đi dặn lại dung dịch thủy
ngân rất dễ bốc hơi trong nhiệt độ thường, nếu hít phải sẽ rất độc cho cơ thể.
Tôi
lắc đầu, nói:
–
Không sao, thân khóa được bịt rất kỹ, ở tất cả miệng khe hở đều được bịt kín bằng
thạch cao để tránh rò thủy ngân ra ngoài.
Nói
đến đây, tôi chợt thấy do dự, nhưng trong đầu lập tức nảy ra phương pháo mở chiếc
khóa. Vì chiếc khóa này có vỏ đúc bằng sắt, bên trong bịt bằng thạch cao, lõi
trong cùng mới là thủy ngân, rõ ràng cấu tạo của chiếc khóa áp dụng nguyên lý
Ngũ hành tương sinh. Sắt và thủy ngân đều là kim loại, nhưng đồng thời thủy
ngân cũng có dạng lỏng như nước, thạch cao là khoáng sản nên có thể xem là một
dạng đất, hàm ẩn quan hệ tương sinh trong ngũ hành là “thổ sinh kim, kim sinh
thủy”. Nếu như tôi dùng thuyết tương khắc không chừng lại có thể mở được chúng.
Nghe
tôi nói cần dùng đến lửa, chị Giai Tuệ lập tức rút ra một chiếc bật lửa vỏ kim
loại màu trắng sáng, trên mặt trước chiếc bật lửa có khắc vài chữ tiếng Anh,
khi đó tôi không hiểu nó nghĩa là gì, nhưng sau này mới biết đó là tên nhẫn hiệu
bật lửa Zippo. Tôi bật thử vài cái, khi cảm thấy ngọn lửa đã vừa tầm, tôi mới
nhờ chị hơ đều lên thân khóa, đúng theo thuyết “hỏa sinh kim”.
Sau
đó, tôi lấy trong bọc ra một chiếc kim vót bằng gỗ anh đào. Nó là một loại gỗ rất
chắc được lấy từ Nhật Bản, đuôi kim nhô ra một đầu tròn, rất giống chiếc trâm
cài đầu của phụ nữ ngày xưa, nghe nói loại kim này bắt đầu được phái Kiện môn sử
dụng từ cuối nhà Đường, thời bấy giờ nó được Dương Quý Phi sử dụng làm trâm cài
tóc, nên người xưa còn gọi nó là trâm Quý Phi. Tôi dùng nó để gắp thạch cao ra,
cũng vừa ứng với thuyết “mộc sinh thổ”.
Tiếp
theo là thuyết “thổ sinh thủy”. Quanh chúng tôi đâu đâu cũng chỉ là đá, tìm đâu
ra đất bây giờ? Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng nhìn tới ngó lui từng ngóc ngách
hi vọng tìm ra chút đất, nhưng kết quả đến một nhúm cũng không có. Mặc dù hành
cung được xây dựng từ rất lâu rồi, thế nhưng bề mặt vẫn láng sạch tinh tươm, thậm
chí đến một hạt sạn cũng không có thì lấy đâu ra đất?
Chúng
tôi đang suy nghĩ tìm cách giải quyết thì Lão Ngũ bỗng vỗ đánh đét, nụ cười đầy
vẻ tinh quái, lão nói:
–
Không phải là không có đất, nhưng sẽ hơi bẩn một chút đấy. – Nói rồi lão thò
tay vào trong áo, giơ nách gãi gãi vài cái rồi xòe bàn tay ra, trong kẽ tay bám
đầy những cục ghét đen sì.
Tôi
nhăn mặt, mím chặt môi, không dám chạm vào chúng, vừa nhão vừa nhơn nhớt lại
còn bốc mùi thum thủm, chỉ muốn phát mửa.
Lão
Ngũ vẫn đứng bên cạnh nói thêm vài câu vẻ rất khoái chí:
–
Đây là vảy rồng của Lão Ngũ đấy, bình thường muốn lấy cũng không cho đâu.
Tôi
lè lưỡi, phục sát đất lão, không biết lão nghĩ gì mà gọi đấy là “vảy rồng”.
Quan
sát thấy đầu ổ khóa đã bị hơ nóng đỏ lên, tôi mới vê “vảy rồng” thành từng cục
nhỏ, lần lượt nhét vào những khe hở nơi tám thanh then nối với thân khóa, rồi
dùng đầu trâm Quý Phi cào nhẹ lên đó. Kim loại gặp lửa sẽ dãn nở ra, khiến các
đường khe cũng nhờ thế mà to hơn, nên việc nhét “vảy rổng” của Lão Ngũ vào cũng
dễ dàng hơn.
Tôi
thay một chiếc kim loại khác cào lên thân khóa, cảm giác như dung dịch thủy
ngân khi gặp “vảy rồng” đã dừng chuyển động. Trong lòng tôi mừng thầm, lập tức
tăng lực tác động lên cây kim cào mạnh thân khóa, thúc cho sợi dây da lừa từ từ
cuộn vào đường xoắn ốc trên tám thanh then. Khi cảm thấy sợi dây đã cuộn chặt
vào thanh then, tôi dùng một chiếc kim khác thắt tám đầu sợi dây da lừa thành một
nút thật chặt, rồi không ngừng kéo ra, đồng thời dùng một chiếc kim khác cào mạnh
lên thân khóa.
Hai
tay tôi liên tục thao tác mở khóa, cứ như vậy khoảng năm mươi phút, thì bỗng
nghe thấy tiếng động lách cách từ trong lõi vọng ra, đó chính là tiếng đường xoắn
ốc bị nới lỏng. Tôi lập tức thả chiếc kim đang cầm trên tay trái, và miết tay
lên thân khóa, tay phải vẫn cầm chiếc kim từ từ cậy thanh then tối, khiến chúng
nhô lên khỏi bề mặt khóa. Cứ như vậy cho tới khi thanh then thứ tám cuối cùng
cũng nhô lên, một tiếng “keng” vang lên, then sắt rơi xuống mặt sàn, để lộ ra
tám lỗ nhỏ vuông vức trên thân khóa.
Tôi
lấy kính chuyên dụng ra, nheo mắt nhìn thẳng vào bên trong, quả nhiên bên trong
đó là một chiếc hộp sắt nhỏ, trên mặt có hai miệng lỗ hình vuông, bị bịt chặt bởi
lớp thạch cao màu trắng, tôi đoán chắc rằng trong chiếc hộp đó chứa đầy dung dịch
thủy ngân.
Tôi
dùng đầu kim men theo đường khe để cậy lên, dần dần cuối cùng cũng mở được hai
bánh răng trên thanh then sáng. Cạch! Cả thân khóa rơi xuống sàn đá, chỉ còn lại
thanh then móc lủng lẳng trên cửa. Vậy là, chiếc khóa Thập diện mai phục coi
như đã mở xong.
Lão
Ngũ đá thân khóa rơi cạnh chân mình sang một bên, nói:
–
Nhóc con, khá lắm, đến khóa Bá Vương mà cũng không cản được mi. Hay đây, hay đấy!
Tôi
liền tỏ vẻ đắc ý, chọc chọc chiếc kim lên thanh then, định tháo chúng ra rồi mở
cánh cửa để vào bên trong.
Thế
nhưng, thật kỳ lạ, mặc dù thanh then đã tuột khỏi thân khóa, nhưng rơi xuống chừng
một đoạn thì nó dừng lại treo lơ lửng trước cánh cửa, lắc qua lắc lại va cả vào
cánh cửa phát ra âm thanh lục cục, rồi lại từ từ được kéo lên, giống như được nối
với một sợi dây cao su vô hình vậy.
Cả
ba chúng tôi đều hết sức ngạc nhiên, vội vàng ngồi sụp xuống để quan sát. Lão
Ngũ vội tóm thanh then lại để nhìn rõ hơn mặc dù biết thừa nó vẫn còn bỏng rát,
thì ra thanh then dính chặt vào mặt trong của cánh cửa bằng sợi dây tơ mỏng đến
nỗi khó có thể nhận ra, để đánh lừa người mở khóa lúc không để ý.
–
Lại trò gì nữa đây? – Lão Ngũ ra sức kéo sợi dây nhưng nó cứ thế giãn dài ra gấp
nhiều lần. – Ái chà, hay đấy, hay đấy… – Lão vừa nói vừa bước lùi ra đằng sau,
sợi dây cũng bị kéo mỗi lúc một dài hơn, nhưng không hề bị đứt mà chỉ nhẹ nhàng
giãn ra bay phất phơ.
Lão
Ngũ vừa thả tay ra, thân khóa liền rơi đánh cạch xuống mặt sàn, ngay sau đó
thân khóa dựng thẳng dậy dịch chuyển dần về phía cánh cửa, hai sợi dây tơ kia
cũng từ từ co lại.
Tôi
thấy vô cùng kỳ quái, hùng hổ bước tới cánh cửa ra sức kéo đẩy nhưng cánh cửa sắt
vẫn không một chút nhúc nhích, vẫn đứng lừng lững trước mặt tôi. Tôi suy nghĩ một
lúc, rồi lôi chiếc kim ra, cào sâu vào đường khe trên cánh cửa, đầu kim đi qua
một khoảng không ở giữa, rồi mới bị chặn lại bởi một bề mặt bằng đá tít sâu bên
trong.
Lão
Ngũ tỏ vẻ thiếu kiên nhẫn, tung người đạp mạnh chân lên cánh cửa.
–
Tránh ra, tránh ra để ta thử mở xem sao! – Lão đạp mạnh lên cánh cửa khiến tôi
có cảm giác mặt sàn bên phía dưới chân mình bỗng rung lên bần bật, nhưng ngay lập
tức dừng lại.
Đang
lúc chán nản, thì chị Giai Tuệ đứng đằng sau bỗng hét to.
–
Mọi người nhìn lên tường xem!
Tôi
lập tức hướng mắt nhìn lên bốn phía.
Không
biết tự khi nào, ba bức tường sau lưng chúng tôi đã xuất hiện những đốm nhỏ màu
trắng bạc, ban đầu nó chỉ là những điểm thưa thớt, nhưng sau đó xuất hiện dày đặc
hơn, giống như một bầu trời đầy sao, chúng càng ngày càng lớn dần lên và khuếch
tán một cách nhanh chóng, chỉ trong phút chỗ, cả bức tường đã biến thành một
màu trắng bạc sáng loáng. Hình bóng của chúng tôi khi đó bị chia thành hàng
trăm, hàng nghìn hình ảnh nhỏ xíu, lại còn không ngừng uốn lượn biến hình, giống
như chúng tôi đang đứng trong ngôi nhà gương vậy.
Lão
Ngũ tiến sát lại gần bức tường gương, lập tức lão nhảy dựng ra sau, hét toáng:
–
Mẹ kiếp! Thủy ngân! Khi nãy ta đá vào khóa nên giờ nó bắt đầu chảy ra rồi.
Nghe
đến thủy ngân bị rò, tôi hốt hoảng sợ hãi lùi người ra sau, dựa sát lưng vào
cánh cửa sắt, rồi bịt chặt mũi, vì sợ bị nhiễm độc. Tôi hãi hùng nhìn dòng thủy
ngân từ phía trong bức tường rò ra ngoài, chảy tràn xuống mặt sàn rồi từ từ tiến
về phía chúng tôi, giống như dòng thủy triều đang dâng vội vã.
Lão
Ngũ giậm chân giục giã, hối thúc tôi mau mở cánh cửa, dư vị chết chìm trong
dung dịch thủy ngân không hề dễ chịu tẹo nào đâu. Tôi cũng cuống cuồng, nhưng
tìm khắp mọi góc trên cánh cửa không thể nào tìm ra lỗ khóa. Trong lúc đang hốt
hoảng tôi chợt nghĩ ra hai sợi dây kia, liệu có điều kì diệu xảy ra không?
Nghe
thấy tôi nói vậy, chị Giai Tuệ lập tức lao tới giẫm chân lên sợi dây, kế đó
dùng một con dao nhỏ chuyên dụng lấy hết sức mình cứa mạnh lên sợi dây. Ken
két, ken két… Đến mặt sàn đá còn tóe ra tia lửa, vậy mà hai sợi dây tưởng chừng
rất mỏng manh kia vẫn không hề sứt mẻ gì.
Lão
Ngũ giọng hơi run run.
–
Mẹ kiếp, là… là… sợi tơ bà bà. Nhanh cắt chúng đi, hãy dùng chiếc hộp tích lực ấy.
Mặc dù không biết “sợi tơ bà bà” là cái gì,
nhưng giờ không phải là lúc hỏi, tôi lập tức lấy chiếc hộp tích lực ban nãy
dùng để cắt sợi dây tơ đính viên ngọc bạc trên tường Quy Tàng. Tôi nhanh chóng
đặt sợi dây da lừa lên lưỡi răng cưa, cuốn quanh một sợi tơ rồi lấy hết sức
xoay nút lên dây cót. Phải ra sức xoay một lúc sau, sợi tơ mới đứt phựt, thế
nhưng sợi dây da lừa cũng không còn trụ được lâu.
Tôi
quay đầu lại, cả hành cung đá bỗng chốc như biến thành phòng chứa thủy ngân,
dung dịch lóng lánh ấy chảy lan khắp mọi nơi, chỉ còn cách chân chúng tôi đứng
rộng chừng hai mét vuông là chưa bị tràn tới, nhưng diện tích đó ngày càng bị
thu hẹp lại.
Tôi
vội vàng thay một sợi dây da lừa khác, để cắt sợi dây tơ còn lại. Khi sợi dây
còn lại vừa đứt, tôi liền nghe thấy một âm thanh nhẹ phát ra, chiếc cửa sắt bỗng
nhiên bung mở vào bên trong. Do không chú ý, tôi đã bị cánh cửa va vào, loạng
choạng suýt ngã xuống dòng dung dịch thủy ngân đang lan tới phía sau.
Thấy
người mình sắp ngã ngửa ra phía sau, tôi hốt hoảng thốt ra một tiếng “mẹ kiếp”,
trong lúc chới với, hai tay tôi khua khoắng loạn lên. Lão Ngũ cực kỳ nhanh nhẹn,
vội giơ tay tóm lấy tôi, rồi đẩy chị Giai Tuệ, quát lớn:
–
Chạy, chạy nhanh đi! – Rồi cả ba chúng tôi vội bước qua cánh cửa sắt vừa mở được
một nửa, chạy thục mạng vào bên trong.
Phía
sau cánh cửa lại là một đường hầm bằng đá rất hẹp, bốn bức tường vuông vức, chạy
thẳng tắp và hơi nghiêng về phía trước. Mới chạy được vài bước, tôi đã cảm thấy
bước chân nặng nề như đang chạy trên một lớp keo dày, đi chưa được bao xa mà đã
thấy quá mất sức.
Tôi
quỳ xuống nhìn kỹ lại một lượt, mặt sàn như được phủ một lớp nhựa dẻo trong suốt,
phản chiếu ánh sáng lấp lóa. Tôi thử sờ tay lên đó, cảm giác nó mềm và dính giống
như kẹo kéo, thậm chí còn có mấy sợi tơ mỏng manh vương trên đầu ngón tay, đích
thị đây chính là những sợi tơ bà bà.
Lão
Ngũ lẩm bẩm câu gì đó, rồi nhổm người dậy lôi chiếc gương Dạ Minh ra soi lên
hai bên tường và phía bên trên đỉnh đầu. Tôi thấy cả bốn phía đều một màu trắng
đục, chăng đầy những sợi tơ bà bà, thì ra cả bốn bức tường của đường hầm đều bị
lớp lớp sợi tơ bọc kín.
–
Bà nó chứ, rơi đúng vào động bàn tơ rồi! – Lão Ngũ vừa lẩm bẩm chửi vừa cúi xuống
nhấc đôi giầy lên. Tôi thấy tò mò nên dùng đầu kim gẩy lên vài sợi, thấy chúng
mỏng manh chẳng khác những sợi tơ nhện bình thường là mấy.
Tôi
đang định quay sang hỏi Lão Ngũ thực hư sự tình thì chị Giai Tuệ bỗng lên tiếng
nhắc nhở:
–
Lão Ngũ, chúng ta nên đi nhanh lên, một chút nữa là thủy ngân sẽ chảy vào trong
này đấy.
Tôi
hốt hoảng quay lại phía sau, thấy bậc cửa cũng tương đối cao, nên tôi cũng an
tâm phần nào, để thủy ngân chảy được tới đây chắc cũng phải mất nửa ngày.
Không
thể nào! Tôi dụi dụi mắt, thật không thể tin được! Cả khung cửa lẫn bậc cửa giờ
đã biến sang màu trắng sáng giống như được khảm bạc, chỉ trong nháy mắt, đầu
bên kia đường hầm đã biến thành một chiếc ống bạc, cả bốn bức tường cũng nhuộm
mình trong màu trắng sáng lấp lánh của thủy ngân và chúng đang lao về phía
chúng tôi với tốc độ chóng mặt. Cảnh tượng diễn ra trước mắt tôi giống như tất
cả mọi vật xung quanh bỗng dưng bị đóng băng đột ngột.
Lão
Ngũ vỗ mạnh lên đùi, hốt hoảng nhảy dựng lên.
–
Mẹ kiếp! Chạy! – Lão thúc mạnh chúng tôi tiếp tục lao về phía trước, lực đẩy
quá mạnh khiến tôi ngã dúi về phía trước.
Tôi
lập tức đoán ra, dòng chảy thủy ngân này không dâng lên, mà nó men theo bốn bức
tường để vào đây. Trời ơi! Vậy thì loại thủy ngân này là sinh vật sống có chân
hay sao? Tại sao lại không chảy dưới mặt đất?
Thấy
tôi vẫn ngơ ngác, chị Giai Tuệ liền kéo tôi chạy về phía trước, gần như lấy hết
sức vừa chạy vừa đẩy lưng tôi, thế nhưng Lão Ngũ chạy sau cùng vẫn không ngừng
thúc giục.
–
Nhanh lên, nhanh lên… sắp chảy tới nơi rồi, sắp tới nơi rồi…
Do
mặt sàn dưới chân quá dính, nên khi giẫm chân xuống phải dùng một lực mạnh mới
có thể rút được chân lên. Tôi cắm đầu cắm cổ chạy miết, mệt đến đứt hơi, tim
như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, thở hồng hộc bằng mồm, thế nhưng càng cố sức
càng chạy chậm đi.
Lão
Ngũ có vẻ rối trí thực sự, nên khi chạy vượt qua tôi, lão cầm lấy tay tôi kéo cật
lực, lại thêm chị Giai Tuệ đẩy từ phía sau lưng, tôi mới chạy nhanh hơn một
chút.
Đường
hầm thẳng tắp chạy hun hút về phía trước, không có một lối quặt hay ngã rẽ, và
cũng không biết được chúng tôi còn phải chạy như vậy trong bao lâu nữa. Tôi vài
lần tò mò quay đầu lại phía sau xem xét, nhưng mỗi lần quay lại đều khiến tôi sợ
hãi vô cùng, dòng thủy ngân đó như đang rượt đuổi chúng tôi, chúng lan nhanh
chóng trên tường, chỉ cách chúng tôi khoảng hơn chục mét, còn phát ra một thứ
âm thanh rất lạ giống như đang có một đàn côn trùng đang tập hợp lại đây. Đoạn
đường hầm phía sau gần như đã biến thành một ống bạc lớn đang phát ra những tia
sáng long lanh.
Chạy
thêm hơn chục phút nữa, tôi thấy mình mệt tới mức không thể nhấc nổi chân lên,
đầu óc đau tới mức như muốn nổ tung, toàn thân không còn một chút sinh lực. Lúc
này tôi gần như phó mặc cho hai người họ xô đẩy về phía trước. Bỗng nhiên, tôi
chợt cảm thấy mặt đất dưới chân mình như cao dần lên. Tôi sung sướng hét to:
–
Hay… quá, nâng… lên rồi!
Lão
Ngũ nói mà không quay đầu lại:
–
Hay cái con khỉ, tới miệng hầm rồi!
Không
chờ cho tôi kịp phản ứng, Lão Ngũ bỗng dưng dừng phắt lại, hai chân đạp mạnh xuống
mặt sàn vài cái, rồi quay đầu lại nhìn chúng tôi với vẻ mặt dữ tợn:
–
Hai đứa, nắm chặt lất tay ta, chúng ta cùng bơi thôi!
Tôi
ngồi thụp xuống, há miệng thở dốc, ngẩng đầu nhìn về phía trước, toàn thân phút
chốc lạnh toát. Đúng là chúng tôi đã chạy đến miệng hầm, thế nhưng trước mặt
chúng tôi lại là một tảng đá lớn màu đen dựng sừng sững, bịt kín lối đi phía
trước. Tôi vội vã nhìn lại phía sau, dòng thủy ngân vừa đúng lúc lan tới đoạn dốc
vừa xong, cách chúng tôi chừng hai mươi mét thì dừng lại. Điều kỳ lạ là ở chỗ,
chúng không hề lan tới nữa, nhưng lại từ từ dầy lên, rồi hòa vào nhau thành một
đám, tạo nên những bong bóng rất lớn, khi bị vỡ, chúng phát ra tiếng lục bục